“Thịt Ta thật là của ăn, và Máu Ta thật là của uống”.
Bài Ðọc I: Cn 9, 1-6
“Các ngươi hãy ăn bánh của ta, và hãy uống rượu ta đã pha cho các ngươi”.
Trích sách Châm Ngôn.
Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: “Ai ngây thơ, hãy đến cùng ta”. Và bảo những kẻ mê muội rằng: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan”.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 10-11. 12-13. 14-15
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi; bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
Xướng: Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
Xướng: Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an.
Bài Ðọc II: Ep 5, 15-20
“Anh em hãy ăn ở khôn ngoan theo thánh ý Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.
Tin Mừng: Ga 6, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống. Không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
THÁNH THỂ: SÁNG KIẾN TÌNH YÊU
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)
Suy niệm: ĐTC Phan-xi-cô trong buổi tiếp kiến chung ngày 11/05/2021 đã suy niệm: Thiên Chúa đã có sáng kiến mạc khải Ngài là tình yêu nơi Đức Giê-su Ki-tô; còn Đức Giê-su thì mạc khải tình yêu Thiên Chúa nơi bí tích Thánh Thể.
Quả thật, Chúa Giê-su đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13); và Ngài đã thực hiện đúng như thế khi hiến thân mình chịu chết trên thập giá để cho chúng ta được sống, rồi Ngài lại biến đổi bánh và rượu thành Thân Mình Chúa để chúng ta rước lấy và trở nên “một xương một thịt” với Ngài, nhờ đó chúng ta được sống và sống muôn đời. Thiên Chúa quyền năng vô biên nhưng không thể có sáng kiến nào tuyệt vời hơn sáng kiến tình yêu này nơi Thánh Thể Chúa Ki-tô.
Mời Bạn: Mỗi khi tham dự Thánh lễ và lãnh nhận bí tích Thánh Thể, chúng ta đón nhận chính Đức Ki-tô hằng sống nơi mình. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Phải nhờ đời sống cầu nguyện, sự sống của Chúa mới thấm nhuần mọi ngõ ngách trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên một với Chúa ngày càng thân thiết hơn.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi rước Chúa vào lòng, bạn dành thời gian dâng lên Ngài những tâm tình tha thiết nhất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê–su, con tạ ơn Chúa đã ban cho con Bánh hằng sống là chính Thân Mình Chúa. Xin cho con luôn khao khát được kết hợp với Chúa. Và xin Chúa ở lại với con để con được nên một với Chúa luôn mãi. Amen.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên năm B chứa đựng hai đề tài xen lẫn vào nhau:
Chúng ta được mời gọi nuôi dưỡng sự sống đời đời bằng thần lương mà Thiên Chúa thiết đãi (Bài Đọc I và Tin Mừng).
Đề tài khôn ngoan ngự trị trong Bài Đọc I và Bài Đọc II nhưng xuất hiện trong Tin Mừng như lời thách đố của Thiên Chúa đối với sự khôn ngoan của phàm nhân.
Cn 9: 1-6
Trong Bài Đọc I trích từ sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan mời gọi nhân loại và đặc biệt những người túng thiếu, hãy đến dùng thần lương mà mình thiết đãi. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan loan báo bàn tiệc Thiên Sai.
Ep 5: 15-20
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu của mình sống theo sự khôn ngoan độc đáo của Kitô giáo.
Ga 6: 51-58
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần cuối của diễn từ “Bánh Hằng Sống”, trong đó bằng những ngôn từ rất hiện thực, Đức Giê-su loan báo ân ban Thánh Thể: Thịt và Máu của Ngài. Đây là lương thực mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân với sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Ngài, nhưng được cho là điên rồ dưới con mắt phàm nhân.
BÀI ĐỌC I (Cn 9: 1-6)
Sách Châm Ngôn là một trong những sách minh triết Cựu Ước, cũng được gọi là các sách Huấn Giáo (những lời khuyên bảo của các tiền nhân). Trường phái văn chương này xuất xứ từ nguồn gốc bình dân và nguồn gốc bác học.
Về nguồn gốc bình dân, sự khôn ngoan là thành quả thường nghiệm được tích lũy qua bao nhiêu đời, nó diễn tả bằng những câu châm ngôn, thường rất phổ biến. Chúng ta thấy trào lưu này khắp bốn phương trời, hình thành nên “túi khôn của loài người”.
Về nguồn gốc bác học, sự khôn ngoan là những suy tư sâu sắc về cuộc sống của các bậc hiền triết, thậm chí của vua chúa nữa, như ở Ít-ra-en, vua Sa-lô-môn là một bằng chứng điển hình: nhiều câu châm ngôn được gán cho vị vua được cho là khôn ngoan bậc nhất này (sách Châm Ngôn được đặt dưới quyền bảo trợ của vua Sa-lô-môn). Trong miền Cận Đông cũng vậy, có nhiều tác phẩm giáo huấn ở đó, vua (hay một quan đại thần) cho con mình hay người kế nghiệp của mình những lời khuyên khôn ngoan. Su-me, A-khát, Ai-cập đã để lại cho chúng ta nhiều sử liệu thuộc thể loại văn chương này.
1. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn:
Sách Châm Ngôn kết hợp hai nguồn này. Nét đặc trưng của sách Châm Ngôn đó là, ở giữa những câu châm ngôn rất dị biệt, sách dâng hiến một phân đoạn đề tặng Đức Khôn Ngoan. Ở đây, Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa thành một Bà Chúa hiếu khách mở tiệc khoản đãi. Việc nhân cách hóa này mang tính chất thi ca. Đức Khôn Ngoan được ca ngợi ở đây cốt yếu là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, tự nó không thể cấu thành một thực thể biệt phân với Thiên Chúa. Độc thần giáo tuyệt đối của dân Ít-ra-en: “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra, không có vị Chúa nào khác”, không thể nào quan niệm khác đi được. Trong Cựu Ước, sự Khôn Ngoan của Đức Chúa cũng như Thần Khí của Ngài là những quyền năng của Thiên Chúa chứ không là những ngôi vị biệt phân với Thiên Chúa.
2. Bàn tiệc Đức Khôn Ngoan thiết đãi:
Trong đoạn văn được đề nghị cho chúng ta, giáo huấn mà Đức Khôn Ngoan ban cho được sánh ví với một bàn tiệc khoản đãi cho tất cả nhưng ai muốn làm môn đệ của mình.
“Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột”: Điều này muốn nói rằng một nội thất nguy nga lộng lẫy, ở đó các khách mời có thể trò chuyện thân mật; “bảy cây cột”: con số bảy là con số chỉ sự hoàn hảo. Đức Khôn Ngoan đích thân “hạ thú vật”, tự mình “chế rượu” và “dọn bàn”, nghĩa là chủ nhân muốn thiết đãi khách những món ăn thức uống tuyệt hảo.
Đức Khôn Ngoan “sai các nữ tỳ ra đi”. Câu này xem ra không quan trọng lại là câu then chốt của bản văn. Trong Kinh Thánh, việc sai phái các tôi tớ của mình đi thi hành sứ vụ quan trọng là hành vi của Thiên Chúa. Truyền thống sẽ xem hành vi này thậm chí là hành vi của Đấng Thiên Sai. Đó là lý do tại sao các tác giả Tin Mừng thường nhấn mạnh hành vi này được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su khi “Người sai hai môn đệ ra đi” để chuẩn bị bữa ăn Vượt Qua (Mc 14: 13; Lc 22: 8); trong dụ ngôn Tiệc Cưới, vua sai các gia nhân ra đi mời khách dự tiệc, như Đức Khôn Ngoan đã làm.
3. Lời mời được gởi đến hết mọi người:
“Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố” để lời mời gọi của mình được vang lên khắp hang cùng ngỏ hẽm ngỏ hầu mọi người đều có thể nghe được; lời mời này mang tính phổ quát. Đức Khôn Ngoan mời mọi người tham dự bàn tiệc mà mình thiết đãi. Ở bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su cất tiếng mời gọi:“Tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn và uống”.
Tuy nhiên, lời mời trở nên trực tiếp hơn và khẩn thiết hơn được gởi đến cho những ai “ngây thơ khờ dại”. Đó là những người khao khát hiểu biết và muốn mỗi ngày được sống trong sự hiểu biết, chứ không phải là những bậc thông thái tự mãn, khép kín mình trong sự hiểu biết của riêng mình. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo rằng rồi sẽ đến ngày Đức Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho dân Ngài: “Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy sự thất bại, và trí thông minh của những kẻ thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14).
Chúng ta đang ở ngưỡng cửa Tin Mừng hôm nay. Dự định của Thiên Chúa, được chuẩn bị trong sự khôn ngoan khôn dò của Ngài, xem ra điên rồ dưới con mắt của con người dù họ đã được báo trước đi nữa.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 15-20)
Đoạn thư gởi tín hữu Ê-phê-xô được trích dẫn hôm nay thuộc chương 5, trong đó thánh Phaolô trình bày cách sống mới mẻ mà người Kitô hữu đem lại. Những lời khuyên ở đây hòa điệu tuyệt vời với những lời khuyên của sách Châm Ngôn.
1. Cẩn thận xem xét cách ăn nếp ở của mình:
Đây cốt là lời kêu mời khái quát và có tính cách khuyên bảo. Cách ăn nếp ở của người Ki-tô hữu phải là cách sống của một người khôn ngoan, đây là sự khôn ngoan đặc thù Ki-tô giáo mà thánh Phao-lô chú ý mời gọi. Ở môi trường chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, sự khôn ngoan Hy-lạp mà người ta tìm kiếm là một cuộc sống quân bình, điều độ và mực thước, thánh nhân đề cao sự khôn ngoan Ki-tô giáo, sự khôn ngoan cao vời khôn ví, vì nó mở đường đến sự hiểu biết của Thiên Chúa và ơn cứu độ đời đời.
2. Hãy biết tận dụng thời buổi hiện tại:
Chúng ta đừng quên rằng thánh Phao-lô viết thư này đang khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma để gởi đến các cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang gặp phải những khó khăn và quấy nhiễu. Lời khuyên của thánh Phao-lô ở đây có thể được quảng diễn như sau:“Anh em được dịp sống vào thời buổi khó khăn, đó là cơ hội thuận tiện tuyệt vời để anh em hoàn thiện chính mình và sống theo Đức Ki-tô. Hãy tận dụng tận mức cơ hội này”.
3. Chớ say sưa rượu chè:
Thánh nhân đưa ra một mẫu gương khác cho thấy cách sống của người khôn ngoan: sống điều độ. Thánh nhân dường như nhắm đến sự lạm dụng xảy ra trong những bữa ăn huynh đệ của cộng đồng Ki-tô hữu. Quả thật, thánh nhân gợi lên những buổi nhóm họp ngay sau khi thánh nhân mong ước rằng những buổi nhóm họp phải tập trung vào việc cầu nguyện. Thánh nhân đối lập việc thấm nhuần Thần Khí với việc rượu chè say sưa:“Hãy thấm nhuần Thần Khí”.
4. Hãy cùng nhau xướng đáp những bài thánh vịnh:
Chúng ta biết rằng những người Ki-tô hữu tiên khởi đã được gợi hứng từ những tập quán hội đường để cấu trúc những buổi hội họp của họ: xướng đáp những bài thánh vịnh, thánh thi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện… Sơ đồ của Thánh Lễ làm chứng như vậy. Nhưng các cộng đồng Ki-tô hữu đã sáng tác rất sớm các bài thánh thi của riêng mình, đọc kinh Lạy Cha và những lời ngợi khen chúc tụng Chúa tự phát. Thánh Phao-lô luôn luôn nhấn mạnh tâm tình tạ ơn như yếu tố cốt yếu của lời cầu nguyện.
TIN MỪNG (Ga 6: 51-58)
Với đoạn trích Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn tất bài diễn từ “Bánh Hằng Sống”.
1. “Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”:
Đức Giê-su công bố một lời gây sửng sốt:“Bánh tôi ban tặng, chính thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Lời công bố khó lọt tai này gây phản ứng ngay tức khắc từ phía người Do thái, vốn trước đây đã nghi ngờ, tranh luận sôi nổi với nhau:“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Lời công bố của Đức Giê-su ở đây rất gần với lời công bố của Ngài vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể:“Này là Mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”, được thuật lại trong các sách Tin Mừng nhất lãm. Tuy nhiên, ở đây thánh Gioan không dùng từ “sô-ma” (“thân xác Thầy” được dịch “Mình Thầy”) như các sách Tin Mừng nhất lãm, mà là từ “sarsh” (“thịt tôi”). Từ “sarsh” này, theo tiếng A-ram cũng như Hy-ngữ, chỉ toàn bộ con người đang sống, trong khi từ “sô-ma” chỉ một thân xác đối lập với linh hồn theo thuyết nhị nguyên của người Hy-lạp. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định rằng từ “thịt tôi” chính là từ gốc mà Đức Giê-su đã sử dụng khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Với từ “thịt tôi”, thánh Gioan thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa “Nhập Thể” và “Thánh Thể” để có thể nói “Ngôi Lời làm người (“sarsh”) trở thành bánh Thánh Thể”.
2. “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”:
Đức Giê-su nhận ra thái độ kinh ngạc của thính giả. Ấy vậy, nếu như câu nói này chỉ là biểu tượng, chắc chắn Ngài sẽ đính chính, nhưng không, Ngài lại càng nhấn mạnh hơn nữa:“Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời”. Lời khẳng định này lại còn gây sửng sốt hơn nữa: Đức Giê-su không chỉ nói đến “thịt của Ngài”, nhưng còn “máu của Ngài” nữa. Đây không còn là lời khẳng định không thể tin được, nhưng còn gây kỳ chướng hơn nữa. Người Do thái không bao giờ dùng máu; máu là trung tâm sự sống, được dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống. Trong các hy lễ, máu được hoàn toàn dâng tiến cho Thiên Chúa.
Chắc chắn trong ngôn ngữ sê-mít, cách nói thông dụng “thịt và máu” chỉ toàn thể con người, một phàm nhân, như Đức Giê-su nói với thánh Phê-rô sau khi thánh nhân tuyên xưng đức tin: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải thịt và máu mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Nhưng khi khảo sát theo văn mạch cặp “thịt và máu” này, chúng ta nhận ra rằng khi gợi lên máu sẽ đổ ra để chúng ta uống, cũng như thịt sẽ được trao ban để chúng ta ăn, Đức Giê-su loan báo rằng bàn tiệc Thánh Thể không thể tách khỏi cuộc Tử Nạn của Ngài trên đồi Sọ. Ngoài ra để tránh việc hiểu lầm bàn tiệc Thánh Thể quá vật chất, quá phàm trần, Đức Giê-su sử dụng kiểu nói “ăn thịt và uống máu Con Người”, một nhân vật có nguồn gốc thần linh đến trên mây trời trong sách Đa-ni-en. Như vậy, thịt và máu mà Ngài ban tặng để chúng ta ăn và uống ngõ hầu có sự sống đời đời, không là thịt và máu của Đức Giê-su thành Na-da-rét bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước thính giả, mà là thịt và máu của Đấng đã chết, sống lại và nay đang ngự bên hữu Chúa Cha. Chính vì thế thịt và máu mà Người ban tặng sẽ là nguồn sống đời đời cho nhân loại.
3. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”:
Toàn bộ phần cuối của diễn từ nhấn mạnh lời hứa ban sự sống; lời hứa này được lập đi lập lại hầu như ở mỗi câu. Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha Hằng Sống; vì thế, Ngài nắm trong tay mọi nguồn phong phú của sự sống thần linh mà Ngài chuyển thông cho nhân loại khi hiến thân mình thành của ăn thức uống, nghĩa là một sự hiệp thông mật thiết đến mức không gì có thể sánh ví được: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì sống mãi trong tôi, và tôi sống mãi trong người ấy”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su nhắc lại mối liên hệ tròn đầy của Ngài với Chúa Cha: “Như Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”, và mời gọi các môn đệ đi vào trong mối hiệp thông tròn đầy này: “Anh em hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”. Thế nên, động từ “ở trong” là một trong những động từ thánh Gioan rất tâm đắc, qua đó, thánh ký diễn tả tính nội tại của Vương Quốc Thiên Chúa.
Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh sự sống bất khả hư nát mà Ngài ban, một lần nữa Ngài củng cố lời hứa ban sự sống phục sinh của Người. Như vậy, Đức Giê-su mạnh mẻ khẳng định ý nghĩa cuối cùng của “Bánh Hằng Sống”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã không tường thuật sự kiện Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, nhưng trong chương 6 này, thánh ký muốn chúng ta thấu hiểu mầu nhiệm vĩ đại này, còn hơn cả các tác giả Tin Mừng nhất lãm có thể làm trong những bài trình thuật “Chúa Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể” của các ngài.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
BỮA TIỆC THÁNH THỂ
A. DẪN NHẬP.
Ăn uống là nhu cầu khẩn thiết cho con người, nó cần thiết đến nỗi người ta phải nói :”Dĩ thực vi tiên”. Trong cuộc lữ hành của dân Do thái đi về đất hứa, Thiên Chúa đã ban manna cho họ để làm lương thực hằng ngày trong suốt 40 năm ở hoang địa. Tuy manna ấy là vật từ trời xuống nhưng chỉ là bánh vật chất nuôi thể xác, không có sức đem lại sự sống vĩnh cửu cho người ăn. Cha ông họ đã ăn manna ấy nhưng đã chết.
Đức Giêsu hứa sẽ ban cho người Do thái và cho chúng ta hôm nay một thứ manna khác từ trời xuống có sức đem lại sự sống đời đời cho người ăn. Bánh ban sự sống trường sinh ấy là Mình và Máu Đức Kitô. Ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Ngài, được tham dự vào đời sống thần linh của Ngài, và trong ngày sau hết sẽ được sống lại.
Thánh Thể là bàn tiệc Thiên Chúa dọn sẵn cho con người, có đủ mùi vị thơm ngon. Chúa mời mọi người tới tham dự. Chúng ta hãy là người khôn ngoan không những biết tìm của ăn vật chất để nuôi thân, nhưng còn biết tìm lương thực thần linh có sức bổ dưỡng và đem lại cho linh hồn sự sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cn 9,1-6.
Đây là một ngụ ngôn trong sách Châm ngôn. Khôn ngoan đây là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hay nói cách khác, đó là chính Thiên Chúa. Khôn ngoan được nhân cách hóa như một Mệnh phụ hào phóng dọn một bữa tiệc thịnh soạn và kêu mời mọi người đến dự. Những ai sẽ được mời ? Đó là những kẻ nghèo và tất cả những ai sẽ chấp nhận hoán cải khỏi những lầm lạc, họ là những kẻ khôn ngoan chứ không như những kẻ khờ dại.
Những món ăn được dọn để dùng có giá trị tượng trưng : nhằm trình bầy những giáo huấn Thiên Chúa dạy để mọi người đem ra thực hành hầu cho cuộc sống được thành đạt mỹ mãn. Như vậy, hình tượng về sự khôn ngoan nói trên sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu.
+ Bài đọc 2 : Ep 5,15-20.
Đoạn thư này cũng trùng hợp với hai bài Cựu ước và Tân ước vì cùng nói đến sự khôn ngoan. Trong đoạn thư này, thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô không nên làm uổng phí thời giờ mà phải tận dụng để sống khôn ngoan theo Thần Khí hướng dẫn và thúc đẩy, chứ đừng sống như những kẻ khờ dại.
Đây là lời khích lệ mời gọi tỉnh thức : chúng ta đang sống trong một thế giới đầy đam mê dâm loạn. Với tư cách là một Kitô hữu khôn ngoan, chúng ta hãy tránh xa những điều phù phiếm ấy mà hướng lòng về Chúa và điều chỉnh cuộc sống theo thánh ý Ngài.
+ Bài Tin mừng : Ga 6,51-56.
Đây là cao điểm của bài diễn từ của Đức Giêsu về bánh ban sự sống. Ngài quả quyết rằng chính Ngài là nguồn mạch sự sống trường sinh và làø bánh ban sự sống từ trời xuống.
Ngài giáo dục dân chúng theo cách tiệm tiến : Chúa nhật 18 Ngài chỉ khẳng định mình là Bánh hằng sống từ trời xuống. Chúa nhật 19 vừa qua Ngài nói rõ hơn :”Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây”(Ga 6,51). Hôm nay Đức Giêsu hướng thính giả về bí tích Thánh Thể : Ngài nói rõ hơn về Bánh ban sự sống, đó là Thịt và Máu Ngài:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”
Đức Giêsu còn nhấn mạnh thêm : Ai muốn Thiên Chúa ban cho sự sống thật, kẻ đó phải lấy đức tin mà lãnh nhận mình Ngài đã hiến tế và máu Ngài đã đổ ra, thực sự hiện diện trong Thánh Thể. Ngài ban chính Thịt và Máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người. Nếu chúng ta biết rước mình máu Ngài thì hiệu quả sẽ là:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời… thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bữa tiệc Thánh Thể
Tiếp nối Tin mừng của hai Chúa nhật trước nói về sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và Bánh Hằng sống từ trời xuống nuôi linh hồn loài người, trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu khẳng định một cách quyết liệt Bánh hằng sống từ trời đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa sẽ ban Bánh hằng sống đó trong phép Thánh Thể.
I. LỜI KHẲNG ĐỊNH CỦA ĐỨC GIÊSU.
1. Lời khẳng định tiệm tiến.
Đức Giêsu không nói ngay đến Bánh hằng sống là Mình Máu Ngài được ban trong phép Thánh Thể, mà Ngài còn dọn lòng dân chúng để họ có thể chấp nhận chân lý cao siêu mà Ngài muốn dạy dỗ họ. Trước tiên, Đức Giêsu phân biệt hai thứ bánh : bánh vật chất nuôi xác tức Manna trong Cựu ước và bánh thiêng liêng nuôi hồn tức là Thánh Thể Chúa Kitô trong Tân ước. Tiếp đến Ngài nói đến việc Ngài ban mình làm Bánh hằng sống từ trời xuống và kêu gọi người ta ăn bánh đó. Hôm nay Ngài khẳng định Bánh Hằng Sống đó chính là Thịt và Máu Ngài và hứa Bánh hằng sống ấy trong phép Thánh Thể.
2. Lời khẳng định quyết liệt.
Hôm nay Đức Giêsu dọn lòng dân chúng tiến dần đến tột điểm cùng đích của Ngài, đón nhận một mầu nhiệm thẳm sâu, Ngài cho biết rằng Bánh sự sống chính là Thịt và Máu của Ngài khi Ngài phán:”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55). Phép Thánh Thể là một bữa tiệc hy lễ trong đó chúng ta thực sự “ăn thịt và uống máu Chúa”. Lời tuyên bố vừa được nói ra thì nhiều người phản đối, ngờ vực, bỏ đi. Ai lại làm một việc kinh tởm như vậy ? Nhưng Đức Giêsu chẳng những không làm nhẹ bớt ý nghĩa mà lại nói cách rõ rằng hơn, không có thể hiểu một cách khác được :”Thật, Ta bảo thật các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6,53-54).
3. Phản ứng từ phía dân chúng.
Khi nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu : Thịt Ngài là của ăn, máu Ngài là của uống cho sự sống muôn đời thì người Do thái đã phản ứng rất mạnh:”Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được”?(Ga 6,52) ? “Ông này chẳng phải ông Giêsu, con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta , chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói:”Ta từ trời xuống”(Ga 6, 42).
Trước phản ứng dữ dội của họ, Đức Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm:”Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”. Hơn nữa con người còn đi vào sự kết hiệp mật thiết với Ngài:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở lại trong Ta và Ta ở lại trong kẻ ấy”(Ga 6, 56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ nói:”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(Ga 6,60). Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn đi với Ngài nữa.
4. So sánh Manna xưa và nay.
Nhân dịp người Do thái gợi ra câu chuyện Manna, Đức Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về Bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày này lãnh bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng cho con người chính Người Con Một yêu dấu. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lại sự no nê cho thể xác, ngày nay mình máu Chúa Kitô trở thành thần lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà lại còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Ngài, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Ngài trong bí tích Thánh Thể (Vũ xuân Hạnh)
II. PHẢI HIỂU LỜI CHÚA THẾ NÀO ?
1. Hiểu theo nghĩa đen.
Những lời Đức Giêsu giảng dạy ở đây nói về phép Thánh Thể, chúng ta phải hiểu theo nghĩa nào : nghĩa đen hay là nghĩa bóng, nghĩa tượng trưng ? Anh em Tin lành không tin có Đức Giêsu trong phép Thánh Thể. Để phủ nhận, đoạn văn về việc hứa lập phép Thánh Thể phải hiểu theo nghĩa bóng, chứ không thể hiểu theo nghĩa đen được. Còn đối với chúng ta, giáo lý công giáo đã dạy chúng ta phải hiểu theo nghĩa đen thông thường khi nói về phép Thánh Thể, chứ không theo nghĩa bóng được.
Ta thử đọc lại đoạn văn này: Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh hằng sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trên rừng và họ đã chết. Đây là Bánh từ trời xuống : ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ cho chính là Thịt Ta cho thế gian được sống”(Ga 6,48.49.51).
Người Do thái nghe Đức Giêsu nói thế thì lẩm bẩm rằng:”Ông Ta lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn sao được”(Ga 6,52) ? Thế là họ hiểu theo nghĩa đen, đúng như ý Ngài muốn nói. Cho nên, Đức Giêsu không chữa lại (nghĩa là không bảo rằng : các người lẩm bẩm làm chi, Ta nói bóng đấy mà), mà còn nói hăng hơn :”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và uống máu Ngài, thì các ngươi không có sự sống trong mình… Vì thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống”(Ga 6,53.55).
Nhiều người trong môn đệ nghe nói thế, rất khó chịu nên nói :”Lời nói chướng tai quá, nghe sao được”(Ga 6,60). Ngài không rút lời, không cải chính, nên có một số môn đệ bỏ đi. Giả như Đức Giêsu nói nghĩa bóng, thì Ngài giải thích cho họ chứ ? Chẳng những không cải chính, Ngài còn quay lại hỏi các Tông đồ rằng:”Còn các con, các con có muốn bỏ mà đi không” ? Nghĩa là Ngài muốn nói : nếu các con không tin mà bỏ Ta, thì Ta cũng cứ nói thế, chứ không rút lại lời đã nói.
2. Sự hiện diện thực sự.
Dân chúng trong hội đường Capharnaum đã không hiểu hay không muốn hiểu. Ngày nay cũng có nhiều người không muốn hiểu và muốn coi đó chỉ là một cách nói. Còn chúng ta, chúng ta tin rằng lời Chúa là sự thật. Khi chúng ta “ăn thịt và uống máu Chúa”, không phải chỉ là một sự hiện diện, mà là sự thông phần thực sự vào Thánh Thể vinh quang của Ngài. Sự sống của Ngài tuôn chảy trong mạch quản của chúng ta. Ngài ở trong Ta và Ta ở trong Ngài.
Thánh Cyrillô nói:”Đừng nghi ngờ đó là sự thật, nhưng tốt hơn nên đón nhận Lời của Đấng Cứu thế trong đức tin, vì Ngài không thể nói dối”.
Truyện : Ông Daniel Connell
Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ái-nhĩ – lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số bạn bè theo đạo Tin lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Bấy giờ Daniel đã trả lời như sau:”Sao các ông lại hỏi tôi ? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào lời Chúa nói. Nếu Lời Chúa khẳng định rằng :”Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi ! Nhưng tôi luôn tin rằng : Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời”.
Câu nói của Daniel Connell cho ta thấy : niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, la ølương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là đều kiện để ta được ơn cứu độ (Vietcatholic).
3. Lời Chúa và Thánh Thể.
Ngày nay có những người Công giáo bị ảnh hưởng các giáo phái khác, có khuynh hướng nhấn mạnh đến việc đọc lời Chúa, họp nhau chia sẻ lời Chúa, mà không quan tâm đến việc đi dự lễ để được rước Mình thánh Chúa. Đối với người công giáo, Lời Chúa và Mình thánh Chúa đều là lương thực thiêng liêng. Đọc lời Chúa và suy gẫm lời Chúa mà không đi dự lễ để được kết hiệp với Chúa trong bí tích Thánh Thể thì không còn cái căn tính của người công giáo. Cha ông ta thường nói :”Quen quá hoá nhàm”, nghĩa là người ta không qúi trọng cái mà người ta có trong tay mà còn muốn tìm cái khác…
Đức tin của người công giáo về bánh hằng sống khác hẳn với người Tin lành. Người công giáo tin có Chúa hiện diện thực sự trong bí tích Thánh Thể, và tin việc rước lễ là rước Mình thánh Chúa. Vì nếu ta tin Chúa có quyền phép, ta cũng tin Chúa có thể biến đổi bánh rượu thành Mình thánh Người, mặc dù hình thái bên ngoài vẫn giống bánh rượu. Nếu ta tin Chúa có quyền thế, ta cũng tin Chúa trao quyền cho Linh mục, để truyền cho bánh rượu trở thành Mình Máu thánh Người.
III. HÃY ĐẾN DỰ BÀN TIỆC THÁNH THỂ.
1. Thánh Thể là bữa tiệc.
Thánh lễ trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi người cho là một vinh dự. Ở đây mọi người trở nên bình đẳng, vì tất cả chúng ta là những người nghèo về mặt thiêng liêng nên tất cả đều được ăn uống no nê. Ngoài ra, tất cả những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta không đến dự ?
Truyện : Người mẹ hy sinh để con sống.
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ goá chồng, mang theo một đứa con thơ đang bú sữa mẹ. Sau khi đi được một tuần, thì một cơn bão bất ngờ ập tới làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm bị gẫy. Từ đó, con thuyền phải lênh đênh trên mặt biển trong nhiều ngày. Lương thực trên tầu hầu như cạn kiệt. Nhiều người trên thuyền bị chết đói và bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ kia đã bị chết đói, đang khi đứa con bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cắt đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu mình thay cho dòng sữa. Bà đã hy sinh chết để cho con bà được sống !
Về sau đứa bé lớn lên đã trở thành một dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ và biết ơn người mẹ thân thương và một ngày kia, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội, kể lại câu chuyện đau thương cuộc đời mình, và đề nghị Quốc hội chọn một ngày trong năm làm ngày để nhắc nhở con cái tỏ lòng biết ơn đối với mẹ mình. Đó là nguồn gốc của Ngày Quốc tế các Bà Mẹ hiện nay.
3. Hiệu quả việc tham dự Thánh Thể.
Đức Giêsu đã giãi bầy tâm sự với các môn đệ :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Khi chúng ta rước mình và máu thánh Chúa thì chúng ta được kết hợp với Ngài như Ngài ở trong chúng ta vậy. Một cuộc kết hợp giao thân như cành nho với thân nho (Ga 15,4-7), một cuộc trao đổi tình thương có một không hai, chỉ có trong phép Thánh Thể.
Để minh hoạ cho sự kết hợp trên, tôi xin đưa ra hình ảnh cụ thể : Đây là tủ sách của tôi, trong đó có một quyển sách mà tôi chưa hề đọc. Dù cho quyển sách đó có qúi và bổ ích đến bao nhiêu, nhưng nếu tôi không đọc đến thì nó vẫn ở ngoài tôi. Nhưng một ngày kia, tôi lấy nó ra đọc, tôi cảm thấy hồi hộp, lôi cuốn và rung cảm. Câu truyện đó thôi thúc tôi, những dòng chữ quan trọng được ghi khắc vào tâm trí tôi. Bây giờ lúc nào cần, tôi có thể lấy những điều kỳ diệu đó từ bên trong, hồi tưởng lại, suy gẫm nó bồi dưỡng tâm trí mình. Trước kia cuốn sách đó vốn ở ngoài tôi, nằm trên kệ sách. Bây giờ, nó đã thâm nhập vào tôi, tôi có thể lấy nó để nuôi mình. Những kinh nghiệm và từng trải trọng đại trong đời cũng vậy, chúng vẫn ở ngoài ta cho đến khi chúng ta nhận lấy cho riêng mình.
Với Chúa Giêsu cũng vậy. Bao lâu Ngài còn là một nhân vật trong sách, thì Ngài vẫn ở ngoài ta, nhưng một khi Ngài đã vào lòng chúng ta, thì Ngài ở trong chúng ta, chúng ta có thể nuôi dưỡng bằng sự sống, sức mạnh và sinh động mà Ngài ban cho. Đức Giêsu dạy chúng ta phải uống máu Ngài, điều ấy Ngài muốn nói “Các ngươi phải tiếp thu sự sống của ta, đưa vào bên trong các ngươi. Phải thôi nghĩ về Ta như một nhân vật trong sách hay một đề tài thảo luận thần học, mà phải nhận lấy Ta vào bên trong các ngươi, và các ngươi vào trong Ta, lúc ấy, các ngươi sẽ có sự sống, và đó là sự thật”. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói khi Ngài đề cập đến việc chúng ta ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Khi Đức Giêsu dạy chúng ta ăn thịt và uống máu Ngài là dạy chúng ta hãy lấy nhân tính của Ngài để nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn mình, hãy bồi bổ lại đời sống mình bằng sự sống của Ngài cho đến khi chúng ta được thấm nhuần, tràn ngập, đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa (Trần văn Hàm, Tin mừng Chúa nhật, năm B, tr 185).
Muốn thực sự gặp gỡ Đức Kitô, muốn được kết hợp chặt chẽ với Ngài, có lẽ chúng ta phải có chút duyên như người ta thường nói :
Hữu duyên vạn lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Muốn gặp Chúa kết hiệp nên một với Ngài thì phải có “duyên” với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hoà tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hoá tính căn bản giống nhau mới hoà tan với nhau được. Cũng vậy, “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định:”Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghirệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8) ; “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12) ; “Nếu ai có của cải thế gian mà thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được?” (JKN).
Để kết thúc tôi xin đưa ra đây câu truyện có vẻ hơi “kỳ kỳ”, không biết có tương xứng không, nhưng cũng có thể giúp chúng ta suy nghĩ, may ra có thể kiếm được một vài tư tưởng nào đó để áp dụng vào cuộc sống mình :
Truyện : Thánh Gióng.
Thời vua Hùng Vương có một bà sinh đứa con tên là Gióng. Đứa bé lên ba rồi vẫn không biết lật, không biết ngồi, cũng không biết cười nói gì, cứ nằm ngửa đòi ăn.
Thời ấy giặc Ân kéo đến xâm chiếm, quân ta nhiều lần bại trận. Vua Hùng lo sợ, sai sứ đi khắp nước tìm kiếm tướng tài cứu nước. Nghe báo cứu nước, tự nhiên bé Gióng nhìn mẹ bật lên tiếng nói :
– Mẹ gọi sứ giả vào đây cho con.
Sứ giả vào nhà thấy bé liền hỏi:
– Bé ơi, bé bị tật như thế, mời ta vào làm gì ?
Bé dõng dạc nói :
– Về bảo vua đúc một con ngựa sắt, một mũ sắt đưa đến cho ta đi đánh giặc Ân.
Rồi bé bảo mẹ thổi nhiều cơm cho con ăn. Mẹ thổi bao nhiêu, bé ăn hết bấy nhiêu. Hết gạo, mẹ kêu làng xã mang gạo, khoai, bánh rượu, trâu bò cho bé ăn. Bao nhiêu cũng hết. Ăn xong, lúc vươn vai thành người khổng lồ, mặc áo giáp, câm gươm, hét lớn tiếng :
– Ta là tướng nhà trời.
Gióng nhảy lên ngựa sắt phun ra lửa, phi như bay đến phá tan giặc Ân. Dẹp xong giặc. Gióng chạy lên núi Sóc Sơn, cởi áo bỏ lại, biến lên trời. Vua phong thánh Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thở kỷ niệm ở làng quê (Vũ khắc Nghiêm).
Câu chuyện có vẻ thần thoại, nhưng cũng có ý nghĩa. Nếu sứ giả của nhà vua cùng bà mẹ và dân làng khinh chê đứa bé tàn tật, cố chấp không nghe lời bé Gióng, không góp công góp của một chút, thì đâu được bé Gióng là tướng nhà Trời đến cứu dân cứu nước. May thay, họ đã khiêm tốn nghe lời đứa bé ba tuổi tàn tật và họ đã được tướng nhà trời cứu sống.
Người Do thái đã không học bài học đó. Họ khinh chê Đức Giêsu, không tin lời Ngài vì Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse và cũng là người ở Nazareth, theo họ, tại Nazareth có cái gì hay đâu ! Ngày nay, người ta cũng chẳng khác gì người Do thái xưa. Đức Giêsu đã bảo họ :”Ai có tai để nghe thì hãy nghe”, nhưng đâu người ta có nghe, nếu có nghe thì cũng chỉ như hạt giống gieo bên vệ đường chim trời ăn mất vì họ từ chối :”Người đi thăm trại, kẻ đi buôn, đứa thì lo cưới vợ. Họ khinh thường lời nói của vua trời đất, họ sẽ bị tru diệt”(Mt 22,5-7).
Cuối cùng, chúng ta hãy đọc lại lời nói của Đức Giáo hoàng Phaolô VI trong thông điệp Mysterium Fidei nói về việc tôn sùng phép Thánh Thể :
”Trong khi nhớ đến sự cao cả và lòng thương lạ lùng của Chúa Giêsu, Đấng đã ban sự sồng rất qúi giá của mình để làm giá cứu chuộc chúng ta và là Đấng đã ban thịt mình cho chúng ta ăn, các tín hữu hãy tin vững chắc và kính thờ sốt sắng mầu nhiệm Mình Máu thánh Người với một niềm kính trọng và đạo đức khả dĩ cho phép họ được năng rước lấy bánh siêu thể đó. Ước chi Người thực là đời sống của linh hồn họ, và là sức khoẻ vĩnh viễn của tinh thần họ ; ước chi, sau khi được tăng cường bởi nghị lực của Người, từ cuộc hành trình gian khổ đời này dần dà họ tới nơi quê trời, để được ăn ở đó bánh không còn che phủ của các thiên thần : bánh mà bây giờ họ được ăn dưới những tấm màn thánh che phủ”.