LÊÔ XIV
TÔNG THƯ IN UNITATE FIDEI
Nhân Dịp Kỷ Niệm 1700 Năm Công Đồng Nicêa
1.In Unitate Fidei – Trong sự hiệp nhất của đức tin đã được tuyên xưng từ buổi khởi đầu của Hội Thánh, các Ki-tô hữu được mời gọi cùng nhau tiến bước, gìn giữ và truyền lại với tình yêu và niềm vui ân ban đã lãnh nhận. Ân ban đó được diễn tả trong những lời của Kinh Tin Kính: “Chúng tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, từ trời xuống để cứu độ loài người chúng tôi”, được Công đồng Nicêa – biến cố đại kết đầu tiên trong lịch sử Ki-tô giáo – ấn định cách đây 1700 năm.
Khi tôi chuẩn bị thực hiện chuyến tông du tại Thổ Nhĩ Kỳ, qua Tông thư này, tôi ước mong khích lệ trong toàn thể Hội Thánh một sinh khí mới trong việc tuyên xưng đức tin, đức tin ấy với chân lý của mình đã trở thành gia sản chung của các Ki-tô hữu qua nhiều thế kỷ, xứng đáng được tuyên xưng và đào sâu trong một hình thức luôn mới mẻ và phù hợp với thời đại. Về điểm này, đã được chuẩn thuận một văn kiện phong phú của Ủy ban Thần học Quốc tế: “Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ. Kỷ niệm 1700 năm Công đồng đại kết Nicêa”. Tôi giới thiệu văn kiện này, vì nó cung cấp những viễn tượng hữu ích để đào sâu tầm quan trọng và tính thời sự của Công đồng Nicêa, không chỉ về mặt thần học và Giáo Hội, mà còn cả về bình diện văn hóa và xã hội.
2. “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”. Thánh Mác-cô đã mở đầu sách Tin Mừng của mình như thế, tóm kết toàn bộ sứ điệp dưới dấu ấn của phẩm tính làm Con Thiên Chúa nơi Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vậy, Tông đồ Phao-lô ý thức mình được gọi để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa về Người Con của Ngài, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta (x. Rm 1,9), Đấng là tiếng “xin vâng” dứt khoát của Thiên Chúa đối với những lời hứa của các ngôn sứ (x. 2 Cr 1,19-20). Nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời vốn là Thiên Chúa trước muôn đời và nhờ Người mà vạn vật được tạo thành – như lời tựa Tin Mừng theo thánh Gio-an nói – “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Nơi Người, Thiên Chúa đã trở nên Đấng thân cận với chúng ta, đến độ mọi điều chúng ta làm cho từng anh chị em mình là làm cho chính Người (x. Mt 25,40).
Thật là một sự trùng hợp đầy quan phòng: trong Năm Thánh này, được dành để chiêm ngắm niềm hy vọng là chính Đức Ki-tô, chúng ta cũng mừng kỷ niệm 1700 năm Công đồng đại kết thứ nhất tại Nicêa, đã tuyên xưng vào năm 325 đức tin nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Đây là trọng tâm của đức tin Ki-tô giáo. Cho đến hôm nay, trong Thánh lễ Chúa nhật, chúng ta vẫn tuyên đọc Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis, bản tuyên xưng đức tin hiệp nhất mọi Ki-tô hữu. Kinh Tin Kính này ban cho chúng ta niềm hy vọng giữa những thời khắc khó khăn chúng ta đang sống, giữa bao lo âu và sợ hãi, giữa những đe dọa chiến tranh và bạo lực, thiên tai, bất công trầm trọng và mất cân đối, nạn đói và cảnh bần cùng mà hàng triệu anh chị em chúng ta đang phải chịu.
3. Thời Công đồng Nicêa cũng chẳng yên bình hơn. Khi Công đồng khai mạc năm 325, những vết thương của các cuộc bách hại chống lại các Ki-tô hữu vẫn còn rớm máu. Chiếu chỉ khoan dung Milan (313) do hai hoàng đế Constantinus và Licinius ban hành báo hiệu bình minh của một kỷ nguyên hòa bình mới. Tuy vậy, ngay sau những đe dọa từ bên ngoài, các tranh luận và xung đột đã nhanh chóng nổi lên trong lòng Hội Thánh.
Ariô, một linh mục ở thành Alexandria bên Ai Cập, dạy rằng Đức Giê-su không thật sự là Con Thiên Chúa, cho dù Người không phải chỉ là một thụ tạo; Người chỉ là một hữu thể trung gian giữa Thiên Chúa khôn dò và chúng ta. Hơn nữa, đã có một thời “Người Con ấy chưa hiện hữu”. Điều này phù hợp với não trạng phổ biến thời bấy giờ nên xem ra rất dễ chấp nhận.
Thế nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi Hội Thánh Người; Ngài luôn làm trỗi dậy những con người can đảm, những chứng nhân đức tin và những mục tử hướng dẫn dân Chúa, chỉ cho họ con đường của Tin Mừng. Đức cha Alexandre của Alexandria nhận ra rằng giáo huấn của Ariô hoàn toàn không phù hợp với Thánh Kinh. Vì Ariô không hề tỏ ra thiện chí đón nhận sửa dạy, nên Alexandre đã triệu tập các giám mục Ai Cập và Libya họp một thượng hội đồng, kết án giáo thuyết của Ariô; rồi ngài gửi thư cho các giám mục miền Đông để trình bày chi tiết. Ở phương Tây, Đức giám mục Ôsiô thành Cordoue, Tây Ban Nha – người vốn đã tỏ ra là một chứng nhân nhiệt thành của đức tin trong thời bách hại dưới hoàng đế Maximianô và được giám mục Rô-ma là Đức giáo hoàng Sylvestre tín nhiệm – cũng đã dấn thân mạnh mẽ.
Nhưng những người ủng hộ Ariô cũng tập hợp lại. Điều đó dẫn đến một trong những cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử Hội Thánh thiên niên kỷ thứ nhất. Lý do bất đồng không phải là một chi tiết phụ thuộc. Đó chính là trọng tâm đức tin Ki-tô giáo, là câu trả lời cho vấn nạn quyết định mà Đức Giê-su đã đặt ra cho các môn đệ tại Xê-da-rê Phi-líp-phê: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15).
4. Trong khi cuộc tranh luận trở nên gay gắt, hoàng đế Constantinus nhận thấy rằng sự hiệp nhất của Đế quốc cũng bị đe dọa cùng với sự hiệp nhất của Hội Thánh. Vì thế, ông triệu tập mọi giám mục đến một Công đồng đại kết, nghĩa là phổ quát, tại Nicêa, nhằm khôi phục sự hiệp nhất. Thượng hội đồng này, được gọi là “của 318 Nghị phụ”, diễn ra dưới sự chủ tọa của hoàng đế. Chưa từng bao giờ có một số lượng giám mục đông đảo như vậy tụ họp. Một số vị vẫn còn mang trên thân mình dấu vết của những cực hình đã chịu trong thời bách hại. Đại đa số các giám mục đến từ phương Đông, và dường như chỉ có khoảng năm vị đến từ phương Tây. Đức giáo hoàng Sylvestre đã ủy thác trách vụ đại diện cho Đức giám mục Ôsiô thành Cordoue, một nhân vật có tầm ảnh hưởng thần học, đồng thời gửi thêm hai linh mục Rô-ma tham dự.
5. Các Nghị phụ Công đồng đã làm chứng lòng trung thành của mình với Thánh Kinh và với Thánh Truyền Tông Đồ, như Hội Thánh vẫn tuyên xưng trong bí tích Thánh Tẩy, theo lệnh truyền của Đức Giê-su: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Ở phương Tây tồn tại nhiều công thức tuyên xưng khác nhau, trong đó có Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ.[1] Tại phương Đông, cũng có nhiều bản tuyên xưng đức tin khi lãnh bí tích Thánh Tẩy, với cấu trúc tương tự. Đó không phải là thứ ngôn ngữ uyên áo, phức tạp, mà – như người ta sẽ nói về sau – là thứ ngôn ngữ đơn sơ, dễ hiểu đối với những người đánh cá bên bờ Biển Hồ Ga-li-lê.
Trên nền tảng đó, bản Tín biểu Nicêa khởi đầu bằng lời tuyên xưng: “Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành mọi sự hữu hình và vô hình”.[2] Các Nghị phụ Công đồng như thế đã bày tỏ đức tin của mình nơi Thiên Chúa duy nhất. Tại Công đồng, không hề có tranh luận về điểm này. Ngược lại, bài tín điều thứ hai, vốn cũng sử dụng ngôn ngữ Thánh Kinh để tuyên xưng đức tin nơi “một Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa”, đã được tranh luận sôi nổi. Lý do là vì cần phải trả lời câu hỏi do Ariô nêu lên: phải hiểu thế nào về danh xưng “Con Thiên Chúa” và làm sao có thể dung hòa danh xưng ấy với độc thần giáo trong Thánh Kinh. Vì thế, Công đồng được kêu mời xác định ý nghĩa đúng đắn của đức tin nơi Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa”.
Các Nghị phụ đã tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vì Người “bởi bản tính (ousia) của Chúa Cha […] được sinh ra chứ không phải được tạo thành, đồng bản tính (homooúsios) với Chúa Cha”. Định nghĩa này đã triệt để loại bỏ lập luận của Ariô.[3] Để diễn đạt chân lý đức tin, Công đồng đã sử dụng hai từ “bản tính” (ousia) và “đồng bản tính” (homooúsios) vốn không có trong Thánh Kinh. Khi làm như thế, Công đồng không hề muốn thay thế các khẳng định Kinh Thánh bằng triết học Hy Lạp. Trái lại, Công đồng sử dụng những thuật ngữ này để khẳng định cách rõ ràng đức tin Kinh Thánh, đồng thời phân biệt đức tin ấy với lầm lạc mang màu sắc Hy Lạp của Ariô. Vì thế, lời cáo buộc “Hy Lạp hóa” không nhắm đến các Nghị phụ Nicêa, mà đúng hơn, nhắm vào lạc thuyết của Ariô và môn đệ ông.
Về mặt tích cực, các Nghị phụ Nicêa muốn trung thành một cách vững chắc với độc thần giáo Kinh Thánh và với tính hiện thực của mầu nhiệm Nhập Thể. Các ngài muốn tái khẳng định rằng Thiên Chúa duy nhất và chân thật không ở xa chúng ta, không phải là Đấng bất khả đạt tới, nhưng trái lại, đã đến gần và gặp gỡ chúng ta nơi Đức Giê-su Ki-tô.
6. Để diễn tả sứ điệp của mình bằng thứ ngôn ngữ đơn sơ của Thánh Kinh và của Phụng vụ vốn quen thuộc với toàn thể dân Chúa, Công đồng đã lấy lại một số công thức trong các bản tuyên xưng đức tin khi chịu Phép Rửa: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Công đồng tiếp tục sử dụng hình ảnh Kinh Thánh về ánh sáng: “Thiên Chúa là ánh sáng” (1 Ga 1,5; x. Ga 1,4-5). Như ánh sáng phát ra và thông ban chính nó mà không hề suy giảm, thì Con cũng là phản chiếu (apaugasma) vinh quang Thiên Chúa và là hình ảnh (character) của bản thể (hypostasis) Ngài (x. Hr 1,3; 2 Cr 4,4). Con Nhập Thể là Đức Giê-su, vì thế, là ánh sáng của trần gian và của sự sống (x. Ga 8,12). Nhờ bí tích Thánh Tẩy, con mắt lòng chúng ta được soi chiếu (x. Ep 1,18), để chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho trần gian (x. Mt 5,14).
Sau cùng, Kinh Tin Kính khẳng định rằng Con là “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Ở nhiều chỗ, Thánh Kinh phân biệt các ngẫu tượng chết chóc với Thiên Chúa chân thật hằng sống. Thiên Chúa thật là Thiên Chúa nói và hành động trong lịch sử cứu độ: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp, Đấng đã tỏ mình cho Mô-sê trong bụi gai bốc cháy (x. Xh 3,14), Đấng nhìn thấy cảnh khốn khổ của dân, nghe tiếng kêu than của họ, dẫn dắt và đồng hành với họ qua sa mạc bằng cột lửa (x. Xh 13,21), nói với họ bằng tiếng sấm (x. Đnl 5,26) và chạnh lòng thương xót họ (x. Hs 11,8-9). Người Ki-tô hữu vì thế được mời gọi quay lưng lại với các ngẫu tượng chết mà trở về với Thiên Chúa hằng sống và chân thật (x. Cv 12,25; 1 Tx 1,9). Theo nghĩa này, Si-môn Phê-rô đã tuyên xưng tại Xê-da-rê Phi-líp-phê: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
7. Kinh Tin Kính Nicêa không đề ra một lý thuyết triết học; nhưng tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cứu chuộc chúng ta nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Đó là Thiên Chúa hằng sống: Ngài muốn chúng ta có sự sống và có dồi dào (x. Ga 10,10). Vì thế, Kinh Tin Kính tiếp tục với những lời quen thuộc trong công thức tuyên xưng đức tin khi chịu Phép Rửa: Con Thiên Chúa “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta đã từ trời xuống, đã Nhập Thể và đã làm người, đã chịu chết, đã sống lại ngày thứ ba, đã lên trời và sẽ lại đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Điều này cho thấy rõ ràng rằng các khẳng định về Đức Ki-tô nơi Công đồng được đặt trong bối cảnh lịch sử cứu độ giữa Thiên Chúa và thụ tạo.
Thánh A-thanasiô, vốn tham dự Công đồng với tư cách là phó tế của Đức giám mục Alexandre, và sau đó kế nhiệm ngài trên tòa Alexandria bên Ai Cập, đã nhiều lần nhấn mạnh cách mạnh mẽ chiều kích “cứu độ học” được diễn tả trong Kinh Tin Kính Nicêa. Ngài viết rằng Con, Đấng từ trời xuống, “đã làm cho chúng ta trở thành con của Chúa Cha và, khi chính Người trở nên người phàm, đã thần hóa con người. Người không trở nên Thiên Chúa từ một người phàm đã có sẵn, nhưng là khi vốn đã là Thiên Chúa, Người trở nên người phàm để thần hóa chúng ta”.[4] Điều này chỉ có thể xảy ra nếu Con thực sự là Thiên Chúa: không một thụ tạo phàm nhân nào có thể chiến thắng sự chết và cứu độ chúng ta; chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được. Chính Ngài đã giải thoát chúng ta trong Người Con làm người, để chúng ta được tự do (x. Gl 5,1).
Trong Kinh Tin Kính Nicêa, đáng lưu ý đặc biệt là động từ descendit – “đã xuống thế”. Thánh Phao-lô diễn tả chuyển động này bằng những lời rất mạnh: “[Đức Ki-tô] đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7). Như lời tựa Tin Mừng thánh Gio-an nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Vì thế, thư gởi tín hữu Do Thái dạy rằng “chúng ta không có một vị Thượng Tế không biết cảm thông với những yếu đuối của chúng ta, nhưng là Đấng đã chịu thử thách về mọi phương diện, cũng như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Hr 4,15). Trong đêm trước cuộc thương khó, Người đã cúi mình xuống như một người nô lệ để rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-17). Và chỉ khi được đặt tay vào vết thương nơi cạnh sườn Chúa Phục Sinh, Tông đồ Tô-ma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28).
Chính vì mầu nhiệm Nhập Thể này, chúng ta gặp gỡ Chúa nơi các anh chị em đang thiếu thốn: “Vì mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây là các con đã làm cho chính Thầy” (Mt 25,40). Kinh Tin Kính Nicêa, như vậy, không nói với chúng ta về một Thiên Chúa xa vời, bất khả đạt tới, bất động và khép kín trong chính mình, nhưng về một Thiên Chúa gần gũi, đồng hành với chúng ta trên những nẻo đường trần thế và trong những nơi tối tăm nhất của địa cầu. Vinh quang vô biên của Ngài tỏ lộ nơi việc Ngài trở nên bé nhỏ, trút bỏ vương quyền vô hạn của mình để trở nên Đấng thân cận với chúng ta nơi những người bé mọn và nghèo hèn. Thực tại này làm đảo lộn mọi quan niệm ngoại giáo và triết học về Thiên Chúa.
Một lời khác trong Kinh Tin Kính Nicêa cũng đặc biệt sáng tỏ cho chúng ta hôm nay. Khẳng định Kinh Thánh “Người đã nhận lấy xác phàm” được Kinh Tin Kính làm rõ hơn bằng việc thêm từ “con người” sau từ “Nhập Thể”: Người “đã Nhập Thể làm người”. Nicêa như thế tách mình khỏi lạc thuyết cho rằng Ngôi Lời chỉ mặc lấy một thân xác như một lớp vỏ bên ngoài, mà không nhận lấy linh hồn nhân loại có trí tuệ và ý chí tự do. Trái lại, Công đồng muốn khẳng định điều mà Công đồng Can-xê-đoan (Chalcedon) năm 451 sẽ tuyên bố cách minh nhiên: nơi Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã nhận lấy và cứu chuộc toàn bộ con người, cả thân xác lẫn linh hồn. Con Thiên Chúa đã làm người – thánh A-thanasiô giải thích – để chúng ta, những con người, được thần hóa.[5] Cách hiểu sáng láng này về Mặc Khải đã được chuẩn bị bởi thánh I-rê-nê thành Lyon và Ô-ri-gê-nê, rồi được triển nở phong phú trong linh đạo Đông phương.
“Thần hóa” (divinisation) không liên quan đến việc con người tự tôn mình lên làm thần. Ngược lại, thần hóa bảo vệ chúng ta khỏi cơn cám dỗ nguyên thủy muốn “như Thiên Chúa” (x. St 3,5). Điều mà Đức Ki-tô là theo bản tính, chúng ta được trở nên nhờ ân sủng. Qua công trình cứu chuộc, Thiên Chúa không chỉ phục hồi phẩm giá nhân linh của chúng ta như hình ảnh Thiên Chúa, nhưng Đấng đã tạo dựng chúng ta cách kỳ diệu còn làm cho chúng ta được thông phần cách kỳ diệu hơn nữa vào bản tính Thiên Chúa (x. 2 Pr 1,4).
Thần hóa, vì thế, chính là con đường nên thật sự là người. Cho nên, hiện hữu của con người luôn vươn ra khỏi chính mình, tìm kiếm vượt trên chính mình, khao khát vượt quá chính mình và bồn chồn cho đến khi được nghỉ yên trong Thiên Chúa.[6] “Deus enim solus satiat – chỉ mình Thiên Chúa mới làm thỏa lòng người!”.[7] Chỉ Thiên Chúa, trong tính vô biên của Ngài, mới có thể làm thỏa mãn khát vọng vô biên của trái tim con người; đó là lý do Con Thiên Chúa đã muốn trở nên Anh Em và Đấng Cứu Chuộc chúng ta.
8. Chúng ta đã nói: Nicêa đã minh nhiên bác bỏ giáo huấn của Ariô. Thế nhưng, Ariô và những người ủng hộ ông không chịu công nhận mình thất bại. Bản thân hoàng đế Constantinus và các vị kế vị ông dần dần nghiêng về phía các phe phái theo Ariô. Thuật ngữ homooúsios trở thành quả táo bất hòa giữa phe phái trung thành với Nicêa và phe chống Nicêa, làm bùng phát những xung đột nghiêm trọng khác. Thánh Ba-xi-li-ô thành Xê-da-rê mô tả cảnh hỗn loạn đó bằng những hình ảnh sống động, sánh ví như một trận hải chiến trong đêm tối giữa cơn bão dữ,[8] trong khi thánh Hy-la-ri-ô xác nhận sự chính thống trong đức tin của giáo dân so với xu hướng theo Ariô của nhiều giám mục, khi nhận xét rằng “tai của dân chúng thánh thiện hơn lòng của các tư tế”.[9]
Tảng đá vững chắc bảo vệ Kinh Tin Kính Nicêa chính là thánh Athanasiô, bất khuất và kiên định trong đức tin. Dù bị phế truất và trục xuất khỏi tòa giám mục Alexandria năm lần, ngài vẫn luôn trở lại đó như vị giám mục chính tòa. Ngay cả trong thời gian lưu đày, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn dân Chúa qua các trước tác và thư từ. Như Mô-sê, Athanasiô không được bước vào “đất hứa” của hòa bình trong Hội Thánh; ân ban này được dành cho một thế hệ mới, được gọi là “những người Nicêa trẻ”: ở phương Đông là ba vị đại Giáo phụ Cappadoce – thánh Ba-xi-li-ô thành Xê-da-rê (khoảng 330–379), được gọi là “Cả”; anh ngài là thánh Grê-gô-ri-ô thành Nysse (335–394); và người bạn thân nhất của Ba-xi-li-ô, thánh Grê-gô-ri-ô thành Nazianz (329/30–390). Ở phương Tây, thánh Hy-la-ri-ô thành Poitiers (khoảng 315–367) và môn đệ ngài là thánh Mác-tin thành Tours (khoảng 316–397) giữ vai trò quan trọng. Rồi nhất là thánh Am-brô-si-ô thành Milan (333–397) và thánh Âu-gút-ti-nô thành Hippo (354–430).
Công lao của ba vị Cappadoce, cách riêng, là đã hoàn tất việc diễn đạt Kinh Tin Kính Nicêa, cho thấy rằng sự Hiệp Nhất và Ba Ngôi nơi Thiên Chúa không hề mâu thuẫn. Trong bối cảnh đó, tín điều về Chúa Thánh Thần được xác định tại Công đồng Constantinopolis I năm 381. Nhờ thế, Kinh Tin Kính – từ đây mang tên Nicêa–Constantinopolis – tuyên xưng: “Chúng tôi tin kính Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Chúa Cha mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy”.[10]
Từ Công đồng Can-xê-đoan năm 451, Công đồng Constantinopolis được nhìn nhận là Công đồng đại kết và Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis được tuyên bố là có giá trị ràng buộc phổ quát.[11] Kinh Tin Kính đó trở thành mối dây hiệp nhất giữa Đông và Tây. Vào thế kỷ XVI, các cộng đoàn Hội Thánh phát sinh từ cuộc Cải Cách cũng giữ lại Kinh Tin Kính này. Như thế, Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis là bản tuyên xưng chung của mọi truyền thống Ki-tô giáo.
9. Con đường từ Thánh Kinh dẫn đến bản tuyên xưng đức tin Nicêa, rồi đến việc được Công đồng Constantinopolis và Can-xê-đoan đón nhận, và sau đó được truyền lại đến thế kỷ XVI rồi đến cả thế kỷ XXI, là một hành trình vừa dài vừa không hề đơn giản. Tất cả chúng ta, những môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” được chịu Phép Rửa, làm dấu Thánh Giá trên mình và được ban phép lành. Mỗi lần kết thúc việc đọc Thánh Vịnh trong Phụng vụ Giờ Kinh, chúng ta đọc: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”. Đời sống phụng vụ và đời sống Ki-tô hữu như thế được neo chặt trong Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis: điều chúng ta tuyên xưng bằng miệng phải xuất phát từ con tim để được làm chứng bằng đời sống. Vì vậy, chúng ta phải tự hỏi: ngày nay việc tiếp nhận Kinh Tin Kính trong nội tâm chúng ta ra sao? Chúng ta có cảm thấy rằng Kinh Tin Kính ấy cũng liên hệ đến hoàn cảnh hiện tại của mình không? Chúng ta có hiểu và sống điều mình tuyên xưng mỗi Chúa nhật không, và điều ấy có ý nghĩa gì cho cuộc đời chúng ta?
10. Kinh Tin Kính Nicêa mở đầu bằng việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, Đấng toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Ngày nay, đối với nhiều người, Thiên Chúa và vấn nạn về Thiên Chúa hầu như chẳng còn ý nghĩa trong đời sống. Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh rằng các Ki-tô hữu cũng có trách nhiệm, ít nhất là một phần, về thực trạng này, vì họ không làm chứng đức tin chân thật và che khuất dung nhan đích thực của Thiên Chúa bằng một cách sống và những hành động xa lạ với Tin Mừng.[12] Trong danh nghĩa Thiên Chúa, người ta đã từng tiến hành chiến tranh, giết chóc, bách hại và kỳ thị người khác. Thay vì loan báo một Thiên Chúa giàu lòng xót thương, người ta lại nói về một vị thần báo oán, gieo sợ hãi và trừng phạt.
Vì thế, Kinh Tin Kính Nicêa mời gọi chúng ta xét mình. Thiên Chúa có ý nghĩa gì đối với tôi, và tôi làm chứng cho đức tin của mình vào Ngài như thế nào? Thiên Chúa duy nhất và độc nhất có thực sự là Chúa của đời tôi không, hay có những ngẫu tượng quan trọng hơn Thiên Chúa và các điều răn của Ngài? Đối với tôi, Thiên Chúa có phải là Thiên Chúa hằng sống, luôn ở gần trong mọi hoàn cảnh, là Người Cha mà tôi chạy đến với lòng tín thác hiếu thảo không? Ngài có phải là Đấng Tạo Hóa mà tôi mắc nợ tất cả những gì tôi là và tôi có, là Đấng mà tôi có thể nhận ra dấu vết trong mọi thụ tạo không? Tôi có sẵn sàng chia sẻ của cải trần gian, vốn thuộc về mọi người, một cách công bằng và hợp lý không? Tôi đối xử với công trình tạo dựng – là tác phẩm tay Ngài – thế nào? Tôi sử dụng nó với lòng tôn kính và biết ơn, hay tôi khai thác, tàn phá nó thay vì gìn giữ và chăm sóc như ngôi nhà chung của nhân loại? [13]
11. Ở trung tâm Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis là lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta và Thiên Chúa chúng ta. Đây là trọng tâm đời sống Ki-tô hữu. Vì thế, chúng ta dấn thân bước theo Đức Giê-su như Thầy, như Đấng đồng hành, như Anh Em và như Người Bạn. Nhưng Kinh Tin Kính Nicêa còn đòi hỏi nơi chúng ta nhiều hơn nữa: nó nhắc chúng ta đừng quên rằng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa (Kyrios), là Con của Thiên Chúa hằng sống, Đấng “vì phần rỗi chúng ta đã từ trời xuống” và đã chết “vì chúng ta” trên thập giá, mở cho chúng ta con đường sống mới nhờ cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Người.
Chắc chắn, bước theo Đức Giê-su Ki-tô không phải là một con đường rộng rãi và dễ chịu, nhưng là con đường nhiều khi đòi hỏi, thậm chí đau đớn, tuy vậy luôn dẫn đến sự sống và ơn cứu độ (x. Mt 7,13-14). Sách Công vụ Tông Đồ nói về “Con Đường” mới (x. Cv 19,9.23; 22,4.14-15.22), chính là Đức Giê-su Ki-tô (x. Ga 14,6): theo Chúa là dấn bước trên con đường Thập Giá, con đường đưa chúng ta đến ơn thánh hóa và thần hóa nhờ hoán cải.[14]
Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta với tất cả hữu thể của Ngài, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thấy, nếu không yêu người anh em và chị em mà chúng ta thấy (x. 1 Ga 4,20). Tình yêu Thiên Chúa mà thiếu tình yêu tha nhân là giả hình; còn tình yêu triệt để đối với tha nhân, nhất là yêu kẻ thù mà không có tình yêu Thiên Chúa, thì trở thành một chủ nghĩa anh hùng đè nén và vượt quá sức chúng ta. Bước theo Đức Giê-su, hành trình leo lên cùng Thiên Chúa đi qua lối đi hạ mình và hiến thân cho anh chị em, nhất là những người rốt hết, nghèo hèn, bị bỏ rơi và bị gạt ra bên lề. Điều chúng ta làm cho một trong những người bé nhỏ nhất ấy là làm cho chính Đức Ki-tô (x. Mt 25,31-46). Đối diện với thảm họa, chiến tranh và cảnh khốn cùng, chúng ta chỉ có thể làm chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa cho những người đang nghi ngờ Ngài, khi họ được nếm trải lòng thương xót ấy qua chính chúng ta.[15]
12. Sau cùng, Công đồng Nicêa còn mang tính thời sự vì giá trị đại kết rất lớn của nó. Trên bình diện này, việc kiến tạo sự hiệp nhất giữa mọi Ki-tô hữu là một trong những mục tiêu hàng đầu của Công đồng gần đây nhất, Vaticanô II.[16] Cách đây đúng ba mươi năm, thánh Gio-an Phao-lô II đã tiếp nối và cổ võ sứ điệp Công đồng trong thông điệp Ut unum sint (Ước chi họ nên một, 25.5.1995). Như thế, cùng với đại lễ kỷ niệm Công đồng Nicêa thứ nhất, chúng ta cũng mừng kỷ niệm thông điệp đại kết đầu tiên. Có thể coi thông điệp này như một bản “tuyên ngôn” cập nhật các nền tảng đại kết mà Công đồng Nicêa đã đặt ra.
Tạ ơn Thiên Chúa, phong trào đại kết đã đạt được nhiều hoa trái trong sáu mươi năm qua. Dù sự hiệp nhất hữu hình trọn vẹn với các Giáo Hội Chính Thống và các Giáo Hội Đông phương Hiệp nhất, cũng như với các cộng đoàn Giáo Hội phát sinh từ cuộc Cải Cách, vẫn chưa được ban cho chúng ta, đối thoại đại kết – dựa trên một Phép Rửa duy nhất và Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis – đã giúp chúng ta nhận ra nơi các anh chị em thuộc các Giáo Hội và cộng đoàn khác là anh chị em của chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, và tái khám phá sự hiệp thông duy nhất và phổ quát của các môn đệ Đức Ki-tô trên toàn thế giới. Thật vậy, chúng ta cùng chia sẻ đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất, là Cha của mọi người; chúng ta cùng tuyên xưng một Chúa duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa thật; và một Chúa Thánh Thần duy nhất, Đấng linh hứng và thúc đẩy chúng ta tiến đến sự hiệp nhất trọn vẹn và làm chứng chung cho Tin Mừng. Những gì liên kết chúng ta thực sự lớn lao hơn rất nhiều so với những gì còn chia rẽ chúng ta! [17] Như thế, trong một thế giới phân tán và bị xé nát bởi vô số xung đột, cộng đoàn Ki-tô giáo phổ quát duy nhất có thể trở nên dấu chỉ hòa bình và khí cụ hòa giải, đóng góp cách quyết định cho một dấn thân toàn cầu vì hòa bình. Thánh Gio-an Phao-lô II đặc biệt nhắc nhớ chúng ta đến chứng từ của vô số vị tử đạo Ki-tô hữu thuộc mọi Giáo Hội và cộng đoàn Giáo Hội: ký ức về các ngài hiệp nhất chúng ta và thúc đẩy chúng ta trở nên chứng nhân và người kiến tạo hòa bình cho thế giới.
Để thi hành sứ vụ này một cách khả tín, chúng ta cần cùng nhau tiến bước để đạt đến hiệp nhất và hòa giải giữa mọi Ki-tô hữu. Kinh Tin Kính Nicêa có thể là nền tảng và là tiêu chuẩn quy chiếu cho hành trình ấy. Thật vậy, Kinh Tin Kính đề nghị cho chúng ta một mẫu gương về sự hiệp nhất đích thực trong tính đa dạng chính đáng. Hiệp nhất trong Ba Ngôi, Ba Ngôi trong Hiệp Nhất; bởi vì hiệp nhất mà không có đa dạng thì trở thành áp bức, còn đa dạng mà không có hiệp nhất thì dẫn đến tan rã. Năng động Ba Ngôi không mang tính nhị nguyên – như một “hoặc là – hoặc là” loại trừ – nhưng là một dây liên kết sống động, một “và – và”: Chúa Thánh Thần là mối dây hiệp nhất mà chúng ta tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, chúng ta cần buông bỏ những tranh luận thần học đã mất đi lý do tồn tại, để có thể đạt đến một tư duy chung và hơn nữa, đến một lời cầu nguyện chung dâng lên Chúa Thánh Thần, xin Ngài quy tụ tất cả chúng ta trong một đức tin và một tình yêu.
Điều đó không có nghĩa là một thứ đại kết trở về trạng thái trước khi chia rẽ, cũng không phải là sự chấp nhận lẫn nhau hiện trạng khác biệt giữa các Giáo Hội và cộng đoàn Giáo Hội, nhưng đúng hơn là một nền đại kết hướng về tương lai, một đại kết của hòa giải trên con đường đối thoại, trao đổi các ân huệ và gia sản thiêng liêng của mỗi bên. Việc tái lập sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu không làm nghèo chúng ta, trái lại, làm phong phú chúng ta. Như tại Nicêa, mục tiêu đó chỉ có thể đạt được nhờ một hành trình kiên nhẫn, dài lâu và đôi khi khó khăn, của lắng nghe và đón nhận lẫn nhau. Đây là một thách đố thần học và còn hơn thế nữa, là một thách đố thiêng liêng, đòi hỏi thống hối và hoán cải nơi mọi người. Vì vậy, chúng ta cần một nền đại kết thiêng liêng của cầu nguyện, ngợi khen và thờ phượng, như đã từng diễn ra trong Kinh Tin Kính Nicêa–Constantinopolis.
Vậy chúng ta hãy khẩn cầu Chúa Thánh Thần, xin Ngài đồng hành và hướng dẫn chúng ta trong công trình này.
Lạy Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn các tín hữu trên nẻo đường lịch sử.
Chúng con cảm tạ Ngài vì đã linh hứng các Bản Tín Điều và khơi dậy trong lòng chúng con niềm vui khi tuyên xưng ơn cứu độ nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha. Không có Người, chúng con chẳng làm được gì.
Lạy Ngài, Thần Khí vĩnh cửu của Thiên Chúa, qua mọi thế hệ, Ngài luôn làm cho đức tin của Hội Thánh được trẻ trung. Xin giúp chúng con đào sâu đức tin ấy và luôn trở về với cốt lõi, để loan báo.
Để cho chứng tá của chúng con giữa đời không trở nên vô hiệu, xin đến, lạy Chúa Thánh Thần, với lửa ân sủng, thắp lại đức tin chúng con, hun đốt chúng con trong niềm hy vọng, và bừng cháy trong chúng con lửa đức ái.
Xin đến, lạy Đấng An Ủi thần linh, Ngài là hòa điệu, để kết hợp lòng trí các tín hữu. Xin đến và cho chúng con nếm cảm vẻ đẹp của sự hiệp thông.
Xin đến, lạy Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, để quy tụ chúng con trong một đoàn chiên duy nhất của Đức Ki-tô.
Xin chỉ cho chúng con những nẻo đường phải đi, để nhờ khôn ngoan của Ngài, chúng con trở nên điều chúng con là trong Đức Ki-tô: nên một, để thế gian tin. A-men.
Tại Vatican, ngày 23 tháng 11 năm 2025, Lễ trọng Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ.
LÊÔ PP. XIV
Nguồn https://www.vatican.va/content/leo-xiv/en/apost_letters/documents/20251123-in-unitate-fidei.html
Chuyển ngữ Lm. André Tuấn, AA (ducmelentroi.net) 26 November, 2025
https://ducmelentroi.net/tong-thu-in-unitate-fidei-nhan-dip-ky-niem-1700-nam-cong-dong-nicea/
[1] L.H. Westra, The Apostles’ Creed. Origin, History and Some Early Commentaries, Turnhout 2002 (= Instrumenta patristica et mediaevalia, 43).
[2] Conc. Nicée I, Expositio fidei: CC COGD 1, Turnhout 2006, 19 6-8.
[3] Thánh Athanasiô Alexandria, Contra arianos, I, 9,2 (ed. Metzler, Athanasius Werke, I/1,2, Berlin – New York 1998, 117-118). Theo những xác quyết của thánh Athanasiô trong Contra Arianos I,9, rõ ràng homooúsios không có nghĩa là “cùng bản tính”, nhưng là “cùng một bản tính” với Chúa Cha; vì thế không chỉ là sự bình đẳng, mà là sự đồng nhất bản tính giữa Chúa Cha và Chúa Con. Bản dịch Latinh của homooúsios vì thế nói đúng khi dịch là unius substantiae cum Patre.
[4] Thánh A-thanasiô Alexandria, Contra arianos, I, 38,7 – 39,1: ed. Metzler, Athanasius Werke, I/1,2, 148-149.
[5] X. Thánh A-thanasiô Alexandria, De incarnatione Verbi, 54,3: SCh 199, Paris 2000, 458; cùng tác giả, Contra arianos, I,39; 42; 45; II,59tt.: ed. Metzler, Athanasius Werke, I/1,2, 149; 152; 154-155 và 235tt.
[6] X. Thánh Âu-gút-ti-nô, Confessiones, I,1: CCSL 27, Turnhout 1981, 1.
[7] Thánh Tô-ma A-qui-nô, In Symbolum Apostolorum, art. 12: ed. Spiazzi, Thomae Aquinatis, Opuscula theologica, II, Taurini – Romae 1954, 217.
[8] X. Thánh Ba-xi-li-ô thành Xê-da-rê, De Spiritu Sancto, 30,76: SCh 17bis, Paris 2002², 520-522.
[9] Thánh Hy-la-ri-ô thành Poitiers, Contra arianos seu contra Auxentium, 6: PL 10,613. Khi ghi nhớ tiếng nói của các Nghị phụ, nhà thần học uyên bác, sau này là Hồng y, và nay là Thánh và Tiến sĩ Hội Thánh John Henry Newman (1801-1890) đã nghiên cứu cuộc tranh luận này và đi đến kết luận rằng Kinh Tin Kính Nicêa được gìn giữ trước hết nhờ sensus fidei – cảm thức đức tin – của dân Chúa. X. On consulting the Faithful in Matters of Doctrine (1859).
[10] Conc. Constantinopolis I, Expositio fidei: CC, Conc. Oec. Gen. Decr. 1, 57 20-24. Khẳng định “và bởi Chúa Con mà ra (Filioque)” không có trong bản văn Constantinopolis; nó được Đức giáo hoàng Bê-nê-đictô VIII thêm vào trong bản Kinh Tin Kính Latinh năm 1014 và là đề tài đối thoại giữa Chính Thống giáo và Công giáo.
[11] Conc. Chalcedoine, Definitio fidei: CC, Conc. Oec. Gen. Decr. 1, 137 393-138 411.
[12] Conc. Vat. II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 19: AAS 58 (1966), 1039.
[13] X. Đức Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24.5.2015), 67; 78; 124: AAS 107 (2015), 873-874; 878; 897.
[14] X. cùng tác giả, Tông huấn Gaudete et exsultate (19.3.2018), 92: AAS 110 (2018), 1136.
[15] X. cùng tác giả, Thông điệp Fratelli tutti (3.10.2020), 67; 254: AAS 112 (2020), 992-993; 1059.
[16] X. Conc. Vat. II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 1: AAS 57 (1965), 90-91.
[17] X. Thánh Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Ut unum sint (25.5.1995), 20: AAS 87 (1995), 933.


