CHÚA NHẬT VII PHỤC SINH, C
(Gio-an 17: 20-26)
Những đề tài về Giáo Hội đã được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa trong những Chúa Nhật trước, như quan hệ giữa Mục Tử nhân lành với đoàn chiên, sống yêu thương giữa anh chị em tín hữu với nhau, sứ mệnh truyền giáo. Bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới một khía cạnh đặc biệt của Giáo Hội: sự hiệp nhất. Đề tài này khiến ta liên tưởng tới Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Giáo Hội, từ ngày 18 đến 25 tháng 1. Như thế, cả hai mùa phụng vụ, Giáng Sinh và Phục Sinh, đều có một thời gian để mời gọi ta suy niệm và cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Có lẽ Giáo Hội cố ý sắp đặt như vậy để ta nhận ra rằng việc Chúa giáng trần và chịu chết để cứu chuộc nhân loại đều nhắm đến mục đích cuối cùng là đưa người ta đến với nhau và đến với Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng là phần cuối lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trong Bữa Tiệc Ly, thường được mệnh danh là kinh Lạy Cha mẫu dài, gồm những nguyện ước Người dâng lên Chúa Cha để cầu xin hai điều: cho những ai tin vào Người được hiệp nhất với nhau và cho họ được ở với Người.
a) Lời nguyện hiệp nhất
Hiệp nhất là mục đích của kế hoạch yêu thương Thiên Chúa đã tiền định và thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô để đưa ta về kết hiệp với Người. “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1:10). Từ sau khi phạm tội bất tuân, nguyên tổ nhân loại đã cắt đứt mối quan hệ với Thiên Chúa và hậu quả của tội ấy là con người hoàn toàn mất hết khả năng đến với Thiên Chúa và trở thành kẻ thù của Người. Giữa Thiên Chúa và con người là một khoảng cách mà con người không thể vượt qua để đến với Thiên Chúa. Nhưng do tình thương vô điều kiện dành cho nhân loại, Thiên Chúa đã có một kế hoạch để giúp con người được hòa giải với Người, nói khác đi là được trở về hiệp nhất với Người. Lời hứa trong vườn Địa đàng, cũng gọi là Tin Mừng nguyên thủy (St 3:15), được lập lại qua các ngôn sứ trong lịch sử Dân Chúa. Rồi thời gian thực hiện kế hoạch tới hồi viên mãn là khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở lại giữa nhân loại. Nhờ cái chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã phục hồi cho con người khả năng đến được với Thiên Chúa là khả năng đã bị tội nguyên tổ cướp đi.
Đó là kế hoạch hiệp nhất do Thiên Chúa đề ra. Tuy Người mời gọi toàn thể nhân loại tham dự vào kế hoạch ấy, nhưng vẫn tôn trọng tự do và ý muốn của mỗi người, để họ tùy ý muốn đáp lại hay không. Do đó, đây là lý do Chúa Giê-su cầu nguyện: để ta biết mở lòng đáp lại tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Con đường hiệp nhất để trở về với Thiên Chúa khởi sự từ chính cộng đồng nhân loại nên trước tiên họ phải hiệp nhất với nhau (“để tất cả nên một”). Không ai đi riêng rẽ một mình, nhưng liên đới với người khác, vì đó là ý định của Thiên Chúa khi Người muốn quy tụ “muôn loài trong trời đất”. Từ Giáo Hội lữ hành ở trần gian và dưới quyền thủ lãnh của Đức Ki-tô, nhân loại hiệp nhất ấy mới có thể tiến bước về hiệp nhất với Cha trên trời.
b) Để họ được nên một với nhau
Sự hiệp nhất của Giáo Hội lữ hành phải có một khuôn mẫu để noi theo. Khuôn mẫu này đã được Chúa Giê-su khẳng định thật đơn giản: NHƯ Cha ở trong con và con ở trong Cha. Những từ “ở trong” hoặc “ở lại” trong Tin Mừng Gio-an mang một ý nghĩa sống động. Không phải là nơi chốn, nhưng là sự hòa nhập của hai ngôi vị, giữa Chúa Cha với Chúa Con, giữa Thiên Chúa với từng cá nhân con người. Quan hệ yêu thương ràng buộc hai ngôi vị với nhau để trở thành động lực duy nhất thúc đẩy họ suy nghĩ và hành động. Dù là đất trời xa nhau, nhưng Thiên Chúa vẫn “ở lại” trong con người. Dù con người đông tây xa cách, nhưng con người vẫn có thể “ở lại” với nhau trong tình yêu Chúa Ki-tô.
Kế hoạch của Thiên Chúa là như thế. Nhưng khi thực hiện kế hoạch, Thiên Chúa vẫn không xóa đi những khác biệt giữa con người với nhau. Bởi thế mới có những hàng rào ngăn cách, những trở ngại khiến con người khó hiệp nhất được với nhau. Cả Ki-tô hữu cũng có những khó khăn ấy, vì Ki-tô hữu vẫn là con người. Vậy Chúa Giê-su đã cầu nguyện xin cho họ thắng vượt được những trở ngại ấy.
Mục đích của sự hiệp nhất Giáo Hội còn nhắm xa hơn tới toàn thể thế giới, nghĩa là giúp cho “thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” Chỉ một người nói cho thế giới biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ thì thế giới chẳng tin đâu, nhưng nếu toàn thể cộng đồng Giáo Hội dưới quyền thủ lãnh của Chúa Giê-su nói cho thế giới biết điều đó, thì thế giới phải biết, phải tin và không còn lý do bào chữa. Sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu càng chặt chẽ và rõ ràng thì sứ điệp họ gửi cho thế giới càng có ảnh hưởng mạnh, vì “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 14:35), hoặc anh em có sự hiệp nhất với nhau.
c) Để họ nên một với Chúa Giê-su
Ki-tô hữu không thể hiệp nhất với nhau nếu họ không hiệp nhất với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su là mắt xích nối người với người và nối người với Thiên Chúa. Tội lỗi đã chia rẽ người với Thiên Chúa và chia rẽ người với người. Nhưng Chúa Giê-su đã chiến thắng tội lỗi để nối kết lại tất cả nhân loại trong Người và nối kết nhân loại với Thiên Chúa. Cho nên Chúa Giê-su mới mặc lấy bản tính nhân loại để trong Người có cả Thiên Chúa lẫn nhân loại. Đó là cách Thiên Chúa “ở lại” với con người và trong Chúa Giê-su con người “ở lại” với Thiên Chúa.
Tuy nhiên nên một với Chúa Giê-su lại mang một ý nghĩa hết sức phong phú. Người cầu xin: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con.” Vậy Chúa Giê-su muốn ta ở với Người bất cứ nơi nào Người đã, đang và sẽ ở. Nơi ấy là Na-da-rét, là hoang địa, là con đường truyền giáo, là chỗ người nghèo, cùi hủi, lang thang… đang sống, là con đường thập giá dẫn tới Can-vê, và cuối cùng là bên hữu Thiên Chúa Cha. Để ta chia sẻ với Chúa Giê-su tất cả những gì Người có, nhất là vinh quang của Người. Vinh quang ấy là sự sống lại và kết hiệp hoàn toàn với Thiên Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có bao giờ tôi thực sự ý thức mình là một chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô là Giáo Hội không? Nếu không thì tại sao?
Sự hiệp nhất của Giáo Hội phải được biểu lộ cách cụ thể ngay trong cộng đoàn nhỏ bé của tôi. Tôi đã đóng góp gì cho sự hiệp nhất ấy? Hoặc tôi có để cho óc bè phái, kéo bè kéo cánh lôi cuốn tôi vào những cuộc chống đối, gây khó khăn cho những người đang phục vụ cộng đoàn không?
Tôi đang “ở lại” với Chúa và anh chị em bằng cách nào?
Chúa Giê-su đang ở đâu với tôi bây giờ? Hoặc nói khác đi, tôi đang ở đâu trong cuộc sống của mình và Chúa Giê-su có ở đó với tôi không?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 61)
Đaminh Trần Đình Nhi