
“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”
Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18
“Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.
Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.
Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia (c. 1).
Xướng: Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.
Xướng: Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.
Xướng: Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.
Xướng: Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17
“Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.
Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.
Tin Mừng: Lc 14, 25-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.
“Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: ‘Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi’.
“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút Lời Chúa
B/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
MÔN ĐỆ CỦA CHÚA
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Hành trình Đức tin là hành trình theo Chúa Giêsu và trở nên môn đệ của Người. Để trở nên môn đệ đích thực, người tín hữu phải luôn rèn luyện, học hỏi và trau dồi những nhân đức mà Chúa Giêsu đề nghị. Đi theo Chúa, không hẳn lập tức đã là môn đệ Người, nhưng còn hệ tại ở việc người theo Chúa có coi Người như một chọn lựa ưu tiên và một lý tưởng duy nhất của đời mình. Trong tiếng Hán, “môn” có nghĩa là “cửa” và “đệ” có nghĩa là “em”. Đi theo Đức Giêsu, có nghĩa nhận mình là em của Người, đồng thời chấp nhận đi qua Người như qua một cửa, để bước vào một không gian mới, không gian an bình, hạnh phúc. Nhờ được cư ngụ trong khôn gian này, mà người môn đệ tìm thấy an bình và nên hoàn thiện.
Cũng có người so sánh việc theo Chúa như theo đuổi một “người tình không chân dung”. Điều đó có nghĩa, chúng ta theo Chúa Giêsu, nhưng lại không trực tiếp nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Như những người đang yêu thường tương tác với nhau bằng ngôn ngữ của trái tim, người tín hữu gặp gỡ Chúa bằng con tim, bằng tình yêu cảm mến để nhận ra Người đang hiện diện trong cuộc đời. Lịch sử Giáo Hội ghi lại có những vị thánh đã đạt tới đỉnh cao của sự hoàn thiện. Các ngài sống giữa thế gian mà như đã hoàn toàn siêu thoát. Bởi lẽ các ngài đã thực sự gặp gỡ Chúa, được kết hợp thâm sâu với Ngài. Đối với các vị thánh, thiên đàng đã ở nơi trần thế, vì Thiên Chúa đang hiện diện giữa con người.
Một điều kiện rất khó khăn để theo Chúa, đó là từ bỏ. Lời mời gọi của Chúa Giêsu xem ra đi ngược với đạo hiếu và những mối tương quan gia đình thân thiết. Người đề nghị những ai theo Chúa phải “dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống của mình”. Chúng ta không chỉ đọc Kinh Thánh rời rạc một câu hay một đoạn, nhưng phải đọc trong văn mạch và toàn bộ Kinh Thánh để hiểu đúng ý nghĩa giáo huấn của Chúa. Thánh Luca đặt câu chuyện này trong bối cảnh Chúa Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, nơi có nhiều chống đối và thử thách đang chờ đợi. Ông cũng khởi đầu bằng lời dẫn nhập: “Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Chúa Giêsu”. Họ đi đường cùng với Chúa, nhưng chưa chắc đã là người muốn theo Chúa. Chúng ta cũng đừng quên bối cảnh xã hội cụ thể khi Tin Mừng thánh Luca được viết ra: vào thời đó, có những người gốc Do Thái trở lại Kitô giáo. Cũng có những người dân ngoại, không tin một tôn giáo nào, xin theo Đạo. Những người này, khi chấp nhận gia nhập Giáo Hội non trẻ, họ bị gia đình ruồng bỏ, thậm chí bị đe doạ giết chết. Những người lãnh đạo Do Thái giáo đã quyết định những ai tin Chúa Giêsu thì bị đuổi ra khỏi hội đường. Chắc hẳn đã có nhiều tín hữu lo sợ rút lui và bỏ Đạo. Trong bối cảnh này, Luca nhớ lại lời giảng dạy của Chúa. Ông chứng minh cho mọi người biết, Chúa đã báo trước tình trạng này, để khuyên những người dự tòng và tân tòng hãy vững tin, vì phần thưởng Chúa ban cho người trung tín rất lớn lao. Tác giả Tin Mừng muốn trấn an các tín hữu đang bị dao động: Hãy cẩn thận, vì khi theo Thầy Giêsu phải trải qua nhiều thử thách cam go. Vậy, trước khi quyết định theo Chúa, cần cân nhắc suy tư, để chấp nhận những thử thách đó.
Chúa Giêsu không dạy những lý thuyết suông, nhưng chính Người làm gương cho chúng ta trong sự từ bỏ. Thực vậy, là Thiên Chúa cao sang, Người đã từ bỏ ngai trời để làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Người đã nên nghèo khó vì chúng ta. Người đã vâng lời Chúa Cha và đã chấp nhận cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúa Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về sự từ bỏ. Mầu nhiệm Nhập thể mà đỉnh cao là thập giá, đã nói lên sự từ bỏ đó. Ngày hôm nay, Chúa vẫn kiên nhẫn, khiêm tốn, âm thầm hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để ở cùng với chúng ta trên mọi nẻo đường, cho đến ngày tận thế.
Nếu người Kitô hữu hôm nay không còn bị yêu cầu từ bỏ cha mẹ, anh chị em, thì theo Chúa Giêsu vẫn là lời mời gọi buông bỏ để thực sự tự do. Quả thực, con người hôm nay bị ràng buộc tư bề, đó là những đam mê, những nết xấu, những mưu mô, những tính toán bon chen. Ngoài ra còn những ràng buộc khác như những phương tiện công nghệ, những tiện nghi. Người theo Chúa cần có sự quân bình trong cách sống và trong cách sử dụng những tiện nghi đó.
Từ bỏ chính mình, đó là một điều kiện quan trọng để trở nên môn đệ Chúa Giêsu. Thiếu sự từ bỏ chính mình, chúng ta vẫn chưa thuộc về Đức Giêsu cách trọn vẹn mà chỉ là thuộc về Người trên danh nghĩa. Đấng đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì bạn chưa bỏ gì cả, vì chính bạn sẽ dần dần quơ góp lại những gì bạn đã bỏ trước đó” (Đường Hy vọng, số 3). Tự nguyện vác thập giá đời mình để theo Chúa không phải là một khẩu hiệu được hô vang, nhưng là những thực hành cụ thể trong mối tương quan hằng ngày. Vác thập giá trong cách âm thầm khiêm tốn chứ không ồn ào tô vẽ lấy tiếng khen. Xin trích dẫn một ý tưởng nữa cũng của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm” (ĐHV, số 171). Vâng, chúng ta sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc rước, nhưng không mấy sẵn sàng vác thánh giá trong cuộc đời.
Bài đọc II trong Phụng vụ nêu cho chúng ta một trường họp cụ thể, đó là ông Philemon. Ông là một người khá giả đã gia nhập Kitô giáo. Ông có một người nô lệ, tên là Onêsimô. Cậu bé này đã chạy trốn khỏi nhà chủ, sau khi đã trộm cắp tài sản của ông. Sau khi chạy trốn, người này gặp thánh Phaolô và được ngài cải hoá. Osênimô đã được thánh Phaolô rửa tội. Thánh Phaolô quyết định gửi lại anh ta về với ông chủ, kèm theo lá thư rất thân tình của vị tông đồ, với lời khuyên ông Philêmôn hãy đón nhận cậu bé, không còn như một người nô lệ, nhưng như một người anh em yêu quý, thậm chí “hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi vậy” (câu 17). Chúng ta tưởng tượng, Philêmôn đã phải chấp nhận điều đó khó khăn như thế nào! Đức tin Kitô giáo đã xoá bỏ khoảng cách giữa chủ và nô lệ. Hơn thế nữa, Đức Ái kêu mời hãy tha thứ và đón nhận những người đã trót lầm lỗi và sám hối ăn năn, tạo cho họ cơ hội để vươn lên sau một lần lầm lỡ. Môn đệ là người từ bỏ tất những gì thuộc về mình cả nhưng lại sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người như anh chị em thân thiết.
Tin vào Chúa không chỉ là thuộc kinh Tin Kính, nhưng là dấn thân theo Chúa bằng chính đời sống của mình. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy gặp gỡ Người, và mối ưu tư của người môn đệ luôn luôn là câu tự vấn: Đối với tôi, nhân vật Giêsu có phải là một nhân vật rất quan trọng và là động lực cho hành động cũng như suy tư hằng ngày?”. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đi từ tôn giáo đến Đức tin, tức là từ một lòng đạo đức dựa trên thói quen để gặp gỡ Chúa và gắn kết với Người.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang gọi chúng ta bước theo Người. Theo Người, không chỉ có thập giá, mà còn có niềm vui. Phần thưởng Chúa ban cho người kiên trung theo Chúa, cũng không phải chỉ ở đời sau, mà ngay cả đời này. Chúa đã hứa ban gấp trăm lần cho những ai vì Người mà sẵn sàng bỏ nhà cửa, ruộng nương, cha mẹ. Thực tế chứng minh, Chúa vẫn luôn thực hiện lời hứa ấy.
Xin Chúa cho chúng ta vững bước theo Chúa, dù con đường theo Chúa là con đường thập giá. Đấng đã vác thập giá cũng là Đấng đã phục sinh vinh quang. Hôm nay người đang cùng với chúng ta bước đi trên đường đời. Xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và niềm vui trong hành trình theo Người. Amen.
C/ Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐI THEO CHÚA
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
Sứ điệp Lời Chúa tuần 21: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúa Giêsu đã đi con đường hẹp và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.
Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó?
Sứ điệp Lời Chúa tuần 22 cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên, nói đến những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.
Chúa nhật 22, với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường và đức bác ái.
Chúa nhật 23, chính là từ bỏ và vác thập giá đi theo Chúa.
1. Từ bỏ
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như thế làm sao mà sống được? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí lớn hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”.
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ của cải bằng cách chỉ coi mình như người quản lý thôi; từ bỏ tình cảm, ngay cả với những người thân thiết nhất bằng cách không bao giờ ưu tiên cho họ hơn Chúa; từ bỏ chính bản thân, những ý thích cá nhân, từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển. Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập.
Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nơi ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.
Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình. Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
D/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
TỪ BỎ NHỮNG GÌ THÂN THIẾT, ĐẶC BIỆT LÀ CỦA CẢI
CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
1. Chúa Giêsu rao giảng tình yêu chứ không phải hận thù. Ngài không hề nghĩ đến việc phế bỏ giới luật thứ tư (Lc 18,19-20) về tình yêu và lòng tôn kính phải có đối với cha mẹ. Do đó đừng ai bực mình khó chịu vì câu Ngài nói có vẻ cứng rắn: “ghét cha, ghét mẹ, ghét bản thân mình”, ngôn ngữ Hy bá diễn tả ý niệm thích hơn (preférence) bằng lối văn đối ngẫu: yêu – ghét. Thay vì nói: Thiên Chúa thích Giacop hơn Esau, tiếng Hy bá nói: “Ta thương Giacop và ghét Esau” (Mal 1,2-3). Trong ngôn ngữ Seemit, “ghét” đồng nghĩa với: hững hờ, để vào hàng phụ thuộc (x. Stk 29,30.31.33; Đnl 15,21-22; Qa 14,16; …). sau khi điều chỉnh thể văn sêmit, ta có thể đọc: “Nếu ai đến với Ta mà yêu cha mẹ, yêu bản thân hơn Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.
2. Các đám đông hâm mộ Chúa Giêsu chắc hẳn xem việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Chúa Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Chúa Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài: họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Chúa Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.
3. Hai dụ ngôn tiếp theo thật khó giải thích; không phải tự chúng khó hiểu, thực ra chúng rất đơn sơ, cả hai đều nói lên cùng một ý tưởng: người quyết định làm ăn lớn, thì phải điều nghiên cứu kỹ lưỡng khả năng và phương tiện xem mình đủ sức thực hiện chăng. Nhưng còn cho đó nữa. Cả hai dụ ngôn đều đưa ra một sự lựa chọn: xây hay không xây tháp; gây chiến hay hòa hoãn. Khó khăn là ở chỗ đó, chắc hẳn không phải là dụ ngôn khó hiểu nhưng là khó áp dụng hai dụ ngôn đó vào hoàn cảnh của các môn đệ. Vì theo nghĩa nào mà mỗi người có thể tự do lựa chọn trước lời Thiên Chúa mời gọi theo Ngài? Vì khó khăn đó, nên các nhà chú giải chia rẽ nhau về lối giải thích toàn bộ giáo huấn của Chúa Giêsu. Người thì cho rằng toàn bộ giáo huấn nhắm đến mọi Kitô hữu nói chung, kẻ khác chủ trương giáo huấn đó chỉ nhắm đến các môn đệ mà thôi, nghĩa là những kẻ chỉ tuyệt đối bám víu vào Chúa Giêsu, nên từ bỏ nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình để theo Ngài. Chúng ta cùng xét hai lập trường đó cách chi tiết.
a/ Nhóm thứ nhất (Pirot, Jeremias, Hunter, Harrington… ) nhấn mạnh đến sự kiện cả hai dụ ngôn đều nói đến sự cần thiết phải hoàn toàn dấn thân theo Đức Kitô, chứ không được dấn thân nửa vời. Vì như đã viết trong hai dụ ngôn: “bắt đầu ngồi lại: “để tính toán” – “để tự xét mình”. Do đó hai dụ ngôn xem ra muốn làm nổi bật nhu cầu phải dấn thân theo Đức Kitô, với đầy đủ ý thức về các yêu sách từ bỏ mà việc dấn thân đó đòi hỏi. Trước khi dấn thân mạo hiểm, phải xác tín mình có thể mình đến đích an toàn. Nhưng nhóm tác giả này không tiếp tục phân tích sâu xa hơn. Đặc biệt, hình như họ không thận thấy điểm này: người được Đức Kitô kêu gọi sống tinh thần phúc âm, không còn tự do theo hay không theo Ngài, mà phải tuyệt đối đáp lại lời mời gọi đó, nếu không sẽ không được vào vương quốc. Phúc âm đã nhiều lần nhấn mạnh đến sự cần thiết phải dấn thân theo Đức Kitô, chứ không thể đứng trung lập, làm tôi hai chủ. Với viễn ảnh này, người ta thấy khó lòng chấp nhận lối chú giải thứ nhất – cho đủ mạch văn (“dân chúng đông đảo: của c.25) và kiểu nói chung chung (“ai”, trong c.27 và 33) thoạt nhìn có vẻ nghiêng theo lối chú giải đó.
Tuy nhiên, một vài tác giả thuộc nhóm thứ nhất này, ý thức được khó khăn trên (ví dụ Huby), chấp nhận lối chú giải phổ quát của đoạn văn hôm nay, nhưng thay đổi “giọng điệu” hay “cao điểm” của hai hai dụ ngôn. Cha Huby viết: “Nếu muốn theo Chúa Giêsu Kitô, phải muốn những gì tình yêu Ngài đòi hỏi: không thể hiến mình nửa vời, phải tận hiến đến cùng. Có hai hình ảnh soi sáng chân lý đó. Chúng không nhằm giúp ta phỏng đoán sức lực mình trước khi bắt đầu công việc cứu rỗi mình, như thế chúng ta không bị bó buộc phải thi hành công việc đó. Nhưng chúng nhằm tẩy trừ mọi ý tưởng chủ bại, thối lui, một khi đã dấn thân theo Chúa Giêsu nhằm khắc ghi trong tâm trí chúng ta rằng phải từ bỏ liên lỉ. Phải hành động như người địa chủ khôn ngoan dự tính xây tháp. Vì đã cẩn thận tính toán mọi phí tổn, nên ông sẽ hoàn tất tốt dự tính của mình… hoặc hơn thế nữa, phải xử sự như vua kia, trước khi đi giao chiến với quân thù, tính toán khả năng hai đạo quân, để giải quyết vấn đề kịp thời. Nếu biết sức mình yếu ông sẽ không giao chiến. Điều ông muốn không phải là hòa bình cho bằng là tránh mạo hiểm, liều mạng. Trong trường hợp không thể có hòa bình bằng chiến thắng, ông cam lòng chấp nhận thứ hòa bình xây dựng trên hiệp thương… Cũng vậy, hãy hành ộng như những người địa chủ xây tháp hay như ông vua ra trận, vì “niềm ao ước đích thực sẽ tìm mọi cách để thực hiện điều mình ao ước” (Evangile selon saint Luc,41è éd., Beauchesne, 1947,p.291-292).
Lối chú giải đó thật hấp dẫn và khéo léo, nhưng không chắc có thể thỏa mãn mọi người. Vì hình như lối giải thích đó hơi bị gượng ép. Thực vậy, chính bản văn về hai dụ ngôn nhấn mạnh đến việc suy tính trước khi dấn thân, trong lúc Huby nhấn mạnh đến sự cương quyết dấn thân cho đến cùng một khi đã quyết định dấn thân. Tôi thiết nghĩ Huby đã nhấn mạnh sai chỗ, làm hỏng bài học của dụ ngôn. Dù sao, lối chú giải của dụ ngôn là lối chú giải duy nhất trong nhóm thứ nhất trong nhóm thứ nhất có thể làm ta nhận rằng: ở đây Chúa Giêsu ngỏ lời cách tổng quát với bất cứ ai muốn trở thành Kitô hữu.
b/ Nhóm thứ hai chú ý đến những ai đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Các phúc âm đã biết rõ phương thế đặc biệt để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, đó chính là phương thế các tông đồ đã làm để theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không đòi buộc mọi tín hữu phải khước từ hôn nhân, nhưng chỉ đòi “những ai có thể hiểu lời đó” (Mt 19,12). Ngài không đòi tất cả phải hoàn toàn từ bỏ tiền bạc và quyền tư hữu. Ông Giakêu thu thuế đã không từ bỏ của cải, sau khi đã hoán cải (Lc 19,1-10). Các bà xứ Galile đã không từ bỏ mọi thứ họ có (Lc 8,3). Và trong các chương đầu sách Cvsđ, khi mô tả cộng đoàn nguyên thủy, Lc cho thấy họ không sống lối khó nghèo tận căn như lới khó nghèo mà các môn đệ đúng nghĩa đã sống (ví dụ Phêrô với tín đồ Anania: “Khi còn của, thì nó vẫn là của ngươi, mà bán đi, thì về giá cả ngươi vẫn tự quyền” (Cvsđ 5,14).
Vậy khi đề cập đến tính cách sâu xa của việc môn đệ dấn thân, theo đoạn văn Lc hôm nay, Chúa Giêsu nói đến cách thức đi theo Ngài: cách thức thật chặt chẽ và hoàn toàn. Và để có thể theo Ngài như thế, lòng hăng say ban đầu không đủ. Vì cách thức đi theo Ngài đây kiên hệ mật thiết với sự từ bỏ tận căn – từ bỏ những cái xem ra rất cần thiết cho đời sống. Do đó phải suy nghĩ chín chắn trước khi theo Chúa Giêsu kiểu đó. Chúa Giêsu cũng đã khuyến cáo như thế nhiều nơi khác trong Phúc âm. Đó cũng chính là cách Chúa Giêsu đã trả lời người kia muốn dấn thân theo Ngài “Bất cứ Ngài đi đâu” (nghĩa là trở thành môn đệ đúng nghĩa) : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, còn Con Người không có nơi gối đầu (Lc 9,57-58). Chúa Giêsu xin người tận hiến kiểu đó nên suy nghĩ, vì như thế đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh – tuy nhiên điều này không có ý nói, khi Chúa Giêsu đích thân kêu gọi ai, thì người đó có thể từ chối. Khi Chúa mời gọi, không ai có quyền từ chối.
Lối chú giải thứ hai ít gặp khó khăn hơn lối chú giải thứ nhất. Nó có lợi điểm này là tránh không làm người ta xem việc lựa chọn để thành Kitô hữu là một lựa chọn tùy ý, tùy sở thích (vì lối chú giải thứ 2 này nói đến việc chọn lựa để thành môn đệ), và có ưu điểm là trùng hợp với học thuyết Lc về việc phân biệt người Kitô hữu nói chung với người môn đệ đúng nghĩa. Tuy nhiên, lối chú giải này vẫn chưa hoàn toàn thỏa đáng. Vì nó giả thiết chữ “môn đệ” chỉ cách nhau vài câu mà lại có 2 nghĩa khác biệt: phần đầu đoạn văn (cc.25-27) nói về sự cần thiết phải yêu Đức Kitô hơn hết mọi liên hệ nhân bản, được áp dụng cho Kitô hữu nói chung, trong khi hai dụ ngôn và lời khuyên từ bỏ của cải xem ra chỉ áp dụng cho các môn đệ đúng nghĩa. Lối chuyển nghĩa trong chữ “môn đệ” như thế không mất tự nhiên. Tuy nhiên điều đó không lạ gì và có thể giải thích cách tốt đẹp nếu Lc đã muốn góp nhặt trong một đoản văn các lời nói rời rạc của truyền thống phúc âm về việc “đi theo” Chúa Giêsu.
Để kết thúc, tôi xem lối chú giải thứ hai có vẻ đúng hơn, dù lối chú giải đó có một vài khó khăn chưa được giải quyết (ví dụ được bản văn không có chi phân biệt người Kitô hữu và người môn đệ cả). Nhưng các khó khăn đó có thể xảy ra do sự kiện người cuối cùng soạn thảo phúc âm Lc cảm thấy phải thu góp thành một khối tất cả các lời Chúa Giêsu nói trong nhiều trường hợp khác nhau, với nhiều cử tọa khác biệt.
KẾT LUẬN
Đám đông dân chúng cùng đi với Chúa Giêsu tượng trưng đoàn người đông đảo, qua mọi thế hệ, đã và đang ngưỡng mộ Chúa Giêsu. Tuy nhiên qua sự kiện đó, không phải tất cả đều là môn đệ Ngài. Vì để thành môn đệ phải theo Ngài, nghĩa là trước hết phải yêu Ngài. Và tình yêu này có nhiều yêu sách vượt bậc.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Dùng lời nói và phép lạ để làm dân chúng hăng say cách nhất thời là việc tương đối dễ. Chúa Giêsu không thích kiểu thành công ngoại diện đó để có những đoàn người hăng say vây quanh Ngài. Ngài biết rằng số môn đệ đích thực, đủ sức kiên tâm bền chí không nhiều đâu (Gio 2,23-25). Vì thế một lần nữa, Ngài muốn thính giả lưu ý đến sự nghiêm chỉnh Ngài mong chờ nơi những người muốn theo Ngài và giáo lý của Ngài (x. Lc 9,23-26.57-62), Nếu nghĩ đến viễn cảnh bắt bớ sẽ đến sau này, ta mới hiểu việc Chúa Giêsu đòi hỏi cần có nghị lực để đương đầu với các mối bất hòa trong gia đình, sự nguy hiểm đến tính mạng và tịch thu tài sản… Đối với chúng ta theo Đức Kitô có nghĩa là: chọn lựa hy sinh, sẵn sàng chết vì đạo, như cha ông ta đã làm. Và để có sức chịu đựng các yêu sách của Đức Kitô lúc bấy giờ, thì ngay bây giờ chúng ta phải sống các yêu sách đó trong cuộc sống cụ thể, hiện tại của chúng ta.
2. Trong ngôn ngữ thánh kinh, “ghét” có nghĩa là “yêu ít hơn” hay “chỉ yêu vào hàng thứ yếu”. Yêu Đức Kitô hơn các người khác (dù là người thân trong gia đình) sẽ được hiểu dễ dàng khi biết rằng Đức Kitô là Thiên Chúa. Tình yêu đó có vẻ quá đáng đối với những ai không biết phẩm vị đích thực của Chúa Giêsu.
3. Yêu Chúa Giêsu hơn yêu gia đình, tình yêu đó có thể có nhiều hình thức: trong thời bách hại, hãy chấp nhận mình có thể bị tố cáo hay bị người thân theo dõi, bắt bớ (Mt 10,21); thời bình, hãy sống thật đạo đức thánh thiện ngay trong gia đình, dù là gia đình hờ hững hay chống đạo (Mt 10,34-37); từ chối lập gia đình vì muốn dâng cho Thiên Chúa một tình yêu lành thánh trinh khiết (1Cor 7,7). Trong các trường hợp đó, người Kitô hữu trong tình yêu Thiên Chúa đem đến, sẽ nhận được gấp trăm điều họ đã từ bỏ về phương diện tình cảm, nhằm để phục vụ môt lý tưởng cao đẹp hơn (Mt 19,29).
4. Hai dụ ngôn trong phúc âm hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng việc dấn thân phục vụ Chúa không phải là một vấn đề thuần túy hình thức, đăng ký vào sổ bộ, mang nhãn hiệu … Đời sống Kitô hữu là một công việc nghiêm túc mà ta phải để tâm lưu ý và săn sóc như đã từng để ý chăm nom các công việc trong đời tư (xây nhà) hay việc chung (đánh giặc). Khi muốn xây nhà hay tự vệ chống đối phương, ta phải dùng mọi phương thế để thành công, để đạt đến đích. Cũng thế phải nghiêm túc sống đời Kitô hữu và thực hành đến cùng các yêu sách luân lý, vì đời Kitô hữu là đời từ bỏ, nỗ lực phấn đấu và kiên trì. Sống nửa vời không ích gì, nếu cuối cùng ma quỉ đến cám dỗ chúng ta chối bỏ Đức Kitô. Phải tự tổ chức đời mình để phụng sự Chúa. Để được như vậy, cần phải khiêm tốn xin Ngài ban ơn vì “nếu Chúa không xây nhà, thợ nề làm việc cũng uổng công, nếu Chúa không giữ thành, bộ đội giữ thành cũng không xong” (Tv 127,1). Nhưng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta sẽ hoàn tất ngôi nhà lộng lẫy là đời Kitô hữu chúng ta, được xây móng từ ngày chúng ta lãnh bí tích rửa tội, và chúng ta sẽ chiến thắng kẻ thù của tâm hồn chúng ta. Và ngày phán xét, Chúa sẽ công nhận chúng ta là môn đệ của Ngài trước mặt Chúa Cha và toàn thể các thánh.
E/ Những bài suy niệm khác
THEO CHÚA LÀ MỘT QUYẾT ĐỊNH TRƯỞNG THÀNH
KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ THEO CHÚA
THEO CHÚA KI-TÔ LÀ SỐNG ĐỨC KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA
ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA
NHỮNG ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA