CON ĐƯỜNG TÌNH TA ĐI.
Chúa Nhật 5C Phục sinh.
Mẹ là biểu tượng cao quí nhất của tình yêu. Không thực tại tình yêu nào sống động bằng tìnhMẹ. Mẹ qui tụ tất cả những nét hấp dẫn nhất và quen thuộc nhất cho đời con vươn lên. Hấp dẫn vì đầy tính sáng tạo và mới mẻ. Quen thuộc vì Mẹ đầy ắp tình yêu nồng nàn và thắm thiết nhất, vượt lên trên tất cả những mệt mỏi của thời gian. Nhưng tình mẹ chỉ diễn tả một phần nét sâu sắc tình yêu Đức Giêsu muốn nói đến hôm nay : Tình Yêu Thiên Chúa.
NHỮNG CHIỀU KÍCH TÌNH YÊU.
Tình yêu mầu nhiệm như chính Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mạc khải tất cả những nét kỳ diệu trong tình yêu Thiên Chúa. Giữa những giới hạn cuộc đời, tình yêu vẫn tìm được những nét vươn lên tới vô cùng. Đó là điều đã được cảm nghiệm trong thực tế đêm tiệc ly. Giuđa có thể được coi là biểu tượng của lòng hận thù và phản bội. “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly,” (Ga 13:31) tức ra khỏi cộng đồng tình yêu, “Đức Giêsu nói : ‘Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.’” (Ga 13:31) Một biến cố bất lợi như thế đã nhanh chóng biến thành một cơ hội để Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm tình yêu. Mở đầu và kết thúc Tin Mừng hôm nay là hai cực đối nghịch của tình yêu. Tình huống có thể trở thành một thách đố hay một cơ hội để tình yêu vươn lên tới mức có thể tôn vinh Thiên Chúa.
Tất cả vũ trụ được tạo dựng để tôn vinh Thiên Chúa. Công cuộc tạo dựng phức tạp và khó khăn chừng nào ! Nhưng mục đích cũng chỉ là tôn vinh Thiên Chúa. Tất cả vũ trụ mới đủ sức nói lên vinh quang Thiên Chúa một phần nào. Thế mà hôm nay nhân dịp một môn đệ phản bội rời phòng tiệc để thực hiện mưu đồ đen tối, Đức Giêsu lại biến thành một cơ may cho ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi. Cái nhìn của Người lúc nào cũng thấy ánh sáng dù ngay giữa đêm tối. Thật kỳ diệu ! Chữ “tôn vinh” được nhắc tới năm lần, chứng tỏ vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ rạng gấp ngàn lần qua cái chết của Đức Giêsu. Người chết để chứng tỏ tình yêu tuyệt vời đối với Chúa Cha. Tình yêu này đã đem lại vinh quang vô cùng lớn lao cho Thiên Chúa. Và vinh quang Người nhận được cũng có một giá trị vĩnh cửu và vô cùng vì phát xuất từ Thiên Chúa. Quả thế, “nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13:32) Tình yêu quả thực là một sức mạnh đem lại vinh quang cho Thiên Chúa hơn cả ngàn vũ trụ này.
Chính vì thế, Đức Giêsu mới cho thấy tất cả nét hấp dẫn cực kỳ của tình yêu khi mạc khải : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” (Ga 13:34) Chỉ tình yêu mới có khả năng canh tân mọi sự. Nhưng điều răn thương yêu không mới như Đức Giêsu nói. Chắc chắn Chúa biết sách Lêvi dã truyền người Do thái phải thương yêu nhau. Ơû đây điều răn cũng hướng về các Kitô hữu khác, theo nghĩa chặt tương tự (Ga 13:34) Vậy tại sao Chúa dám quả quyết đó là một điều răn mới ? Mới vì đó là “lệnh truyền chính yếu của một giao ước mới, một giao ước thiết lập tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người xoay quanh quả tim mới (Gr 31:31-34)” (Fahey 1994:342). Mới vì khả năng yêu không nằm trong con tim giới hạn của con người, nhưng là trái tim vô biên của Thiên Chúa. Nói khác, chính Thánh Linh sẽ bảo đảm chắc chắn tình yêu có thể thực hiện được trong tương quan hôm nay từ tầm mức cá nhân tới cộng đoàn. Hơn nữa, tình yêu có một động lực và nền tảng mới là chính Đức Giêsu, đã hiến thân chịu chết cho các môn đệ và những người theo Chúa.
Hơn nữa, tình yêu còn có một chiều kích và nồng độ mới. Từ nay, tình yêu không chỉ đóng khung trong giới hạn chủng tộc hay quốc gia. Tình yêu cũng không giới hạn trong khuôn khổ những người cùng một tín ngưỡng hay chính kiến. Nhưng tình yêu mở tung tới một chiều kích vũ trụ, vượt ra ngoài những biên giới vật chất. Đúng hơn, tình yêu có chiều kích bằng Thiên Chúa, “vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8) Thực tế, tình yêu đã hóa thân thành xác phàm nơi Đức Giêsu. Nhìn vào con người và cuộc đời Người, chúng ta có thể thẩm định tất cả chiều kích và mức độ tình yêu. Từ nay tình yêu không chỉ là “yêu thương tha nhân như chính mình”, nhưng là “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13:34) Thầy yêu thương chúng ta hơn chính mình. Thầy yêu thương một cách vô điều kiện và vô cùng quảng đại trong cái chết cực kỳ dã man trên khổ giá cho mọi người, kể cả những người hành hình.
Chính trong nét tình yêu vĩ đại đó, Đức Giêsu mạc khải tình yêu như một sức mạnh đem lại vinh quang Thiên Chúa. Chẳng phải công trình hay sự nghiệp, chẳng phải lời nói hay giáo thuyết hay ngay cả việc tử đạo nào đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Nhưng chỉ tình yêu mới diễn tả trọn vẹn vinh quang Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và Đức Giêsu mang lại cho Chúa Cha. Vinh quang vượt trên thời gian và bao trùm mọi thời gian, mặc dầu được mạc khải trong thời gian. Làm sao tình yêu có khả năng kéo vĩnh hằng vào thời gian như thế ? Tình cách hiện tại đã được nói đến ngay khi Đức Giêsu mở miệng : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh . . .” (Ga 13:31) “Quá khứ, hiện tại và tương lai được tái thanh lọc dưới ánh sáng thời gian đang đến. Bởi vậy, trong câu Ga 13:31, Đức Giêsu loan báo trước thời cánh chung đang đến.” (NIB 1995:732) Thời cánh chung sẽ đến với hình ảnh Con Người ngự đến trong vinh quang, Con người từ nơi Chúa Cha xuống thế và lại trở về cùng Chúa Cha. Trong hai nhịp lên xuống đó, tình yêu vẫn là nhịp đập của con tim Giêsu lúc nào cũng lắng nghe và vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Thật vậy, “đối với Đức Giêsu, tuân giữ giới răn Thiên Chúa là thể hiện tình yêu của Người đối với Thiên Chúa trong lời nói và việc làm (x.Ga 12:49-50).” (NIB 1995:732) Nói khác, chính tình yêu đã liên kết chặt chẽ Người với Thiên Chúa. Người cũng muốn tình yêu trở thành sức mạnh đưa người tín hữu vào tương quan Thiên Chúa. Thực thế, “nhờ hành động tình yêu, tín hữu được liên kết với Thiên Chúa.” (NIB 1995:732) Tương quan đó bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và Đức Giêsu. Điểm độc đáo của giới răn mới chính là tình yêu ghi dấu tương quan giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Chính vì thế, Người mới cho thấy ngôn ngữ quốc tế trong tiếng nói tình yêu : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13:35)
Nhưng từ tương quan con người, làm sao con người có thể nhận ra tương quan Thiên Chúa nơi Đức Giêsu ? Vì tự bản chất tình yêu hướng về và mời gọi tình yêu. Không có dấu chỉ nào rõ hơn về tình yêu Thiên Chúa bằng chính tình yêu nơi những con người tin vào Đức Giêsu. Tiếng nói con tim có thể đạt tới mọi thụ tạo, chứ không riêng con người. Khi đã đạt tới sự hòa hợp mọi thụ tạo và hòa giải xã hội con người hoàn toàn với Thiên Chúa, tình yêu có sức cải biến mọi tương quan con người và mọi cơ chế xã hội trên mọi bình diện. Chỉ trong Nước Chúa mới đạt tới đối tượng của niềm hi vọng lớn lao đó. Nhưng ngay trên trần gian, Giáo hội có thể là nơi phác họa phần nào hình ảnh lý tưởng Nước Thiên Chúa, vì trong Giáo hội “không ai là người ngoại quốc” (ĐGH Gioan Phaolô II, VietCatholic 5/3/2001) Mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề cơ chế quân chủ, nhưng Giáo hội đã cải biến guồng máy để có thể trở thành nơi đón tiếp mọi người không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa. Một sức qui tụ lớn lao như thế chắc chắn không phải hoàn toàn do khả năng con người. Nhưng với Thánh Linh, con người có thể thực hiện giấc mơ của Đức Giêsu thổ lộ với Chúa Cha “để họ nên một như chúng ta là một.” (Ga 17:22) Đó là khởi sự “trời mới đất mới” ngay trên trần gian.
ĐỔI MỚI MỌI SỰ.
Đã đến lúc Thiên Chúa “đổi mới mọi sự.” (Kh 21:5a) Nhưng Người sẽ đổi mới mọi sự bằng cách nào, nếu không khỡi sự từ tình yêu ? Tình yêu có khả năng “lau sạch nước mắt” (Kh 21:4), chôn vùi tử thần (x. 1 Cr 15:55), chấm dứt cảnh “tang tóc, kêu than và đau khổ.” (Kh 21:4) Quả thực, Thiên Chúa “đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,” (1 Cr 15:57) hiện thân sức mạnh tình yêu Thiên Chúa đang hoạt động trong Giáo hội, một cộng đoàn do Chúa thiết lập. Cộng đoàn đó là hệ quả tất nhiên của tình yêu Thiên Chúa. Bởi đó, cộng đoàn mới có khả năng trở thành dấu chỉ của tình yêu đó.
Nhưng thực tế, không phải lúc nào cũng lý tưởng như Chúa Giêsu mơ ước. Đã có nhiều phản chứng ngay trong Giáo hội. Trong lịch sử có nhiều hậu duệ “Giuđa ra khỏi phòng tiệc ly.” (Ga 13:31) Giáo hội nào cũng nhân danh Chúa để tỏ những dấu hiệu ngược với “lòng thương yêu thương nhau.” (Ga 13:35) Người ta đã quá tính toán theo cung cách người lớn, chứ không phải là “những người con bé nhỏ của Thầy” (Ga 13:33a) để có thể lắng nghe Thầy và nghe nhau. Mỗi Giáo hội đều cố thêu dệt hình ảnh Đức Giêsu theo lối nhìn của mình, rồi tự hào chỉ có cái nhìn của mình là chính xác nhất. Mỗi Giáo hội đều có những bảng phong thần riêng. Cái gì cũng gọi là thánh. Ngay cả việc chém giết cũng gọi là thánh chiến. Nếu không có cuộc thăm viếng Hy lạp vừa qua của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, có lẽ chúng ta vẫn còn mơ ngủ với những bước oai hùng của những vị “thánh” trong cuộc “thánh chiến” cách đây tám thế kỷ. Quả thực, theo ĐGH Gioan Phaolô II, Giáo hội cần trải qua một cuộc “thanh tẩy ký ức” để có thể thực hiện giới răn mới của Chúa. Quá khứ nặng nề không thể xóa nhòa trong tâm trí những anh em Chính Thống Đông Phương về việc những anh em Kitô hữu Latinh đã tàn phá thê thảm kinh đô Constantinople, thành trì của anh em Kitô Hữu Đông Phương. Những anh em đó đã ra đi giải phóng thánh địa Giêrusalem, bảo đảm tự do cho việc hành hương đất thánh. Nhưng rồi họ quay trở lại tàn sát anh em cùng một niềm tin với mình. Sự kiện đó làm cho những anh em Công giáo đau đớn sâu xa. Đó là những lời thú nhận khiêm tốn chính thức Đức Thánh Cha đã phát biểu khi đến thăm Hi lạp ngày 4/5/2001. Chắc hẳn những anh em Chính Thống không khỏi xúc động trước thái độ can đảm đó của vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo.
Những tâm tình chân thành đó vô cùng cần thiết để đặt nền tảng cho cuộc đại kết giữa những anh em Kitô giáo. Chúa Thánh Linh đang làm việc để xóa bỏ quá khứ đau thương và hàn gắn những rạn nứt từ bao thế kỷ. Trong lịch sử, anh em Chính thống đã vô cùng cay đắng trước những thái độ ngạo mạn và tàn phá của những anh em Công giáo. Cay đắng đến nỗi anh em Chính thống thà sống dưới sự cai trị của Hồi giáo hơn là chung sống với Công giáo ! Có bao giờ chúng ta có thể hiểu thấu những chiều kích đau thương đó từ trong cùng một cộng đoàn những người tin nơi Đức Giêsu ?! Thực tế, “chứng từ Giáo hội trên thế giới luôn bị tổn thương và suy yếu vì sự ghen ghét và thiếu yêu thương trong những tiếp xúc giữa các Kitô hữu với nhau. Nhiều lúc yêu kẻ thù còn dễ hơn, vì có thể không phải tiếp xúc với họ hằng ngày.” ( NIB 1995:734)
Thực tế thật bi đát ! Làm sao có thể chuyển từ nhận định sang hành động để hàn gắn những vết thương đó ? Thực ra chẳng có con đường nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô. Người không dừng lại ở lý thuyết. Nhưng ngay cả khi đau khổ nhất vì chính người đệ tử thương mến phản bội, Người vẫn tìm thấy con đường tôn vinh Thiên Chúa. Người ta đã tìm vinh danh mình quá nhiều. Vinh quang con người đã che lấp cả vinh quang Thiên Chúa. Đó là nguyên nhân tại sao có những đổ vỡ giữa các Giáo hội. Trong khi Đức Giêsu xác quyết : “Tôi không tìm vinh quang cho mình. Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả,û” (Ga 8:50, 54) thì các môn đệ của Chúa lại loay hoay với những tính toán làm cho vinh quang của mình ngày càng sáng hơn anh em. Hơn lúc nào cần đọc lại kinh Lạy Cha : “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển !” (Mt 6:9) để tìm được sự hiệp nhất vô cùng cần thiết cho chứng từ hôm nay !
Lm. Đỗ Vân Lực, OP