CHÚA NHẬT 29 QUANH NĂM
(Lu-ca 18: 1-8)
Đề tài về cầu nguyện đã được thánh sử Lu-ca nói đến trong chương 11 (bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 quanh năm) giờ đây được lập lại. Có lẽ mạch văn giúp ta hiểu lý do tại sao đề tài này được lập lại ở đây. Ở cuối chương 17, Chúa Giê-su nói về Ngày của Con Người sẽ tới bất ngờ, cho nên cần phải tỉnh thức bằng cách kiên trì cầu nguyện, luôn khiêm nhường và sống từ bỏ mọi sự. Những điều này thường được lập đi lập lại qua những lời giảng dạy trên đường Chúa đi lên Giê-ru-sa-lem. Mỗi chặng đường làm môn đệ đều có những khó khăn riêng của nó. Nhưng bất cứ ở đâu và lúc nào, cầu nguyện cũng là khí giới bảo đảm giúp ta thắng vượt những trở ngại. Trong dụ ngôn Chúa kể hôm nay, quan tòa bất chính hành động vì ích kỷ, còn bà góa thì được việc vì biết kiên trì. Nhưng tiếp theo đó, Chúa Giê-su đã khéo léo áp dụng cho cả Thiên Chúa lẫn chúng ta: Người đề cao mối quan tâm của Thiên Chúa dành cho ta là môn đệ Người, và Người nêu lên vấn đề liệu lòng tin của ta có kiên trì đến cùng hay không.
a) Thiên Chúa hằng bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn
Đây là một chân lý nền tảng giúp ta trung thành với việc làm môn đệ Chúa. Từ hình ảnh một ông quan tòa bất chính hành động chỉ vì ích kỷ và không muốn phiền hà cho mình nên mới “bênh vực” cho bà góa bị kiện oan, Chúa Giê-su dẫn ta đến hình ảnh hoàn toàn trái ngược, đó là Thiên Chúa, Đấng công chính, luôn bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn. Nói khác đi, lý luận của Chúa Giê-su như sau: nếu một người bất chính như quan tòa kia mà còn bênh vực cho bà góa đến quấy rầy, thì chẳng lẽ Đấng công chính là Thiên Chúa lại chẳng bênh vực con cái Người hay sao?
Ta là những kẻ Thiên Chúa đã tuyển chọn, như thánh Tông đồ Phao-lô đã khẳng định: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (Ep 1:4-5). Chính Chúa Giê-su cũng tiếp tục việc tuyển chọn này. Người bảo các môn đệ: “Chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15:16).
Cũng thánh Phao-lô cho ta biết lý do tại sao Thiên Chúa hằng bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngài viết: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2:13). Khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta trở thành sở hữu của Người. Ai mà chẳng muốn bênh vực những gì sở hữu của mình. Tất cả lịch sử Ít-ra-en, dân được Chúa tuyển chọn, đã nói lên sự bênh vực đó. Trong hành trình đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su cũng đã nhiều lần bênh vực môn đệ Người trước những phê bình và lên án của đám Pha-ri-sêu (Lc 19:39-40; Mt 12:1-8). Ngay trước giờ bị bắt, Người còn ra lệnh cho kẻ thù: “Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8).
b) “Mặc dù Người có trì hoãn”: có phải Chúa không tích cực bênh vực ta hay sao?
Giống như bà góa bị hàm oan nhiều lần đến quấy rầy ông quan tòa, ta cũng “ngày đêm hằng kêu cứu với Chúa”. Đến kêu cầu Chúa, ta chỉ mong Người mau mắn nhậm lời và cho ta được như ý. Nhưng nhiều lần Chúa có vẻ như không đáp lời ta ngay. Người trì hoãn. Người cứ tiếp tục để ta phải khốn khổ. Người làm ngơ để mặc cho kẻ thù làm cho ta phải thất điên bát đảo. Lúc ấy ta có cảm tưởng như Người bỏ rơi ta. Chúa Giê-su trên thập giá cũng mang cùng tâm trạng như thế với ta, đến nỗi Người phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi Đức Giê-su. Người cũng không bỏ rơi tất cả những ai thuộc về Đức Giê-su, vì Người đã tuyển chọn ta trong Đức Giê-su. Thiên Chúa có lý do trì hoãn mà ta không hiểu được, ta chỉ biết rằng sự trì hoãn ấy có lợi cho ta. Hơn nữa, trì hoãn là về phía ta vì không theo thời biểu của ta, còn đối với Chúa, trì hoãn là thời gian Chúa chờ đợi cho tới đúng lúc ra tay can thiệp. Chúa giống như bà mẹ tập cho con bước đi, đợi cho nó sắp té xuống mới đưa tay ra nắm lấy nó. Nếu không “trì hoãn” như vậy, đứa bé sẽ chẳng bao giờ biết đi. Như thế, Thiên Chúa trì hoãn không có nghĩa là Người bỏ rơi, trái lại Người còn chú ý đến ta hơn lúc nào hết.
c) “Nhưng khi Con Người đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Dường như Chúa Giê-su muốn nói lên tâm sự của Thiên Chúa: Người lo lắng cho lòng tin của ta. Mặc dù Thiên Chúa trung thành “bênh vực” ta, nhưng liệu ta có biết tin vào lòng trung thành của Người không. Lòng tin là sự đáp lại. Ta thấy Chúa quyền năng nên ta phải sẵn sàng phó thác. Ta thấy Chúa hết mực yêu thương ta nên ta đừng sợ hãi gì cả. Chúa Giê-su tỏ ra cho ta biết quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Người mong đợi ta khi đã nhận biết như vậy thì hãy mau mắn đáp lại, và Người mong đợi trong nỗi lo lắng của một bà mẹ.
Tuy nhiên đây cũng là một thách đố, một lời “nói khích” để ta cố gắng hơn mà tin tưởng vào Chúa. Người khích động tâm lý của ta, tựa như bà mẹ giả vờ không nhìn nhận khả năng thực sự của con mình, cốt để nó chứng tỏ khả năng ấy hơn cả mức độ bình thường nữa!
Lòng tin là điều kiện cốt yếu để ta cầu nguyện. Nếu hiểu lòng tin là sống mối tương quan giữa Chúa với ta, thì khi ta cầu nguyện chính là lúc ta để cho mối tương quan ấy “làm việc”, để ta càng ý thức hơn rằng Chúa hằng bênh vực ta vì ta thuộc về Người trong Đức Ki-tô.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Lòng tin của tôi trong cuộc sống Ki-tô hữu đã được hiểu như thế nào? Có phải chỉ căn cứ vào những gì tôi đã cầu được ước thấy, hay căn cứ vào việc tôi nhìn nhận lòng trung thành và yêu thương chăm sóc của Chúa? Theo ý nghĩa cứu rỗi, tôi có hiểu lòng tin là sống như môn đệ Chúa Giê-su để cùng với Người trở về cùng Thiên Chúa không?
Dạy tôi bằng dụ ngôn ông quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy, Chúa Giê-su muốn tôi phải cầu nguyện luôn và không được nản chí. Tôi đã “cầu nguyện luôn” như thế nào? Có bao giờ tôi “nản chí” không? Tại sao?
Tôi đã có kinh nghiệm nào về việc “Thiên Chúa trì hoãn” không đáp lời cầu xin của tôi ngay? Ích lợi của sự trì hoãn ấy như thế nào?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con.
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.”
– Charles de Foucauld
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 45)
Lm Đaminh Trần Đình Nhi