“Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”.
Bài Ðọc I: 1 V 19, 4-8
“Nhờ sức của nuôi ấy, ông mới đi tới núi của Thiên Chúa”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Êlia đi một ngày đàng vào trong hoang địa. Khi đến nơi kia, và ngồi dưới gốc cây tùng, ông xin được chết mà rằng: “Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con”. Rồi ông nằm ngủ dưới bóng cây tùng. Và đây Thiên Thần Chúa đánh thức ông và bảo rằng: “Hãy chỗi dậy mà ăn”. Ông nhìn thấy gần đầu ông có chiếc bánh lùi và một bình nước: ông ăn uống, rồi ngủ lại. Thiên Thần Chúa trở lại đánh thức ông lần thứ hai và bảo: “Hãy chỗi dậy mà ăn: vì đường ngươi phải đi còn xa”. Ông liền chỗi dậy ăn uống, và nhờ sức của nuôi ấy, ông đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ.
Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
Xướng: Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.
Bài Ðọc II: Ep 4, 30 – 5, 2
“Anh em hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã sống”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em chớ làm phiền hà Thánh Thần của Thiên Chúa, vì trong Người, anh em được ghi ấn tín để chờ đợi ngày cứu chuộc đến. Anh em hãy loại ra khỏi anh em mọi thứ gay gắt, tức giận, nóng nảy, dức lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác. Anh em hãy ăn ở hiền hậu với nhau, hãy thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô. Vậy anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, như con cái rất yêu dấu của Người: hãy sống trong tình thương, như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và phó Mình làm của dâng và lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
Tin Mừng: Ga 6, 41-52
Khi ấy, những người Do-thái kêu trách Chúa Giêsu, vì Người đã phán rằng: “Ta là bánh hằng sống bởi trời mà xuống”. Họ nói: “Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại nói: ‘Ta bởi trời mà xuống’”.
Chúa Giêsu trả lời cùng họ rằng: “Các ngươi chớ thì thầm với nhau. Không ai đến được với Ta nếu Cha, là Ðấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: ‘Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo’. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Ðấng bởi Thiên Chúa mà ra, Ðấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời.
“Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Ðây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
THẦY BAN TRÓT THÂN MÌNH …
“Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6,51)
Suy niệm: Trong trọn bản văn Thánh lễ của Sách lễ Rôma, những chữ được in đậm và to nhất chính là ‘lời truyền phép’: “TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ ĂN, VÌ NÀY LÀ MÌNH THẦY, SẼ BỊ NỘP VÌ CÁC CON… TẤT CẢ CÁC CON HÃY NHẬN LẤY MÀ UỐNG, VÌ NÀY LÀ CHÉN MÁU THẦY, MÁU GIAO ƯỚC MỚI VÀ VĨNH CỬU, SẼ ĐỔ RA CHO CÁC CON VÀ NHIỀU NGƯỜI ĐƯỢC THA TỘI...” In đậm và to nhất, bởi vì đây là những lời quan trọng nhất, đây là khoảnh khắc đậm đặc ý nghĩa YÊU THƯƠNG nhất của Thánh lễ. Trong khoảnh khắc này, Chúa Giê-su dứt khoát trao hiến chính sự sống của Ngài cho chúng ta. Và đây không phải là một quyết định bốc đồng kiểu ‘anh hùng rơm’; đây là cả một chương trình hiến thân được vạch ra từ trước, như bản văn Tin Mừng hôm nay xác nhận.
Mời Bạn: Hãy nghe với cả tâm hồn mình, hãy nghe như lần đầu tiên được nghe những lời tha thiết của Chúa: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con; này là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con…” Và bạn hãy cảm nhận niềm hạnh phúc được Chúa yêu thương đến mức đó.
Chia sẻ: Hẳn bạn từng trao tặng điều gì thật quý cho bạn hữu, người thân? Hãy mô tả kinh nghiệm ấy. Rồi bạn nhìn lại hành động của Chúa: Ngài yêu thương ta đến mức trao chính bản thân, chính sự sống của Ngài chứ không phải chỉ là một cái gì đó ở ngoài Ngài!
Sống Lời Chúa: Bạn sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước lễ với cả tâm tình.
Cầu nguyện: Hát: “Thầy yêu chúng con lời ai nói cho cùng… Thầy yêu chúng con Thầy ban trót thân mình, để nuôi chúng con ngày lưu ký trần gian…”
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Diễn từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.
1V 19: 4-8
Bài Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.
Ep 4: 30-5: 2
Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình.
Ga 6: 41-51
Tin Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 4-8)
Đây là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).
1. Bối cảnh lịch sử:
Vua A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.
Ngôn sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.
Hoàng hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.
2. Cuộc hành trình đến núi thánh.
Ngôn sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.
Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì họ đã nghi ngờ.
Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.
Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.
Bốn trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 30-32-5: 2).
Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.
1. Sống theo Thần Khí:
Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi, điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật, ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1: 5).
2. Bắt chước Thiên Chúa:
Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12).
3. Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:
Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.
Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ. Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.
TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)
Chúng ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.
Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi danh xưng “người Ít-ra-en” được dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh luận của chương 5).
1. Vấn đề đức tin:
“Ông nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình. Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.
Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”. Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái, những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại. Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ ở đây.
2. “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:
Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác, Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).
Đức Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai, Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.
3. Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:
Những người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà hiểu cho được.
Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây giờ với điểm nhấn trên hy tế.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG
A. DẪN NHẬP
Đời là một cuộc hành trình đi về quê trời. Con đường về trời vừa xa lại vừa khó khăn. Lương thực cho cuộc hành trình phải được đầy đủ. Nhưng lương thực chúng ta phải có là gì ? Lấy đâu ra thứ lương thực đó ? Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ bảo cho chúng ta thứ lương thực mà Ngài sẽ ban cho. Đó là bánh hằng sống từ trời xuống.
Đức Giêsu đã hé mở cho dân Do thái biết : Ngài sẽ ban cho họ thứ bánh đó :”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”. Lời tuyên bố này gây sốc cho người nghe, làm cho người ta sững sờ và khó chịu, nhất là khi Ngài nói thêm:”Và bánh ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây”(Ga 6,51). Họ không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy khi bản thân Đức Giêsu chỉ là một người Nazareth, gia cảnh rất tầm thường.
Còn đối với chúng ta, nếu không có đức tin soi dẫn, chúng ta không thể nào chấp nhận được mầu nhiệm Thánh Thể, vì Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Ngày nay chúng ta đã được Chúa soi sáng, chúng ta tin nhận Đức Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống và Bánh ấy là thịt máu Ngài. Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta trên đường về quê trời và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : 1V 19,4-8.
Tiên tri Êlia đứng lên chống đối việc thờ kính ngẫu thần do bà Jézabel, vợ ngoại giáo của vua Achab, đưa vào đất Israel. Sau lần tiên tri Êlia giết chết 400 sư sãi Baal, ông bị hoàng hậu Jézabel truy nã gắt gao, ông phải trốn chạy vào hoang địa. Bị đói khát và thất vọng, ông chỉ còn chờ chết. Nhưng Chúa sai thiên thần mang đến cho ông một chiếc bánh và một vò nước. Được bánh và nước bồi dưỡng, ông lấy lại sức và tiếp tục lên đường, đi một mạch suốt 40 ngày tới núi Horeb diện kiến Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2 : Ep 4,30-32 – 5,2.
Khi viết thư này, phải chăng đang có một sự căng thẳng trầm trọng đã nảy sinh trong cộng đoàn tín hữu ở Êphêsô, đến độ người ta đã la lối và thoá mạ nhau ? Thánh Phaolô nhắc nhở mọi người hãy nhớ mình là Kitô hữu, nhờ phép rửa tội đã trở nên con Thiên Chúa, là môn đệ và là anh em với Đức Kitô.
Vì thế, địa vị ấy đòi hỏi chúng ta phải biết thương yêu, biết tha thứ cho nhau bằng cách phải giũ bỏ khỏi đời sống tất cả những gì làm thương tổn đức bác ái như giận hờn, thù oán, ích kỷ. Thánh Phaolô xác định rằng việc tha thứ cho nhau ấy là kết quả hợp lý của việc được Thiên Chúa thứ tha “Như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô”(Ep 5,2).
+ Bài Tin mừng : Ga 6,41-51.
Đức Giêsu đã tuyên bố:”Ta là bánh từ trời xuống”. Đứng trước những thính giả hoài nghi và còn thù nghịch nữa, Đức Giêsu cứ khẳng định như thế. Ngài còn cho biết thêm : ai muốn được sống vĩnh hằng, cần phải lãnh nhận bánh ấy.
Người Do thái không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố ấy bởi vì làm sao người ta có thể hiểu được mầu nhiệm Nhập thể. Người ta chỉ có thể lý luận theo lẽ tự nhiên rằng : làm sao ông này có thể là bánh hằng sống từ trời xuống được ? Bởi vì ông ta chỉ là người Nazareth như họ, ông ta chỉ là người thợ mộc, con ông Giuse và bà Maria, anh chị em ông đang ở với mình, thân thế sự nghiệp chả có gì đáng lưu ý, gia cảnh của ông ta thật là tăm tối. Vậy tại sao ông ta dám tuyện bố như thế ?
Đức Giêsu muốn trả lời cho họ rằng muốn tin mầu nhiệm này, hiển nhiên là phải có đức tin. Đức tin chỉ Thiên Chúa mới có thể ban cho. Đức tin giúp những người lãnh nhận nó được kết hợp với Chúa và sống bởi Chúa và nhờ Chúa. Như vậy, chúng ta hưởng nhờ đức tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy tỏ ra ngoan ngoãn với những giáo huấn của Ngài, trung thành yêu mến Ngài, nhiệt tâm với Thánh Thể Ngài. Do đó, Ngài sẽ là bánh hằng sống từ trời xuống, là nguồn mạch sự sống vĩnh hằng cho chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Muốn được trường sinh bất tử
Đây là bài giảng dài, Đức Giêsu nói về Bánh Hằng Sống. Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đoạn Tin mừng tuần trước được rút ra trong bài giảng về Bánh hằng sống trong thánh Gioan. Bài giảng này có thể chia thành 3 phần :
1. Chúa nhật tuần trước đã nói đến sự khác biệt giữa của ăn vật chất mau hư nát và của ăn bất hủ mà Con người đem đến trong thế gian.
2. Chúa nhật này nói đến việc Đức Giêsu ban mình làm bánh hằng sống và kêu gọi mọi người ăn bánh đó.
3. Chúa nhật tuần sau sẽ nói đến việc Đức Giêsu ban bánh đó trong phép Thánh Thể.
I. TA LÀ BÁNH TỪ TRỜI XUỐNG
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa dần đến mầu nhiệm “Bánh ban sự sống”. Nhưng dân chúng không mở tai ra để nghe, để hiểu. Họ chỉ khư khư xoay quanh những đòi hỏi vật chất. Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ta là bánh từ trời xuống”, người ta kêu ca phản đối:”Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Ta từ trời xuống” ?
Họ phản đối Đức Giêsu vì họ thấy theo con mắt xác thịt, theo suy nghĩ của loài người hạ giới. Họ giống như Gagarin, anh hùng vũ trụ đầu tiên, bay lên không gian ngày 12 tháng 4 năm 1961. Khi trở về trái đất, ông tuyên bố :”Tôi không thấy thiên đàng đâu cả”. Lối nhìn này gọi là quan sát thực nghiệm, cân đo, đụng chạm được bằng mắt, tai, tay, chân, mũi. Ngoài ra không thấy gì khác nữa.
Họ phản ứng trước lời tự xưng của Đức Giêsu, nêu lên sự kiện Ngài là con bác thợ mộc, họ biết Ngài sinh sống tại Nazareth. Làm sao họ hiểu một người thợ mộc tầm thường nghèo nàn lại có thể trở thành sứ giả đặc biệt của Thiên Chúa được. Họ chối bỏ Đức Giêsu vì trắc nghiệm Ngài bằng các giá trị của loài người, của xã hội và bằng tiêu chuẩn thế gian.
Truyện : Bé cái lầm
Lawrencee là bạn thân của thi sĩ Thomas Hardy. Thời gian ông phục vụ trong Không lực hoàng gia Anh với tư cách thợ máy, ông vẫn thường mặc quân phục thợ máy đến thăm vợ chồng Hardy. Một lần tại nhà thi sĩ, ông gặp bà thị trưởng Dorchester. Không biết anh thợ máy cùng có mặt hôm đó là ai, bà tỏ ra khó chịu quay sang hỏi bà Hardy, nói bằng tiếng Pháp, bà than phiền “từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, tôi chưa bao giờ ngồi uống trà với một tên lính quèn như thế này”. Không ai nói năng gì. Một lúc sau, Lawrencee nói với bà bằng tiếng Pháp thật hoàn hảo rằng: “Xin lỗi bà, tôi có thể làm thông dịch viên cho bà, vì bà Hardy không biết nói tiếng Pháp”.
Một mệnh phụ phu nhân rởm đời và bất nhã đã lầm lẫn tai hại chỉ vì xét người theo bề ngoài, theo tiêu chuẩn xã hội. Đó cũng là lầm lẫn của người Do thái đối với Đức Giêsu. Họ không thấy được Đức Giêsu từ trời xuống vì lòng họ ra chai đá, không còn cảm động theo ân huệ lôi kéo của Đức Chúa Cha, không còn nghe lời Cha dạy dỗ dù hết mọi người được Thiên Chúa dạy dỗ như sách tiên tri đã chép. Thiên Chúa lôi kéo. Thiên Chúa dạy dỗ. Thiên Chúa đề nghị, nhưng rồi ta không nghe, không đáp lại, không hiệp thông. Người ta có tự do, có quyền từ chối, tự do của họ đã chiều theo các tình tư dục của họ.
II. TA LÀ BÁNH BAN SỰ SỐNG
Sau khi đã trẽ câu chuyện vì sự lẩm bẩm của người Do thái, Đức Giêsu lại trở lại vấn đề Ngài là Bánh. Trên kia Ngài quả quyết Ngài là bánh từ trời xuống. Đây Ngài quả quyết thêm một điều nữa :”Ngài là bánh ban sự sống”, khác với manna.
So sánh manna được ban cho dân Do thái làm lương thực đi đường trong sa mạc với Bánh Hằng Sống được Đức Giêsu ban cho các tín hữu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta thấy manna là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Do thái trong thời xuất hành, là thứ đồ ăn mau bị hư nát (x.Xh 16,19-21). Dù dân Do thái đã ăn manna, nhưng họ vẫn bị giết chết do tội họ đã phạm (x.Tv 78, 29-31) và vẫn không sống đời đời (x.Ga 6,58). Còn Đức Giêsu mới là Bánh Hằng Sống đích thực, để ăn thịt và uống máu Ngài thì sẽ không phải chết (x.Ga 6,50) nhưng được sống đời đời(Ga 6,51.54), được ở trong Ngài (Ga 6,56), được sống nhờ Chúa Cha (x.Ga 6,57), được sống và được sống dồi dào (x.Ga 10,10).
Đức Giêsu lại nói tiếp:”Bánh Ta sẽ ban tặng chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống”. Với câu này, Đức Giêsu đã đưa vào một ý tưởng mới. Bánh này Đức Giêsu hứa sẽ ban, nhưng chưa ban. Đã rõ, đây Đức Giêsu muốn nói về Thánh Thể Ngài sẽ thành lập sau này. Từ lương thực nuôi sống thể xác, được Ngài biến thành Bánh Hằng sống (x.Ga 6,48), thành thân mình sẽ bị khổ nạn và phục sinh của Ngài (x.Ga 6,51), thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin, giúp các tín hữu đủ sức tiến về Đất Hứa là quê trời đời sau và sẽ được sống muôn đời.
Truyện : Phép lạ ở Lanciano.
Năm 700, tại tu viện thánh Longino ở Lanciano (Ý) có một linh mục tên là Basiliô, đã dâng Thánh lễ nhưng lại hoài nghi về mầu nhiệm Chúa biến bánh rượu nên Mình Máu Thánh Chúa , thì Chúa đã làm một phép lạ cả thể còn được lưu niệm đến ngày nay như một tang chứng vĩ đại về phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Sau khi vị Linh mục ấy truyền phép, Bánh đã trở nên Thịt và Rượu đã trở nên máu, còn được cô đọng đến ngày nay. Theo một cuộc phân tích, thịt là một thớ thịt từ trái tim, máu là máu một người với công thức AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng là công thức AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa được lưu giữ trong hào quang qúi giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano, có từ năm 1713. Cuộc khảo sát khoa học chứng minh, được thực hiện năm 1971. Thánh đường thánh Phanxicô, nơi lưu giữ, trở nên một trung tâm hành hương lớn của thế giới (Đọc Eucharistic Miracles của Carroll Cruz).
III. BÁNH BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
Người đời ai cũng muốn sống lâu, sống trường sinh bất tử, cho nên mỗi độ xuân về người ta nhộn nhịp chúc tuổi nhau như thi sĩ Trần tế Xương đã diễn tả :
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Người ta ai cũng sợ chết. Tham sinh úy tử là lẽ tất nhiên. Người ta nhận xét rằng không bao giờ người đời cảm thấy mình sống lâu cả. Dầu đã tóc bạc da mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy. Cụ Tam nguyên Yên Đổ đã diễn tả tâm trạng ấy như sau :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây
Thoát chốc mà già đã tới ngay.
Đến ngay Đức Hồng y Mercier, trước khi kết thúc cuộc đời 74 tuổi, đã buồn rầu khóc lên khi thấy thần chết đến gõ cửa :”Ôi đau đớn thay, phải mang theo vào lòng đất bao nhiêu dự định”.
Càng sống lâu, người ta càng muốn sống, càng thích sống, thèm sống, khát sống… Cụ già tám chín mươi tuổi thấy còn ham sống , như trang thanh niên mười chín đôi mươi vậy. Người ta có sống lâu đến ngàn năm như ông Mathusalem đi nữa, chắc tâm trạng cũng không thay đổi được.
Vì vậy, người ta mới tìm ra đủ cách, đủ mọi phương pháp để được cải lão hoàn đồng, được sống lâu, nhất là được trường sinh bất tử.
Truyện : Thuốc bất tử hay thuốc tử ?
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên canh cửa hỏi rằng :
– Vị thuốc này có ăn được không ?
Người ấy đáp :
– Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu rằng :
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng :”Ăn được” nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi người dâng thuốc – Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử, chớ sao gọi là bất tử được ? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết nữa.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 170)
Người ta hoàn toàn bất lực trước cái chết. Bao nhiêu phương pháp làm cho con người trường sinh bất tử đều thất bại. Người ta chỉ còn có cách quay về với Chúa thôi.
Một trong những câu nói quan trọng nhất của Đức Giêsu về đời sống vĩnh cửu là những gì Ngài nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Ta là Bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Bánh của Ta sẽ ban cho ấy là Thịt Ta, Ta ban Thịt Ta để thế gian được sống”. Đức Giêsu mạc khải cho biết cuộc sống nơi trần gian này không phải là cuộc sống duy nhất và chết không phải là chấm hết. Còn có cuộc sống trong tương lai không bao giờ chấm dứt, đó là cuộc sống vĩnh cửu.
IV. THÁI ĐỘ CỦA TA
1. Tin hay không tin
Khi Đức Giêsu nói:”Ta là Bánh từ trời xuống”, dân Do thái xầm xì phản đối là phải, vì Ngài mạc khải về mình cho họ, Ngài mời họ tin vào Ngài và ăn bánh trường sinh là Ngài, để không bị đói khát nữa mà được sống đời đời. Làm sao họ tin Ngài là sứ giả của Thiên Chúa, là Đấng ở nơi Thiên Chúa, là Đấng sống mật thiết với Thiên Chúa, là chính Ngôi Lời Thiên Chúa, tiếng nói của Ngài là tiếng nói của Thiên Chúa. Ngài là bánh hằng sống từ trời xuống ư ?
Ngày nay tâm thức của con người cũng chẳng khác với người Do thái xưa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ mầu nhiệm trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là chuyện mới mẻ : việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Ngài đã giảng giải và dạy giáo lý !
Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo “lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin : đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống”.
Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp hèn ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “Bánh bởi trời”( Noel Quesson) ?
2. Muốn được đến với Chúa
Đức Giêsu phán tiếp:”Các ông đừng có xầm xì với nhau, chẳng ai đến với Ta được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy”. Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là “Ân sủng”, hay nói cách khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói cần phải có sự soi sáng ở bên trong của Thiên Chúa là Đức tin, để thấu hiểu được những việc của Thiên Chúa, để “đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu biết của bộ óc con người hay của máy móc khoa học : Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận “Lời Chúa”, lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Truyện : Hồng y Newman.
Hồng y Newman trước kia đã từng giữ chức vụ cao trong Anh giáo và bổng lộc hằng năm là một số tiền khá lớn. Dù thuộc tầng lớp qúi tộc và hàng chức sắc cao cấp như vậy, nhưng ngài vẫn luôn có sự áy náy lương tâm về một số vấn đề liên quan đến đức tin tôn giáo khó lòng lý giải được.
Thế rồi một ngày kia, sau khi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ tìm hiểu và so sánh giữa Anh giáo và đạo Công giáo, cuối cùng ngài quyết định từ bỏ mọi chức vụ và các đặc quyền đặc lợi để xin cải giáo theo Công giáo. Biết được ý định của Newman, nhiều người thân là bà con và bạn bè đã đến thăm và đề nghị ngài suy nghĩ lại. Có người còn nêu cụ thể vấn đề bổng lộc như sau:”Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hàng năm không còn được hưởng nữa”.
Nhưng Newman đã thẳng thắn trả lời họ rằng:”Tiếc thì tôi cũng có tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng qúi, nhưng có đáng là gì nếu đem so sánh với những cái tôi nhận được khi tôi trở nên thành viên của Hội thánh Công giáo và tông truyền. Tôi sẽ được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần qua việc lãnh các bí tích, nhất là được ăn bữa tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Newman có được suy nghĩ sáng suốt và quyết tâm cao như vậy, là do Ngài được Chúa Thánh Thần soi dẫn và đã thuận theo sự hướng dẫn ấy. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần, thì người ta chẳng những sẽ không hiểu nổi các chân lý nói trên, mà sẽ còn tỏ ra khó chấp nhận những lời giảng dạy về mầu nhiệm Thánh Thể, như đám đông dân Do thái tại thành Capharnaum mà Tin mừng hôm nay đã thuật lại.
3. Thánh Thể, nguồn sinh lực dồi dào
Để có thể tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, người ta phải mở rộng tâm hồn trước những mạc khải và quyền lực siêu nhiên.
Văn sĩ Charles Péguy đã nói:”Bí tích Thánh Thể, Bánh Hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ ! Vậy để thấy rõ hơn, có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái “vô hình”.
Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời với bao gian nan trở ngại. Chúng ta cũng cần được Chúa nuôi dưỡng để đủ sức đi trọn cuộc hành trình về quê trời đời sau. Vậy chúng ta cần phải ăn thứ lương thực nào ? Chúa Cha đã ban cho ta bánh bởi trời là Đức Giêsu (x.Ga 6, 32-33). Đó là Bánh Thánh Thể, được ban để đem lại sự sống đời đời như Ngài đã nói:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống (x.Ga 6, 48.51).
Bánh ban Sự Sống còn là Lời Chúa như Đức Giêsu đã nói khi đương đầu với ma qủi cám dỗ:”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Đnl 8,3 ; Mt 4,4). Ngài chính là Ngôi Lời hay lời nói của Thiên Chúa đã nhập thể làm người (Ga 1,14) và chỉ mình Ngài mới có những lời mang lại sự sống đời đời (x.Ga 6,68).
Tóm lại, Mình Máu Chúa là của ăn không những nuôi dưỡng linh hồn mà còn tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến và hy vọng, giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc trường cửu đời sau. Vậy chúng ta hãy qúy mến phép Thánh Thể và siêng năng rước lễ để lãnh nhận những ơn ích và những hiệu quả cao qúy ấy.