• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật XVII Thường Niên – Năm C

Ngày Đăng: 04/05/2024
Trong Mùa Thường Niên

“Các ngươi hãy xin thì sẽ được”.

Bài Ðọc I: St 18, 20-32

“Lạy Chúa, nếu con nói, xin Chúa đừng nổi giận”.

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa phán: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ”.

Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu”. Chúa phán cùng Abraham rằng: “Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành”. Abraham thưa lại: “Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa. Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì bốn mươi lăm người công chính, Chúa có tàn phá cả thành không?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành”. Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: “Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?” Chúa phán: “Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt”. Abraham nói: “Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?” Chúa phán: “Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát”. Abraham thưa: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.

Ðáp Ca: Tv 137, 1-2a. 2bc-3. 6-7ab. 7c-8

Ðáp: Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con (c. 3a).

Xướng: Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, vì Chúa đã nghe lời miệng con xin: trước mặt các Thiên Thần, con đàn ca mừng Chúa; con sấp mình thờ lạy bên thánh điện Ngài. 

Xướng: Và con sẽ ca tụng uy danh Chúa, vì lòng nhân hậu và trung thành của Chúa. Khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con; Chúa đã ban cho tâm hồn con nhiều sức mạnh. 

Xướng: Quả thật Chúa cao cả và thương nhìn kẻ khiêm cung; còn người kiêu ngạo thì Ngài ngó tự đàng xa. Nếu con đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn con sống; Chúa ra tay phản đối quân thù giận dữ.

Xướng: Tay hữu Chúa khiến con được sống an lành. Chúa sẽ hoàn tất cho con những điều đã khởi sự. Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại muôn đời; xin đừng bỏ rơi công cuộc tay Ngài.

Bài Ðọc II: Cl 2, 12-14

“Người đã khiến anh em chung sống với Người và tha thứ mọi tội lỗi”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôssê.

Anh em thân mến, nhờ phép rửa tội, anh em đã được mai táng làm một với Ðức Kitô, anh em cũng được sống lại với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Ðấng đã cho Người từ cõi chết sống lại.

Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá.

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.

Tin Mừng : Lc 11, 1-13

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Người nói với các ông:

“Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ‘Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ’”.

Và Người còn bảo các ông rằng: “Nếu ai trong các con có người bạn, giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: ‘Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi anh ấy’. Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: ‘Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi dậy lấy bánh cho anh được’. Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.

“Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.

“Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư? Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.

SUY NIỆM

A/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên

TÌNH CHA

 CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào tình thương. Nói đúng hơn, cách thể hiện tình cảm của người cha khác với người mẹ. Tuy vậy, tình cha không kém gì tình mẹ, vừa rộng mở, vừa bao dung. Nếu có nghiêm khắc, là vì muốn cho con nên người, bởi lẽ “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Cũng trong quan niệm thông thường của người Việt Nam, chữ “tình” rất quan trọng. “Trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Vì tình nghĩa, người ta dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, “chín bỏ làm mười”, để quên đi quá khứ và sống hài hoà với nhau trong một làng, một xóm hoặc một đại gia đình.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được xưng tụng là Cha. Ngài rất khiêm khắc đối với tội nhân, nhưng lại bao dung đối với những ai thành tâm sám hối. Ngài là Đấng “nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6). Câu chuyện ông Abraham “mặc cả” với Chúa đã diễn tả lòng nhân từ của Ngài. Thời đó, dân thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra sống trong tội lỗi và sa đọa, khiến Thiên Chúa bừng bừng nổi giận. Ngài quyết định sẽ trừng phạt họ. Ông Abraham đã “năn nỉ” với Chúa và dần dần từng bước hạ thấp điều kiện. Từ con số năm mươi người công chính, ông đã hạ xuống chỉ còn mười người, nhờ đó mà Chúa thay đổi ý định trừng phạt. Thiên Chúa đã bớt giận trước lời nài xin của ông Abraham và Ngài đã đồng ý: nếu có được mười người công chính thì Ngài sẽ không tru diệt hai thành này. Tác giả sách Sáng thế đã dùng lối văn “như nhân” để diễn tả Thiên Chúa. Ngài nguôi giận trước sự van xin của con người. Nếu đọc tiếp đoạn Sách thánh này, chúng ta sẽ thấy, điều kiện có mười người công chính cũng không đạt được. Thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra đã bị lửa diêm sinh từ trời thiêu rụi. Tất cả đã bị tru diệt, chỉ trừ gia đình ông Lót, là người kính sợ Chúa. Khi vừa chạy khỏi thành, bà vợ ông Lót, vì tiếc của quay lại, bỗng hoá thành tượng muối.

Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn trước sự xúc phạm của con người, thì con người cũng phải kiên nhẫn cậy trông để thoát khỏi trừng phạt. Người hàng xóm trong Tin Mừng thánh Luca đã kiên trì nhẫn nại để vay bánh vào lúc nửa đêm. Sự kiên trì đã làm thay đổi lòng chai đá của chủ nhà, mà trỗi dậy lấy bánh cho người hàng xóm. Chúa Giêsu đã dùng một tình huống đời thường để liên hệ đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Nếu người thường còn làm thế, huống chi Cha trên trời. Hãy kiên trì cầu nguyện. Hãy phó thác nơi Thiên Chúa những lo lắng của cuộc đời. Ba động từ được Chúa Giêsu nhắc tới, đó là: xin, tìm, gõ cửa. Cả ba hành động này đều diễn tả sự kiên nhẫn, lòng cậy trông và tin tưởng phó thác. Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài luôn lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng ta.

Cầu nguyện làm nên cốt lõi đời sống người tin Chúa. Vì cầu nguyện chính là than thở với Ngài, để trình bày với Ngài về nỗi niềm nhân thế. Cầu nguyện cũng là xin Chúa đỡ nâng trên đường đời còn mang nhiều truân chuyên. Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Lời Kinh “Lạy Cha” diễn tả mối dây thiêng liêng giữa Thiên Chúa và người tín hữu. Chỉ có Chúa Giêsu mới được gọi Thiên Chúa là Cha, vì Người là Con của Chúa Cha, như Người nhiều lần khẳng định. Lời cầu nguyện mà Người dạy các môn đệ khởi đầu bằng hai chữ “Lạy Cha”, hoặc “Thưa Cha”, hoặc “Cha ơi”. Như vậy, Chúa Giêsu đã cho phép chúng ta gọi Chúa là Cha, giống như bản thân Người. Nói cách khác, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu mà chúng ta được gọi Chúa là Cha với tâm tình thân thương trìu mến.

Nếu chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thân thưa với Ngài: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, là nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.  Thánh Phaolô nói với chúng ta: trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi mọi chướng ngại ngăn bước chúng ta đến gần Thiên Chúa.

Khác với lối cầu nguyện kể lể dài dòng và nhằm phô trương nơi những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kịch liệt lên án, kinh Lạy Cha ngắn gọn, đơn sơ mà lại mang nội dung rất phong phú. Đây là tâm tình đơn sơ của người con thảo thân thưa với Chúa. Điều cầu nguyện ưu tiên là ước mong cho vinh quang Chúa tỏ hiện giữa lòng nhân thế, để mọi người trên thế giới nhận biết Chúa là Cha vinh hiển quyền năng. Tiếp đó là những ý cầu nguyện xin cho bản thân và cho những người anh chị em bạn hữu. “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Lời kinh khiêm tốn nhẹ nhàng, vừa hướng chúng ta về Chúa, vừa liên kết chúng ta với tha nhân. Lời kinh cũng thể hiện thiện chí sống hài hoà với mọi người nhờ ơn Chúa, để có được trái tim bao dung như Ngài.

Với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, chúng ta cùng thưa với Chúa; “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Chắc chắn lời kinh sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an, trong mọi tình huống của cuộc đời.

B/ Lm. Giuse Lê Danh Tường

LỜI CẦU NGUYỆN THAY ĐỔI SỐ PHẬN

Chúa Nhật XVII Thường Niên – Năm C

 (St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13)

Nói đến số phận con người, ta dễ liên tưởng đến một sự định đoạt cho mỗi người, một định đoạt về cuộc sống, một định đoạt về cái chết. Số phận được coi như bất di bất dịch, không thể thay đổi. Và người ta chỉ còn biết đón nhận nó khi thấy an vui hạnh phúc, hay chấp nhận nó khi nghiệt ngã đau thương. Nhưng với lời cầu nguyện, số phận hoàn toàn được biến đổi.

Sống trong một xã hội đầy rẫy những rủi ro, người ta dễ thốt lên câu “thôi, chấp nhận số phận này”. Một tai nạn hay một ác bệnh xảy đến, người ta thường hay tự an ủi với cái định đề: số phận đã định. Nhưng rồi rủi ro xảy ra nhiều hơn, nó xuất hiện như cơm bữa mọi nơi mọi lúc khiến người ta phải dừng lại tìm hiểu nguyên do. Nại đến pháp lý là đi tìm cái đúng cái sai, ai đúng ai sai, ai chịu trách nhiệm cho sự vụ này.

Năm xưa dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra mà bài đọc 1 nhắc đến (x. St 18, 20-32) đã rơi vào cảnh khốn cùng. Dường như họ sắp bị diệt vong. Giữa cái như là số phận ấy, Abbraham đã nhận ra thủ phạm dẫn lối đến tình trạng be bét này là những con người tội lỗi, xấu xa đang sống trong thành đó. Và giữa những thành phố ấy có những con người ngay chính đã bị vạ lây nên phải sống trong cảnh lầm than. Trước cảnh ngộ đó, Abbraham đã lên tiếng. Ngài đã lên tiếng với Chúa, đã cầu nguyện với Chúa. Chút “láu cá” của thánh Tổ phụ Abbraham trong việc năn nỉ Chúa đã kéo dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra ra khỏi thảm trạng diệt vong.

Abbraham đã làm gì? Ngài đã lôi cả 2 thành phố đặt lên bàn cân trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã “lạm dụng” lòng thương xót của Chúa để xin Chúa can thiệp vào dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra (x. St 18, 22-32). Với sự can thiệp của Thiên Chúa, cái số phận như định sẵn ấy đã được biến đổi. Họ đã từ cõi chết mà được sang cõi sống.

Trong bài Tin Mừng (x. Lc 11, 1-13 ), lời cầu nguyện của thánh Gioan tiền hô và của Chúa Giê-su năm xưa ắt hẳn có sức biến đổi lạ thường nên mới khiến các môn đệ thưa với Thầy:  “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông” (Lc 11,1).

Đức Giê-su đã lên tiếng dạy các ông cầu nguyện một lần duy nhất và là tất cả. Chữ đầu tiên của lời cầu nguyện đã kéo lòng người môn đệ hướng thẳng về Trời cao. Khi thốt lên “Lạy Cha” (Lc 11,2) ta hướng lòng về Chúa đơn sơn như một đứa bé gọi bố mình “Bố ơi!”. Một tâm tình tự nhiên, không lý luận, không điều kiện, không đắn đo tính toán. Đơn giản là một sự thân tình mật thiết trong tình cha con. Và rồi tất cả những gì tiếp theo của lời cầu nguyện là mong cho mọi người cùng nhận biết Chúa và đến với Chúa như con thơ, là phơi bày cuộc sống của mình trước Chúa và để cho Chúa can thiệp: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11, 4).

Đứng trước những trắc trở của cuộc sống, người ta dễ đi tìm những phương thế theo suy luận của con người để giải quyết. Nhưng đời này qua đời khác, khoa học phát triển không ngừng, nhưng vẫn còn đấy vấn nạn của “số phận con người”. Đi đến tận cùng của vấn nạn, ta lại bắt gặp trở lại câu chuyện của dân thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra năm xưa. Cái bấp bênh của cuộc sống xem ra lại là hậu quả của một cuộc sống xa đọa, tội lỗi của chính mình, hay của ai đó quanh ta. Nó hoàn toàn không phải là số phận đã định sẵn cho tôi hay cho bạn. Và cái tội gây ra mọi tội lỗi ở đời ấy là sự phớt lờ Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện chính là lúc đặt lại đời mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa; Chấp nhận Ngài một cách vô điều kiện, phó thác chính con người của mình cho Ngài; Chấp nhận đi theo sự chỉ dẫn của Ngài và mở rộng tâm hồn để đón nhận ơn của Ngài. Khi ấy ta sẽ được biến đổi và dần trở nên thánh thiện trong vinh quang của Ngài.

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 (x. Cl 2, 12-14) đã cảm nhận rất rõ thế nào là đời sống của một con người được sống trong Chúa. Chính khi thánh Phaolô chấp nhận Chúa Giê-su là khi ngài được biến đổi. Từ con người đi lùng bắt và bách hại các Ki-tô hữu, ngài trở nên con người đi làm cho thiên hạ trở thành Ki-tô hữu. Ngài đã thổ lộ với dân thành Cô-lô-sê: “Anh em vốn đã chết vì tội lỗi anh em và bởi không cắt bì tính xác thịt của anh em, nhưng Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta” (Cl 2, 13)

Nếu sự sa đọa tội lỗi của người này khiến người khác bị vạ lây, thì lời cầu nguyện của ta cũng có sức biến đổi chính những con người tội lỗi. Bởi khi ấy, không phải ta đã làm người tội lỗi biến đổi, nhưng chính Chúa đã biến đổi họ.

Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.

C/ Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

CHÚA NHÂN TỪ LẮM, CỨ XIN

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

(Lc 11, 1-13)

Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mặc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tột đỉnh của lòng thương xót Chúa là tha thứ.

Xin như Abraham xin

Từ cây sồi ở Mambrê Chúa tỏ cho Abraham biết ý định của Chúa (x. St 18,1), Abraham nhận ra lòng thương xót Chúa, nên khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông ỷ nại vào lòng nhân từ Chúa, ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa nhân từ không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt Sôđôma và Gômôra. Với lòng thương dân sẵn có, Abraham đã năn nỉ nài van, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mươi người xuống còn mười người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông cầu xin tha thiết và đã được Chúa nhận lời.

Xin như Chúa Giêsu dạy xin

Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: ‘Lạy cha…”. Người dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa là “Cha” nhân từ. Người cũng bảo đảm rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời, nghĩa là chẳng những xin mà còn phải tin nữa: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Người lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Tin rằng Chúa không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.

Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, như người cha thấy con mình đói, cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối cũng cứ xin: “Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi“. Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời!

Các con ông có được bánh ăn nhờ người cha van xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).

Cứ xin, vì Chúa là Cha nhân từ

Dẫu biết trước rằng con người yếu đuối, luôn phạm tội nhưng Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn hết mực tha thứ và đầy lòng thương xót đối với tội nhân. Chúa là Đấng vĩ đại, có quyền trên muôn loài vạn vật nhưng lòng nhân từ Chúa vượt lên trên cả sự vĩ đại của Chúa. Chúa thương xót con người ngay cả khi con người không xứng đáng với điều đó.

Chúa tốt bụng đối với những người không xứng đáng, an ủi những người đau khổ và nâng đỡ những người bị áp bức, ban ơn và chúc phúc nhiều hơn những gì con người đáng được hưởng; nếu hành vi cá nhân của một người được cân bằng đồng đều giữa phẩm hạnh và tội lỗi, thì Thiên Chúa hướng thẳng công lý về phía điều thiện. Chúa giữ lòng nhân từ tới ngàn đời và không bao giờ rút lời. Chúa ghi nhớ những việc làm của người công chính vì lợi ích của thế hệ con cháu, tha thứ cho kẻ có tội dù làm điều ác do bất cẩn, thiếu suy nghĩ hoặc thờ ơ nhưng biết ăn năn. Chúa nhân từ và tha thứ, xóa sạch tội lỗi của những ai thật lòng ăn năn; tuy nhiên, nếu một người không ăn năn thì họ sẽ bị sự trừng phạt theo điều họ vi phạm.

Abba, Cha ơi! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.

D/ Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

KINH LẠY CHA – ĐỌC XUÔI ĐỌC NGƯỢC

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

Lc 11, 1-13

Kinh Lạy Cha là lời kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là lời kinh căn bản của Kitô giáo. Lời kinh này là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là tâm điểm của Thánh Kinh như Thánh Augustinô nói: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong sách Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều được thâu tóm trong lời kinh Chúa dạy. Với lời kinh này, không những chúng ta nguyện xin tất cả những gì chúng ta có thể ao ước cách chính đáng, mà còn theo trật tự những gì nên ao ước. Vì thế, kinh nguyện này không chỉ dạy chúng ta nguyện xin, mà còn huấn luyện tâm tình của chúng ta nữa…Dù chúng ta có đọc lời nào khác, những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp” (x. Thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơrôba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335).

Kinh Lạy Cha độc đáo vì chính là lời kinh “của Chúa” và cũng là lời cầu nguyện của Hội Thánh. Lời kinh này đã ăn sâu vào kinh nguyện phụng vụ. Trong Thánh lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung, hướng về ngày Chúa Quang Lâm “cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26).

Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu để lại, lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.

“Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược” (x. Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).

1. Đọc xuôi Kinh Lạy Cha

Đọc xuôi, bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.

Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.

a. Lời thân thưa

Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.

Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa: Lạy Cha chúng con ở trên trời.

Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.

Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.

b. Hai lời nguyện ước

“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình.

Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.

Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.

Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo. Biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.

3. Ba lời cầu xin

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”

Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.

Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để Chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.

Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vuột thắng mọi cám dỗ.

2. Đọc ngược Kinh Lạy Cha

Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:

a. Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ

Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.

b. Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ

Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.

c. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi  tội lỗi của chúng ta

Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.

d. Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta

Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.

e. Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện

Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

f. Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta

Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.

g. Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời

Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).

3. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.

Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.

Lạy Cha,

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con chưa nhận thấy được.

Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.

E/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

KINH LẠY CHA – HIỆU LỰC CỦA KINH NGUYỆN

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

(Lc 11,1-13)

1. Lc cho biết Chúa Giêsu đã dạy kinh Lạy Cha cho các môn đệ trong một dịp rõ ràng: sự kiện một môn đệ vô danh nào đó nhắc đến kinh của Gioan tẩy giả không phải là không có lợi để giúp hiểu thêm kinh Lạy Cha: thời Chúa Giêsu có nhiều nhóm tu đạo, khác nhau bởi hình thức hay qui luật kinh kệ của họ, vì thế mà có nhóm Pharisêu, nhóm Esséno, và đoản văn Lc hôm nay cho thấy có nhóm môn đệ Gioan tẩy giả nữa. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm. Việc các môn đệ Chúa Giêsu xin có một kinh nguyện riêng minh chứng họ muốn thành lập một cộng đoàn thiên sai: kinh ấy sẽ là mối liên hệ và dấu hiệu riêng của họ, và kinh ấy sẽ biểu lộ điều họ giữ kín lòng. Vì thế kinh Lạy Cha là bản tóm lược trong sáng nhất và hàm súc nhất của sứ điệp Chúa Giêsu.

2. “Lạy Cha”. Để phẩm bình nguồn gốc và giá trị tiếng kêu này, tưởng cần tóm lược lại việc kêu danh Chúa là Cha lịch sử. Vào khoảng 2000 năm trước Đức Kitô và cả 3000 năm trước, đã có nhiều dân tộc phương đông coi thần linh như là cha. Trước thời Môisen, người ta coi thêm tước vị “Cha” ở trong các kinh nguyện xứ Sumérie: “Ôi Thiên Chúa, Đấng có lòng nhân hậu như người Cha dịu hiền”.

Để chống lại nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như là “Cha” (14 đoạn nói đến mà thôi). Trước tiên Thiên Chúa là “Cha của Israel”, dân mà Ngài đã tuyển chọn, giải phóng và cứu độ (Đnl 32,6; Is 63,16; 64,7; Giêr 3,4.19; Ml 1,6; 2,10). Sau lưu đày, thỉnh thoảng Cựu ước trình bày Thiên Chúa là “Cha” của các cá nhân (Kn 14,3; Si 23,1.4; Tv 13,4).

Nhưng văn chương Do thái đương thời và sau Đức Kitô còn kéo dài và nhấn mạnh đến khuynh hướng đề cao siêu việt tính của Thiên Chúa. Và người ta cũng không thể tìm thấy một bản kinh nào trong đó cá nhân cầu khẩn Thiên Chúa như khẩn cầu với một người “Cha”. Đi ngược với môi trường Do thái ấy, Chúa Giêsu khẩn cầu với Thiên Chúa như khẩn cầu với một người “Cha” trong kinh nguyện của Ngài, như các tác giả Phúc âm đã ghi lại (chỉ trừ tiếng kêu trút hơi thở tàn trên thập giá ở Mc 15,34 – nhưng đó chỉ là một lời trích dẫn, chứ không phải là lời kinh nguyện mà cá nhân Chúa Giêsu đã sáng tác).

Nhưng xét về phương diện ấy Chúa Giêsu còn đi xa hơn 14 đoạn văn Cựu ước hay các mẫu kinh lương dân trong đó Thiên Chúa được gọi là “Cha”. Với Chúa Giêsu chúng ta đi thẳng vào một điều mới mẻ hoàn toàn, đó là tiếng “Abba”, “Ba ơi”. Lời kinh trong vườn Giêtsimani nơi Mc 14,36 cho biết Chúa Giêsu dùng tiếng ấy để nói với Thiên Chúa; không những Rm 8,15 và Gal 4,6, ngay cả tiếng gọi “Cha” trong bản văn Hy lạp của các phúc âm cũng quả quyết điều đó; mà chỉ cách giải thích đầy đủ là: “Abba” luôn có mặt trong nguyên bản tiếng araméen. Cuộc nghiên cứu sơ sài kho tàng văn chương vĩ đại và giàu có về kinh nguyện Do thái, đưa đến kết luận: việc kêu cầu danh Thiên Chúa bằng tiếng “Abba” không nơi nào nói đến. Giải thích thế nào đây ? Các giáo phụ, Chysostome, Theodore de Mopsueste và Theodoret de Kyr, các vị thành Anttokia và các vú nuôi nói tiếng Syrien-occidental de l’araméen, đều nhất trí minh chứng rằng “Abba” là tiếng trẻ con dùng để gọi cha mình. Và sách Talmund xác quyết: “Khi một đứa trẻ ăn được lúa mì (nghĩa là khi nó thôi bú), thì nó bập bẹ nói “abba” và “imma” (ba ơi, má ơi). “Abba”, “imma” là những tiếng đầu tiên trẻ con nói bập bẹ (những tiếng mà trẻ con khi trưởng thành vẫn tiếp tục dùng, như ở Pháp người lớn vẫn kêu ông già mình bằng tiếng “papa”). Vì tính cách dịu hiền và thân tình của danh từ ấy, nên không ai dám nói: “Abba” với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu vẫn luôn dùng tiếng ấy trong mọi kinh nguyện mà Ngài đã truyền lại cho chúng ta. Ngài đã nói với Thiên Chúa như một đứa con nói chuyện với Cha, cách đơn sơ thân tình và tín thác.

Nhưng ở câu 27 của Mt 11 – “Mọi sự đều đã được Cha trao phó cho con và không ai biết được Cha, nếu không phải là con và kẻ được con muốn mạc khải cho” – Cho chúng ta thấy Chúa Giêsu coi sự kêu xin kiểu trẻ con ấy như là cách duy nhất để nhận biết Thiên Chúa và uy quyền viên mãn của người con. Tiếng “Abba” biểu lộ cách viên mãn mầu nhiệm sứ mệnh của Ngài: ai được Cha cho biết Thiên Chúa cách sung mãn thì được uy quyền gọi Thiên Chúa một cách thân tình như vậy như con gọi cha. Tiếng “Abba” chính thực là tiếng của Chúa Giêsu, là tiếng xác quyết sứ mạnh và trọng tâm của sứ điệp Ngài.

Vì vậy, qua kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu thông ban cho môn đệ Ngài quyền kêu “Abba” như Ngài. Ngài ban cho những người theo Ngài được quyền làm con, và vì họ là môn đệ của Ngài, nên có thể trò chuyện với Cha trên trời cách tin tưởng như một đứa bé. Đến nỗi xác quyết rằng mối tương quan mới mẻ giữa Con và Cha mới mở được cửa nước Trời (Mt 18,3) “Thật, tôi bảo các anh, nếu các anh không trở nên như trẻ nhỏ, các anh không thể vào được Nước Trời”. Vì trẻ em biết nói “Abba”. Để tìm ra đường vào nước trời cần phải tin tưởng như đứa bé lúc gọi “ba ơi”. Thánh Phaolô am hiểu sâu xa tiếng ấy khi Ngài 2 lần xác quyết tiếng kêu “Abba, ba ơi” là dấu chỉ được làm con và dấu chỉ được Thánh Thần chiếm hữu (Rm 8,15 và Gal 4,6). Như vậy, từ tiếng đầu tiên này, chúng ta hãy phỏng đoán xem tại sao theo tâm tình của Giáo hội sơ khai, khi đọc kinh Lạy Cha lại không có vẻ tự nhiên và tại sao giáo hội lại thốt lên với bao vẻ sợ sệt và khúm núm: Lạy Chúa xin nghe lời chúng con, chúng con mới dám vui vẻ và không ái ngại gọi Chúa là Cha, là Thiên Chúa trên trời và nói: “Lạy Cha chúng con”.

2. Hai lời cầu xin đầu tiên (c.2) song song có nội dung giống nhau. Và rất giống kinh Quddish là kinh xin thánh hóa của Do thái, đọc lúc kết thúc mỗi buổi lễ ở hội đường: xin cho danh tiếng lẫy lừng của Ngài được thánh hóa trong hoàn vũ nơi Ngài đã tạo dựng theo ý Ngài, xin mau mau dựng xây nước Ngài trong suốt cuộc đời chúng con. Amen.

Hai lời cầu xin của kinh Quddish và kinh lạy cha đều chất chứa một nhãn quan cánh chung. Đàng khác người ta gợi đến giờ mà danh Thiên Chúa đã từng bị tục hóa sẽ được thánh hóa mãi (Kh 11,15). Đó là mẫu kinh rất giống với mẫu kinh của giáo hội, Maranatha, “Lạy Chúa, xin hãy đến” (1Cor 16,22; Kh 22,20).

Nhưng khi đọc kinh Quddish, người Do thái không biết nước Thiên Chúa đã hiện diện trong vũ trụ từ khi Đức Kitô đến, họ chỉ xin cho nước Chúa được hoàn hảo và kiện toàn viên mãn.

4. Xin cho danh Chúa được thánh hóa. Danh của Thiên Chúa là một từ ngữ truyền thống của Thánh kinh diễn tả cách tín cẩn hữu thể Ngài, nhất là trong bản văn phụng vụ. “Thánh hóa Thiên Chúa hay Danh Ngài” là một kiểu nói xưa cũ trong thánh kinh và Do thái giáo. Vì Thiên Chúa là một Đấng thánh tuyệt vời, người ta không thể thêm gì nữa cho sự thánh thiện của Ngài, nhưng kiểu nói ấy có nghĩa là nhận biết, biểu lộ và tôn vinh Ngài như Ngài đang hiện hữu (như ở Gio 12,28 phải là một cái gì tương đương với lối cầu xin ấy).

Kinh thánh và Do thái giáo có hai cách thành hóa Thiên Chúa hay danh Ngài: các luật sĩ và các thày Rabbi trong các bài giảng của họ, thường kêu mời tín hữu thánh hóa Thiên Chúa bằng sự thần phục các giới răn của Ngài và như thế công nhện uy quyền của Ngài trên mình (Lv 22,32; Ds 27,14; Đnl 32, 51; Is 8,13. 29,13). trong các bài sấm về sự cứu độ sắp đến, các tiên tri thường loan báo Thiên Chúa sắp thánh hoá mình bằng cách biểu lộ ra như Đấng cứu thế (Is 5,16 và nhất là trong Ez 20,41; 28,22.25; 36,23; 38,16.23; 39,27).

Trong kinh nguyện hiện nay, thường hay nói đến sự can thiệp cứu độ (kiểu nói ở thể thụ động “được thánh hóa” thường dùng được bản văn chương Do thái để chỉ cách bí mật hoạt động của Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài ra Mt 5,6.7.9; 7,1.2.7.8…) Chỉ Thiên Chúa mới có thể biểu lộ như Ngài đang ở trong uy quyền và vinh quang trong công chính cứu độ và ân sủng của Ngài. Đối với Chúa Giêsu (cũng như đối với Ezékiel, trong những bản văn kể ra ở trên kia), sự biểu lộ ấy tỏ ra cho hết mọi người (bản dịch TOB dịch cách táo bạo, nhưng rất hợp thời: xin làm cho nhận biết Ngài như Thiên Chúa). Xin Thiên Chúa tự biểu lộ cho thế gian như là vị thày duy nhất, có liên hệ đến tình trạng hiện thời, còn bất toàn và đang tiến triển của lịch sử; nhưng nhất là lời cầu xin nhắm đến sự kiện toàn dứt khoát và hoàn hảo mà lịch sử cứu độ nhắm đến. Khi đến hạn định thì sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và giáo hội của Đức Kitô (nghĩa là “Israel đích thật của Thiên Chúa”: Gal 6,16; Rm 9,6-8) sẽ được hoàn tất: Ngài sẽ là Thiên Chúa của các thánh nhân Ngài và họ sẽ là dân Ngài, vì bấy giờ Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (1Cor 15,28).

5. Xin cho Nước Ngài trị đến. Lời cầu xin thứ hai có cùng đối tượng và nhãn quan như lời cầu xin trước. Sự đồng nhất này rất xứng hợp với tính cách song đối của người Semit, họ thích lấy lại một ý tưởng dưới hai hình thức khác nhau.

Nước Thiên Chúa đến quả thực là đề tài căn bản mà Chúa Giêsu thường dạy, như Mt 4.17 và Mc 1,15 đã chứng minh. Nhấn mạnh đến vương quốc Thiên Chúa như thế là lạ lắm, vì Cựu ước rất ít khi dùng kiểu nói này. Dĩ niên dân Cựu ước tin Giave là vua của họ. Tuy nhiên vương quốc của Giavê không hướng về sự hoàn tất cánh chung. Dân được tuyển chọn hy vọng đến việc thiết lập vương quốc hoàn hảo và dứt khoát trong thời thiên sai, niềm hy vọng này được truyền thống khải huyền khai thác nhiều nhất. Chúa Giêsu nhắc đến đề tài vương quốc, vì đề tài này trong thời Ngài đáp ứng các ước vọng mãnh liệt nhất của người đồng hương. Nhưng Ngài đã sửa sai bổ túc và loại bỏ các ý niệm hạn hẹp có tính cách quốc gia về giáo thuyết Vương quốc (Lc 13,29; Mt 8,11). Hai dạng thức mới của vương quốc được nhắc nhở nơi đây liên hệ với kinh Lạy Cha: Vương quốc đang hiện diện, Vương quốc là món quà của Thiên Chúa.

Đức Kitô khẳng định rằng, qua sự kiện Ngài đến vương quốc đang trên đường thực hiện: Vương cuốc thực sự có đó, và đang kiện toàn viên mãn và dứt khoát; nó vừa là hiện tại và tương lai, nhưng ở đây Chúa Giêsu tập trung sự chú ý của thính giả vào khía cạnh tương lai nhiều hơn. Chiều hướng hy vọng Kitô giáo được tiềm ẩn trong nhiều kinh Lạy Cha. Người Kitô hữu phải hy vọng vào Vương cuốc nhưng họ không thể thiết lập, cũng như hối thúc Vương cuốc đến mau, như người Zélotes thời Chúa Giêsu đã làm; Vương cuốc là một món quà nhưng không của Chúa Cha (Lc 12,32). Chính Thiên Chúa sẽ thiết lập như Ngài muốn và lúc Ngài muốn (Cvsđ 1,6t; Mc 12,32); giáo hội chỉ có thể mong ước và chuẩn bị đón nhận Vương quốc ấy bằng lòng thống hối, bằng đức tin thức tỉnh và đời cầu nguyện.

6. Xin cho chúng con lương thực hàng ngày. Không thể nào xác định cách chắc chắn ý nghĩa đích thật của lời thỉnh cầu này. Vì thứ bánh chúng ta xin, được xác định bằng hình dung từ épiousios (BJ dịch “hàng ngày” quotidien), là một chữ Hy lạp ít được dùng tới. Một người thông thái như Origène (De orat 27,7) thú nhận rằng ông chưa hề gặp tiếng ấy trong văn chương Hy lạp cũng như trong ngôn ngữ nhân gian. Năm 1915, trong một bản papyrus tìm thấy ở miền thượng Ai cập, người ta tìm thấy chữ tắt épiousi và theo bản văn ấy thì hình như có nghĩa là “cổ phần hàng ngày”. Nhưng làm sao một bản văn thuộc thế kỷ thứ V (sau công nguyên) lại có thể giúp ta hiểu một câu được viết ra từ thế kỷ thứ nhất.

Vậy chỉ còn cách là tìm các chứng cứ giải thích trong hai nguồn tài liệu là: nguyên ngữ và các lối chú giải xa xưa nhất. Nếu tách giới từ epi (sur) và động từ eimai (être) khỏi chữ épiousios, hình dung từ ấy bây giờ nói lên tính cách nội tại của bánh: đó là bánh “cần thiết” hay “căn bản” (hãy nhớ rằng chữ “essentialis” do động từ esse), “substantiel” (tiếng Hy lạpousia) hay “super-substantiel” (ám chỉ đến Thánh Thể nơi người Latin. Có thể chữ épiousios do động từ einai (aller), nhấn mạnh đến khía cạnh tạm thời: bánh “của ngày đang bắt đầu, “hàng ngày” hoặc “của ngày mai”. Các giáo phụ thì chú giải rất khác nhau: chính thánh Jérome khi thì dịch chữ épiousios bằng supersubstantialis (Mt 6,11) khi thì bằng cotidiannus (Lc 11,3).

Dù sao, Lc vẫn xác nhận rằng bánh được xin (dù bản chất của nó như thế nào) thì được xin để dùng “mỗi ngày”. Sự xác định ấy là việc Lc quan tâm đến hoàn cảnh của các Kitô hữu (ví dụ xem lối chú giải tám mối phúc thật về phương diện xã hội) giúp ta tin rằng bánh épiousios, được xin có lẽ là bánh vật chất mà người Kitô hữu cần đến mỗi ngày, dĩ nhiên là không loại bỏ lời mặc nhiên xin bánh Thánh Thể thiêng liêng hay mọi thứ trợ giúp thiêng liêng mà người Kitô hữu cần có để sống mỗi ngày cuộc dấn thân theo Đức Kitô.

Xin tha tội chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho người mắc nợ chúng con. Lời khấn xin này là lời duy nhất trong kinh lạy Cha liên hệ đến con người. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng đó. Kẻ nào cầu nguyện thì phải nhớ đến bổn phận tha thứ. Chúa Giêsu luôn nói: không thể xin Thiên Chúa tha lỗi nếu người xin không sẵn sàng thứ tha. “Và khi đứng cầu nguyện, nếu anh có điều gì bất bình với người nào, anh hãy thứ tha để cha anh ở trên trời cũng tha thứ cho anh” (Mc 11,25). Nơi Mt 5,23 chính Chúa Giêsu cũng đòi hỏi các môn đệ: đình chỉ việc dâng lễ để tha thứ và làm hòa với anh em trước khi thi hành nhiệm vụ thánh. Chúa Giêsu muốn nói rằng lời xin tha tội sẽ không thành thật và sẽ không được Thiên Chúa chấp nhận, nếu người cầu nguyện không chịu giải hòa với anh em mình. Đối với môn đệ Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ một cách nào đó là đã đưa tay ra xin Thiên Chúa tha thứ. Trong bản văn Lc, động từ ở thì hiện tại “hãy tha thứ” nói lên thái độ chung là phải tha thứ luôn. Chữ “Panti”, cho ai mắc nợ chúng tôi (hợp với khuynh hướng của Lc là tổng quát hóa các thái độ tiêu biểu của người Kitô hữu), xác quyết đó là thái độ nội tâm.

8. Và đừng để chúng tôi sa chước cám dỗ. Động từ ở thì actif đây không ám chỉ hoạt động của Thiên Chúa cám dỗ các Kitô hữu. Có lẽ Giacôbê đã hiểu lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha, khi bỏ lối giải thích sai lầm: “Khi bị cám dỗ thì đừng ai nói: Thiên Chúa cám dỗ tôi, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Giac 1,13). Đứng hơn lời cầu xin ấy có nghĩa: “Xin đừng để chúng tôi thất bại vì cám dỗ”. Động từ ở chỗ hoạt động gợi lên một kiểu nói thánh kinh xa xưa, ở cái thời mà mọi cơn cám dỗ đều đổ dồn cho Thiên Chúa mà chẳng phân biệt gì cả; vì người ta muốn xác quyết đến sự thống trị vạn vật của Thiên Chúa và không tạo ra ngụy tín vào nhị nguyên tín (dualité) của các thần minh.

“Cơn cám dỗ”. không nhằm nói đến sự cám dỗ nhỏ mọn hàng ngày nhưng nói đến thử thách vĩ đại cuối cùng ở cửa nhà chúng ta và sẽ xảy ra trong thế gian này: vén màn bí mật sự dữ, phản Kitô xuất hiện, tàn phá ghê sợ (Mc 13,14) bắt bớ cuối cùng và thanh lọc lần chót các thánh của Thiên Chúa do các tiên tri giả chủ xướng. Cơn cám dỗ cuối cùng đó là phản đạo. Ai có thể thoát?

Lời cầu xin cuối cùng của kinh Lạy Cha muốn nói rằng: “Lạy Chúa xin giữ chúng con cho khỏi bỏ đạo”. Truyền thống Mt đã hiểu như thế và còn xin giải thoát dứt khoát khỏi quyền lực của thần dữ đang tìm cách hối thúc con người đi vào cõi chết đời đời: “Nhưng xin cứu chúng tôi khỏi thần dữ”. Tuy vậy người Kitô hữu không thể để thời gian cuối cùng đó làm tê liệt mà quên mà quên mất hiện tại. Vì đối với mỗi người hiện tại mật thiết gắn liền với giờ cuối cùng của cuộc đời: những cơn cám dỗ hàng ngày loan báo cơn cám dỗ cuối cùng, và những quyết định hàng ngày sửa soạn việc chọn lựa cuối cùng cho mình, nó sẽ đánh dấu đoạn đường vượt qua từ vũ trụ này đến thế giới bên kia.

9. Sau khi các môn đệ phải cầu nguyện như thế nào, Chúa Giêsu còn dạy họ biết lời họ khẩn nài sẽ được chấp nhận với điều kiện nào. Dụ ngôn người bạn quấy rầy mà chỉ mình Lc ghi lại, có mục đích minh chứng hiệu quả của lời nguyện cầu khẩn thiết bền tâm đó.

Ở Palestine thời Chúa Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa thì phải mệt nhọc lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, phải chăng để cuối cùng được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta mới chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn. Đó là ý nghĩa một cảnh nhỏ xảy ra hàng ngày mà Chúa Giêsu dùng để dạy. Như thế, khi nghĩ đến hạnh kiểm của mình, người môn đệ mới lưu ý đến cách thức hoạt động của Thiên Chúa đối với mình. Cuối cùng người bạn phải nhượng bộ lời cầu xin rên rỉ, thì đối với Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin Ngài.

Tất cả những lời giáo huấn của Chúa Giêsu đều dựa trên một luận chứng a fortiori (phương chi là…). Nếu con người cuối cùng cũng phải nhượng bộ lời cầu xin nài nẵng thì phương chi là Thiên Chúa Đấng thật tốt lành cũng phải chào thua. Như một thày thông luật nói: “người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành anh ta lại càng đễ dàng chiến thắng hơn” – (Billerbeck, I,656). Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng, không biết chán, dù không được Chúa nhận lời tức khắc, thì rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời. Thiên Chúa tốt lành trên hết mọi người tốt lành: Ngài không chỉ trao ban những gì theo con người khấn xin, nhưng sẽ còn ban tất cả những gì cần cho con người. Chúa Giêsu đã hành động cách tương tự như vậy đối với người đàn bà xứ Syro-Phénicie (Mt 15,21 ss) và đối với người mà thành Giericô (Lc 18,35 ss), cũng kiểu lý luận a fortiori này đã được áp dụng cho lời người con xin cha cơm bánh.

KẾT LUẬN

Tất cả đoạn văn này (kết thúc cũng như lúc bắt đầu, đều nói đến tình phụ tử của Thiên Chúa Cha, là động từ sâu sắc của lời kinh đầy tin tưởng của người Kitô hữu. Vì người Kitô hữu, theo lệnh truyền và gương lành của Chúa Giêsu, có thể kêu lên “Abba – Ba ơi” đối với Thiên Chúa, họ rất hy vọng nhận được nơi Thiên Chúa những gì mà họ cần để sống – ngay cả ơn huệ cao cả là Thánh Thần. “Vì tất cả những ai được Thánh Thần Thiên Chúa đưa dẫn đều là Con Thiên Chúa. Như thế, không phải thứ Thần khí của hàng nô lệ là điều anh em đã nhận lấy để sợ hãi, nhưng anh em đã lãnh lấy thần khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó được kêu “Abba” (Rm 8,14-15).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta kinh Lạy Cha. Vậy kinh này phát sinh từ việc nguyện gẫm riêng của Ngài. Nó phản ảnh lập trường riêng của đứa con yêu dấu đối với Cha trên trời. Đồng thời cũng dạy cho chính chúng ta biết cư xử với Thiên Chúa chúng ta như thế nào: như những người con yêu mến dâng lời kinh nguyện đầy lòng tin lên cha mình.

2. Các tác giả phúc âm ghi chú Chúa Giêsu cầu nguyện rất đặc biệt trước mỗi một hoạt động quan trọng của Ngài. Nếu Lc đã lưu ý nói lên rằng Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi dạy kinh Lạy Cha, dĩ nhiên ông muốn cho thấy tầm quan trọng ưu việt của kinh nguyện do Chúa Giêsu trực tiếp nói ra.

3. Chúa Giêsu không những chỉ dạy cho chúng ta dâng lời kinh lên Thiên Chúa như người cha. Vì đứa con dầu sao cũng có thể sợ cha; có nhiều đứa con sợ cha mình đến nỗi không dám xin cha cách phó thác và tin tưởng. Để cho chúng ta thấy cần phải có tâm tình nào, khi dâng lời kinh lên Thiên Chúa, Chúa Giêsu dùng một tiếng rất thân tình của trẻ con, tiếng mà người Do thái thời Ngài không bao giờ dám dùng đối với Thiên Chúa: “Abba”, “Ba ơi”. Qua tiếng ấy, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy phải có tinh thần nào khi dâng lời kinh nguyện lên Thiên Chúa: như những em bé đầy lòng tin tưởng vào sự tốt lành trìu mến của Cha mình.

4. Hai nguyện vọng đầu tiên của kinh Lạy Cha nói đến sự vinh thắng của Thiên Chúa. Vì sự thánh hóa Danh Ngài, là nói lên rằng mọi người đều nhận biết Thiên Chúa là Thiên Chúa, là thày và Cha hết mọi người. Một cách khác để công thức hóa lời cầu xin ấy, là ước vọng nước Thiên Chúa trị đến, ước mong Thiên Chúa thật sự được mọi người nhận biết là vua rất tốt lành mà người ta sung sướng được phụng sự Ngài và yêu mến Ngài hết lòng. Nếu đọc kinh ấy lên, chúng ta xác tín rằng sẽ không có công bằng, hòa bình và hạnh phúc trên mặt đất này bao lâu có nhiều người chưa nhận biết Thiên Chúa là Cha của họ và họ là anh em với nhau.

5. Nhưng trong lời kinh này, Chúa Giêsu cũng mong muốn chúng ta đừng xấu hổ khi cầu nguyện về những của cải vật chất chúng ta cần. Cha chúng ta trên trời để ý mọi khía cạnh cụ thể của cuộc sống chúng ta.

6. Cũng như các chỗ khác trong phúc âm, Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng để được tha tội, thì chính mình cũng biết tha thứ mọi lỗi lầm kẻ khác xúc phạm đến mình. Chúng ta chỉ có một con tim: làm sao con tim ấy lại đóng lại trước tha nhân, đồng thời mở ra trước Thiên Chúa ?

7. Nguyện vọng cuối cùng không nhằm đến việc làm cho chúng ta tránh khỏi cơn cám dỗ (làm sao chúng ta có thể xin được điều đó khi mà chính Chúa Giêsu cũng phải bị thử thách), nhưng để xin được sự chở che của Cha chúng ta cho khỏi sa ngã trong những cơn thử thách lớn nhỏ cuộc đời.

8. Dụ ngôn người bạn bị quấy rầy cho chúng ta thấy rằng nếu Thiên Chúa lấy tình bạn tốt đối với chúng ta, sẵn sàng nghe lời chúng ta kêu xin, không phải Ngài nghe lời chúng ta ngay lần xin đầu tiên đâu. Thiên Chúa muốn bị quấy rầy vì lời khẩn khoản của chúng ta, điều ấy đem lại cho chúng ta cảm giác nhân từ, khi Ngài dùng sự đổi mới và kéo dài ra để gia tăng cường độ lòng muốn và lời kinh của chúng ta. Có thể có khi chúng ta xin những điều không ích lợi mà còn có hại cho phần rỗi của chúng ta: một lời kinh lâu dài sẽ thanh tẩy và điều chỉnh dần dần những ước muốn chúng ta và tuần tự buộc chặt ước muốn của chúng ta vào ước muốn của Thiên Chúa. Nếu trước đây chúng ta cầu xin Thiên Chúa những hòn đá thay vì xin bánh, xin con rắn thay vì xin con cá, thì Cha chúng ta sẽ làm một cách nào đó để biến đổi lời kinh chúng ta và là Ngài muốn nhận lời ban cho chúng ta một điều thiện lớn hơn và một hạnh phúc chắc chắn hơn. Nhưng lời cầu xin tuyệt hảo nhất mà chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa Cha luôn luôn nhận lời (là vì lời ấy đáp trả được ước muốn vĩ đại của Ngài và là điều tốt to lớn của ta), đó là lời cầu xin Chúa Thánh Thần, vì chính Thánh Thần ấy mới có thể biến đổi chúng ta một cách sâu xa là trở nên con cái yêu dấu của Cha rất tốt lành.

F/ Những bài suy niệm khác

CẦU NGUYỆN TRONG MỐI TƯƠNG QUAN THÂN MẬT VỚI CHÚA

KINH LẠY CHA VÀ NHỮNG YẾU TỐ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

XIN CHO CON HÔM NAY ĐỦ DÙNG

CẦU NGUYỆN THEO KINH LẠY CHA

LỜI KINH TUYỆT VỜI

ShareTweet

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Đức Maria Thăm Viếng Bà Elisabeth

Đức Maria Thăm Viếng Bà Elisabeth

Thứ Ba, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Ba, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Hai, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Hai, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Bảy, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Bảy, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Sáu, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Sáu, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Năm, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Năm, Tuần VII, Thường Niên

Bài Viết Mới

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh.

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh.

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Giáo Xứ Vinh Sơn Đà Lạt: Lễ Khánh Thành Và Làm Phép Nhà Thờ

Giáo Xứ Vinh Sơn Đà Lạt: Lễ Khánh Thành Và Làm Phép Nhà Thờ

Tu Hội Nữ ICM: Thánh Lễ Gia Nhập Vĩnh Viễn và Mừng Ngân Khánh

Tu Hội Nữ ICM: Thánh Lễ Gia Nhập Vĩnh Viễn và Mừng Ngân Khánh

BẢN TIN GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT – Từ ngày 26/5 đến ngày 01/6.

BẢN TIN GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT – Từ ngày 26/5 đến ngày 01/6.

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 09 Nguyễn Thái Học – Tp. Đà Lạt – Lâm Đồng – Việt Nam
– Điện thoại: 0918.525.019
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
    • Văn Kiện Giáo Phận
    • Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi