GIÁO XỨ LẠC NGHIỆP – ĐƠN DƯƠNG
– Thông Tin Giáo Xứ:
- Tước Hiệu: Kitô Vua
- Cha Quản xứ: Giuse Lê Anh Tuấn
- Tổng số hộ gia đình : 225
- Tổng số nhân danh : 1.405
- Địa Chỉ: 20/40 Nguyễn Huệ, Dran, Đơn Dương
– Lịch Phụng Vụ:
- Ngày Thường:
- Sáng: 05h00
- Chiều: 17h30
- Chúa Nhật:
- Lễ 1: 05h30
- Lễ 2: 07h30
- Lễ 3: 17h00
– Lược sử Giáo xứ:
- Giai đoạn hình thành
Vào năm 1946, một số linh mục Dòng Chúa Cứu Thế (Canada) : Denis Paquette, L. P. Vaillancourt, Laliberte, trên đường đi xe lửa từ Hà Nội đến Đàlạt, khi dừng chân tại Ga Dran lúc bấy giờ, đã gặp một số tín hữu, họ tỏ ý xin thành lập một họ đạo và xin cất một ngôi nhà nguyện. Sau nhiều lần thảo luận và tìm kiếm, các cha đã quy tụ được 7 gia đình Công Giáo sống rải rác trong các đồn điền, đồng thời cất lên được một nhà nguyện tạm thời trên nền đất mua lại, nay là khu lớp học Giáo lý, và tuyên nhận Chúa Kitô Vua làm Bổn Mạng. Sau đó, Họ đạo Dran được coi sóc như một họ lẻ của Giáo xứ Đàlạt lúc bấy giờ.
Năm 1946, Cha Phaolô Vũ Văn Bộ, Phó Quản xứ Đàlạt, được cử phụ trách Họ Dran.
Năm 1948, Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình (sau là Tổng Giám mục Saigon) Quản xứ Cầu Đất, kiêm nhiệm Họ Dran. Ngài đã cho dời ngôi nhà thờ cũ và dựng lên ngôi nhà thờ mới đầu tiên bằng tôn và gỗ tại chính vị trí hiện nay.
Năm 1949, Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu (sau là Giám Mục Vĩnh Long) được cử giữ chức quản xứ (đầu tiên) chính thức của Họ Dran. Trong thời gian này, vì nhu cầu do số giáo dân tăng lên, Cha Quản xứ Giacôbê đã cho nới rộng thêm nhà thờ, đồng thời làm 2 ngôi nhà nguyện nhỏ tại Lạc Quảng và Nam Hiệp (nay là lòng hồ Đa Nhim), nhằm giúp giáo dân có điều kiện chu toàn việc thờ phượng Thiên Chúa ngay tại những nơi xa xôi hẻo lánh lúc bấy giờ.
Từ năm 1953 đến năm 1954, Cha F. Darricau (MEP) làm quản xứ. Cũng trong thời kỳ này, Họ Dran được đổi tên là Giáo Xứ Đơn Dương.
Năm 1954, Cha André Hugueny, thay Cha Darricau, làm Quản xứ trong vòng một năm, sau đó ngài xin nhập dòng Bênêđictô. Có một điểm đáng ghi nhớ trong thời Cha A. Hugueny, đó là chính ngài đã mời các Dì Mến Thánh Giá Thanh Hóa lúc bấy giờ (nay là MTG. Đàlạt) đến làm việc trong Giáo xứ và sự hiện diện của các Dì được duy trì mãi cho đến bây giờ.
Năm 1955, Cha Phaolô Vũ Tiến Chức được cử làm Quyền Quản xứ, nhưng Ngài đã sớm qua đời tại Sóc Trăng.
Năm 1956 – 1957, Cha Phêrô Trần Văn Thông, Quản xứ Cầu Đất, kiêm Quản xứ Đơn Dương. Sau đổi về làm Giám Đốc Bêtania, Chí Hòa.
Năm 1957, Cha Lôrenxô Phạm Giáo Hóa (nay đang ở Giáo xứ Thiện Lộc, Bảo Lộc) được cử thay thế.
Trong thời gian này, còn phải kể đến sự hỗ trợ đắc lực của các Thầy giảng Dòng Kitô Cái Nhum bên cạnh các cha quản xứ : Thầy Alexis (1947), Thầy Henry Phán (1946), Thầy Gabriel (1952), Thầy Antoin Marie (1953).
Trong giai đoạn đầu mới hình thành này, vì còn mới mẻ và thưa thớt, cộng thêm vào bối cảnh lúc bấy giờ, Đàlạt vẫn còn thuộc về Giáo phận Saigon, nên có thể nói sinh hoạt của Giáo xứ vẫn còn rất đơn sơ. Hạt giống Đức Tin như mới chỉ được gieo xuống và đang âm thầm nẩy mầm !
- Giai đoạn phát triển
Cha Giuse Vũ Đình Tân (1958 – 1970) :
Sự phát triển của Giáo xứ Đơn Dương được thực sự đánh dấu với sự hiện diện của Cha Giuse Vũ Đình Tân. Ngài được cử đến từ năm 1958 và đã coi sóc Giáo xứ suốt 12 năm.
Đến năm 1959, Cha Phêrô Nguyễn Văn Khoát đã đến để phụ giúp Cha Giuse khoảng 1 năm trong vai trò Phó xứ.
Vào thời gian này, Giáo xứ dần dần có được bộ mặt ổn định nhờ vào những hoạt động đầy nhiệt thành và năng nổ của Cha Giuse. Đặc biệt là với con số của những công nhân công trình thủy điện Đa Nhim và binh lính đã làm cho số giáo dân tăng lên đáng kể ! Tường nhà thờ được thay dần bằng gạch. Tượng Chúa Giêsu Vua được đặt trên tiền sảnh nhà thờ, sau đó là việc xây dựng Tượng đài Đức Mẹ. Tháp chuông cũng được dựng lên vào thời kỳ này.
Một ngôi Trường cấp 2, có đủ đến hết lớp 9, lần đầu tiên có mặt ở vùng Đơn Dương này, lấy tên là Thiên Mẫu, đã làm cho trình độ văn hóa ở đây được nâng lên. Nhiều người ở địa phương, bất kể lương giáo, nhờ vậy mà có cơ hội để tiến thân sau này.
Tất cả những việc làm trên đây đã làm cho Giáo xứ Đơn Dương có được một bộ mặt mới mẻ, có một ảnh hưởng tích cực trên toàn thể địa bàn dân cư ở đây, và đó là điều còn được chứng thực mãi cho đến bây giờ.
Cha Phêrô Mạnh Trọng Bých (1970 – 1994)
Tháng 7 năm 1970, Cha Phêrô Mạnh Trọng Bých, từ Thánh Mẫu Đàlạt, đổi đến làm Quản xứ Đơn Dương. Vào thời điểm này, sinh hoạt của Giáo xứ lại càng trở nên nhộn nhịp phong phú với những phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, Hùng Tâm Dũng Chí, cùng với sự hiện diện của các thầy giúp xứ đến từ Đại Chủng Viện Đàlạt (Phêrô Trần Đình, Antôn Nguyễn Đức Khiết, Phaolô Phạm Văn Tuấn…). Ngoài ra Cha Cố Phêrô đã cho xây dựng một khu Nhà Trẻ – Mẫu Giáo về phía nam nhà thờ và giao cho các Dì Mến Thánh Giá coi sóc.
Bên cạnh đó, ngôi nhà thờ cũng nằm trong ý định được xây dựng lại cho khang trang hơn. Tiếc thay ý muốn của Cha Cố Phêrô vẫn chưa thực hiện được ! Mãi cho đến năm 1982, Cha cố Phêrô mới có thể đại tu nhằm tránh cho nhà thờ bị xuống cấp trầm trọng. Sau khi Cha Cố Phêrô qua đời, trong thời gian chờ đợi Đức Cha bổ nhiệm cha quản xứ mới, các cha Đan Viện Thánh Mẫu Châu Sơn đã thay nhau giúp Giáo xứ trong giai đoạn này.
Cha Anphongsô Nguyễn Văn Luận (1995 – 2002)
Đến năm 1995, Cha Anphongsô Nguyễn Văn Luận được cử về đây. Vừa về đến, ngài đã nghĩ ngay đến việc tu sửa Nhà Chúa… và ngài đã thành công với việc làm mới lại nhà thờ một cách quy mô : tiền sảnh được xây lại, mái thay tôn mới, trần gỗ được thay bằng vật liệu nhựa mới thật đẹp ; các cửa và ghế trong nhà thờ cũng hoàn toàn được thay mới, một bàn thờ bằng đá cẩm thạch thay thế cho chiếc bàn thờ cũ bằng gỗ. Có thể nói đây chính là lần tu sửa có tính cách quy mô nhất từ trước đến nay !
Ngoài ra, về mặt tổ chức, Cha Anphongsô còn thành lâp Ban Đọc Sách, Ban Mai Táng, rồi phân chia phiên trực Nhà Chúa và tất cả mọi gia đình đều tham gia vào việc quét dọn nhà thờ hằng tuần. Đó là những việc vẫn còn được duy trì cho đến nay. Thế nhưng, điều kiện sức khỏe đã không cho phép ngài tiếp tục lãnh đạo cộng đồng, nên ngài đã phải đi chữa bệnh và nghỉ dưỡng rồi sau đó về an dưỡng tại nhà Nghỉ Dưỡng Linh mục Giáo phận từ năm 2002.
Nguồn: Giáo Phận Đà Lạt Kim Khánh 1960-2010.
– Bản Đồ: