“Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi”.
Bài Ðọc I: Ds 11, 25-29
“Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Ước gì toàn dân được nói tiên tri”.
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa ngự xuống trong đám mây, và phán cùng Môsê, đồng thời lấy thần trí trong Môsê mà phân phát cho bảy mươi vị bô lão. Khi Thần Trí ngự trên các ông, các ông liền nói tiên tri, và về sau các ông không mất ơn ấy.
Vậy có hai vị ở lại trong lều trại, một người tên là El-đad, và người kia tên là Mê-đad. Thần Trí đã ngự trên hai ông: vì hai ông được ghi tên vào sổ, nhưng không đến ở trong nhà xếp. Khi hai ông nói tiên tri trong lều trại, thì có đứa trẻ chạy đến báo tin cho ông Môsê rằng: “El-đad và Mê-đad đang nói tiên tri trong lều trại”. Tức thì Giosuê, con ông Nun, tuỳ tùng của ông Môsê, và là kẻ được chọn trong số đông người, liền thưa rằng: “Hỡi ông Môsê, xin hãy cấm chỉ các ông ấy đi”. Ông Môsê đáp lại rằng: “Ngươi phân bì giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 10. 12-13. 14
Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).
Xướng: Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
Xướng: Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy.
Xướng: Dù tôi tớ Chúa quan tâm về những điều luật đó, lại hết sức ân cần tuân giữ, nhưng có nhiều chuyện lầm lỗi, nào ai hay? Xin rửa con sạch những lỗi lầm không nhận thấy.
Xướng: Cũng xin ngăn ngừa tôi tớ Chúa khỏi tính kiêu căng, đừng để tính đó làm chủ trong mình con. Lúc đó con sẽ được tinh toàn và thanh khiết, khỏi điều tội lỗi lớn lao.
Bài Ðọc II: Gc 5, 1-6
“Của cải các ngươi bị mục nát”.
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Của cải các ngươi bị mục nát, áo quần các ngươi đã bị mối mọt gặm. Vàng bạc của các ngươi đã bị ten sét, và ten sét sẽ là bằng chứng tố cáo các ngươi, và sẽ ăn thịt các ngươi như lửa đốt. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Này tiền công thợ gặt ruộng cho các ngươi mà các ngươi đã gian lận, tiền đó đang kêu gào và tiếng kêu gào của người thợ gặt đã lọt thấu đến tai Chúa các đạo binh. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: ” Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia.
Tin Mừng: Mc 9, 37-42. 44. 46-47
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nhưng Chúa Giêsu phán: “Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
“Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
BAO DUNG THAY CHO LOẠI TRỪ
Đức Giê-su bảo: “Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9,40)
Suy niệm: Gio-an đòi loại trừ những người nhân danh Thầy Giê-su để trừ quỉ nhưng lại “không thuộc nhóm chúng ta.” Chúa Giê-su bác bỏ quan điểm đó và dạy các môn đệ có một cái nhìn bao dung: Sứ mạng tại thế của Chúa Giê-su là xây dựng Nước Thiên Chúa. Khác với nước thế gian có ranh giới, có lãnh thổ, Nước Thiên Chúa không bị giới hạn bởi đất đai, màu da, hay chủng tộc, nhưng được loan báo cho mọi người thành tâm thiện chí, những người đứng về phía sự thật (Ga 19,37). Vì thế, chỉ có sự dữ là kẻ thù phải loại trừ, còn mọi người đều được đón nhận vào Nước Thiên Chúa với điều kiện họ đứng về phía sự thật.
Mời Bạn: Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su, sứ mạng của Giáo Hội là làm cho Nước Thiên Chúa được loan báo đến cho mọi người. Trong một thế giới đa nguyên về ý thức hệ, văn hóa và tôn giáo, việc sống tinh thần bao dung của Chúa Ki-tô là rất quan trọng. Thay vì loại trừ người khác chỉ vì họ không thuộc về nhóm của mình, chúng ta được mời gọi để nhận ra trong thế giới đầy dẫy khác biệt này vẫn có đông đảo những người đứng về phía sự thật, những người ủng hộ Chúa Ki-tô bởi vì họ không chống lại Ngài.
Chia sẻ: Chúng ta đang có những thái độ, cách cư xử hẹp hòi, thiếu khoan dung nào khiến cho Tin Mừng không đến được với anh em lương dân?
Sống Lời Chúa: Làm một việc phục vụ với ý cầu nguyện cho công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết đón nhận những dị biệt của anh em và để nhờ đó làm cho hạt giống Tin Mừng được gieo vãi và nảy nở trong mọi tâm hồn.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B này có thể được gọi là “chia sẻ”.
Ds 11: 25-29
“Chia sẻ” những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để các ông trở thành những người cộng tác với ông Mô-sê trong việc hướng dẫn dân Chúa chọn.
Gc 5: 1-6
Thánh Gia-cô-bê khuyên “chia sẻ” những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng Tin Mừng về đức khó nghèo.
Mc 9: 38-43, 45, 47-48
Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết “chia sẻ” những ân ban Thần Khí, thậm chí cả bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.
BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)
Sách Dân Số là sách thứ tư của bộ Ngũ Thư, sách này được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Nhan đề của sách: “Dân Số”, do từ cuộc điều tra dân số mà ông Mô-sê tiến hành trước khi dân rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.
Tiếp đó, sách thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại trong sách này, thường với những biến thể hay với những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn thuật lại việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc hướng dẫn dân chúng: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.
1. Bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26):
Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-đến gặp con rể của mình là ông Mô-sê. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc hướng dẫn dân chúng quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy… Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên khôn ngoan này.
2. Bản văn đặc sủng (Ds 11):
Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về trọng trách quá khó nhọc mà ông phải đảm nhận trong việc hướng dẫn dân cứng cổ cứng đầu này. Việc dẫn dắt dân này, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề, một mình ông khó gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.
3. Việc Tấn Phong
Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức này nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục này lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc vào ông và đường lối của ông.
“Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông, thì các ông bắt đầu phát ngôn”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được biểu hiện bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được Thần Khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục này bắt đầu phát ngôn, nghĩa là “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng này “không tái diễn nữa”. Ân ban Thần Khí được biểu hiện qua việc “xuất thần ngôn sứ” chỉ diễn ra trong một giai đoạn ngắn, như được gặp thấy trong các ngôn sứ thời xưa, và sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau đó. Trong đoạn văn này, chúng ta nên ghi nhận rằng hiện tượng xuất thần ngôn sứ này chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức phù chú hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.
4. Thần Khí hoàn toàn tự do trong ân ban của Ngài
Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? Hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ; mặc dầu không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh theo lời hiệu triệu của ông Mô-sê, hai ông cũng được ân ban Thần Khí.
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, người hầu cận trung thành của ông Mô-sê. Cậu lo lắng rằng hai người được ân ban Thần Khí này đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Thánh, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê chăng? Vì thế, Giô-suê nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn ngăn cản họ!”. Ông Mô-sê phê phán tinh thần bất khoan dung và hẹp hòi của ông Giô-suê khi trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời này, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân cứng cổ cứng đầu này cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu toàn dân được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay lòng đổi dạ biết mấy.
Ước nguyện của ông Mô-sê sẽ được thực hiện vượt quá khung cảnh này, trong truyền thống ngôn sứ sau này và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi Thần Khí ngự xuống đầy tràn trên các Tông Đồ (Cv 2: 16-21) và trong toàn thể Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân huệ của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số này; bài học này được Tin Mừng hôm nay xác nhận.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.
Thánh Gia-cô-bê vừa mới bài xích sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); giờ đây thánh nhân lên án những người giàu có tích trữ của cải bằng cách áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của thánh nhân thật dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”. Những lời này nhắc nhớ những lên án nghiêm khắc của các ngôn sứ. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những án phạt đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.
1. Sự phù du của tài sản
Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải và tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “Tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh này rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).
Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “Vàng bạc của các ông bị rỉ sét”. Thật ra, vàng không bị rỉ sét và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: trước tòa án Thiên Chúa, việc tích trữ của cải cho riêng mình mà không chia sẻ với những anh em khốn khổ của mình là một trọng tội. Vì thế, thánh nhân khuyên: “Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, tức là trong thời kỳ này, thời kỳ khai mạc kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất vào ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa, phần thưởng cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một quan niệm như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến, những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người cách phong phú và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.
2. Người nghèo
Thánh Gia-cô-bê còn phê phán người giàu có nặng lời hơn nữa: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chính hay những thương nhân, nhưng những điền chủ. Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ phải được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình, như huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).
Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là vị phạm sự công bình giao hoán. Hiền nhân Si-rác đã bày tỏ nỗi công phẫn trước những kẻ giàu có bắt tay với những kẻ quyền thế mà tước đoạt những phương tiện sống của những người nghèo: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).
3. Thiên Chúa của những người nghèo
Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” này, những kẻ sống xa hoa vô độ trên xương máu của anh em đồng loại của mình, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn, Đấng bênh vực những người nghèo. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ minh oan cho những người công chính và hủy diệt mọi kẻ gian ác.
Câu kết thúc của đoạn văn này quả thật khó hiểu: “Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi”. Vậy, ai là người công chính đã bị những người giàu có kết án và giết hại mà không hề cưỡng kháng? Có người nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị người giàu áp bức, bóc lột, tước đoạt đất đai như phương tiện sống, đó là tội sát nhân, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Người khác nghĩ rằng người công chính này được hiểu theo nghĩa tổng quát, đối lập với quân gian ác như các sách minh triết thường gợi lên. Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.
TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)
Trong bản văn Tin Mừng này, thánh Mác-cô quy tụ những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, thánh ký không đánh mất mục đích của mình: Đức Giê-su huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.
1. Tinh thần khoan dung của người môn đệ Chúa Ki-tô
Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn này được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không thuộc nhóm chúng ta, không theo phe chúng ta. Thái độ bất khoan dung này của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau này chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của thánh Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như thái độ của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong Bài Đọc I.
Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan khi trả lời với thánh Gioan bằng một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người này nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, thì người ấy đã bước một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho các môn đệ phải trải lòng ra tối đa với bất cứ ai không công khai bày tỏ sự thù địch với các ông: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Những lời dạy này được giải thích tốt nhất chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).
Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón, một thái độ bày tỏ sự thân thiện rồi.
2. Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động
Được liên kết với Bài Đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền về những ân ban của Thần Khí, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.
Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những thường dân, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để nhân danh Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).
Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa. Trái lại, các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ này mà Do thái giáo không đóng khung việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc hội hè, nhưng còn mở ra mối dây liên đới với anh chị em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn: “mến Chúa và yêu người”, của Đức Kitô.
Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn, nhưng tràn ra bên ngoài nữa, như câu chuyện của ông Bi-lơ-am (Ds 22-24). Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi không phải là người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng và nhạy bén trước tình đồng loại, họ xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy rằng những thiện ý của họ phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài, như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).
3. Kính trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình
Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin này. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.
Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn, dể bị thương tổn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp này với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
TRÁNH GƯƠNG XẤU VÀ DỊP TỘI
A. DẪN NHẬP
Chúa Giiêsu vẫn tiếp tục dạy dỗ các Tông đồ. Bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay ăn khớp với nhau. Cũng như ông Maisen khiển trách ông Giôsuê ganh tị không cho hai người khác nói tiên tri chỉ vì họ không đến dự lễ tấn phong. Chúa Giêsu cũng khuyên các Tông đồ đừng ganh tị với những người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ, trái lại phải có tinh thần hợp tác. Sau đó, Chúa Giêsu hứa thưởng công bội hậu cho những ai giúp đỡ các môn đệ của Ngài.
Điều mà chúng ta muốn bàn đến trong bài chia sẻ hôm nay là gương xấu và dịp tội. Chúa Giêsu lên án cách mạnh mẽ và quyết liệt đối với những ai nêu gương xấu cho những kẻ bé mọn, tức là những người còn kém đức tin, yếu đuối, dốt nát, bị khinh bỉ :”Thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn khuyên phải tránh các dịp đưa đến tội. Ngài dùng một kiểu nói cường điệu mà nói lên tính cách nặng nề của dịp tội :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi…”. Thực ra, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen câu nói của Ngài mà phải hiểu theo nghĩa tượng trưng, vì nếu tay, chân, mắt nên dịp tội thì phải chặt đi thì chắc mọi người phải chặt hết, và như vậy Hội thánh Chúa chỉ bao gồm toàn những người què cụt sao ?
Vì thế, chúng ta phải quyết tâm loại trừ mọi gương xấu và dịp tội. Chúng ta phải chống lại các chước cám dỗ, lánh xa các dịp tội và tránh xa những dịp nguy hiểm có thể đưa đến tội , theo nguyên tắc :”Đào vi thượng sách” : lánh đi là tốt nhất. Nguyên tắc này cũng phù hợp với Lời Chúa :”Ai thích sự nguy hiểm sẽ rơi vào sự nguy hiểm”(Gv 3,27), ai yêu thích dịp tội thì sẽ dễ dàng sa ngã vào tội đó.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Ds 11,25-29.
Để chia sẻ gánh nặng trong việc cai trị dân, ông Maisen đã chọn ra 70 vị kỳ mục , làm lễ tấn phong cho các ông, chuyển giao Thần Khí của mình cho các ông để các ông nói tiên tri. Trong số đó có 2 vị không đến dự lễ tấn phong mà vẫn nói tiên tri. Giosuê thấy thế rất khó chịu và bảo ông Maisen cấm hai ông ấy nói. Nhưng ông Maisen chẳng những không ngăn cấm mà còn nói :”Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là tiên tri”.
+ Bài đọc 2 : Gc 5,1-6.
Bài đọc 2 này chỉ là chủ dề phụ. Như các tiên tri xưa, thánh Giacôbê cảnh cáo người giầu có một cách dữ dội. Sở dĩ thánh nhân phê phán nặng lời bởi vì :
– Họ tích trữ tiền của một cách phi pháp như không trả công cho thợ…
– Họ bóc lột người vô tội mà họ không ngại kết án.
– Họ dùng tài sản để thoả mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.
+ Bài Tin Mừng : Mc 9,38-48.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần :
a) Tránh óc bè phái.
Cũng giống như ông Giosuê và ông Maisen trong bài đọc 1, ông Gioan thấy có một số người không thuộc Nhóm 12 mà vẫn nhân danh Chúa mà trừ quỉ và ông xin Đức Giêsu ngăn cấm họ. Nhưng Ngài chẳng những không ngăn cấm mà lại còn cho một bài học :”Ai không chống Ta là ủng hộ Ta”. Ngài nói như thế là có ý dạy cho các môn đệ đừng nhìn người khác bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, mà còn phải hợp tác với những người thiện chí.
b) Tránh gương mù, gương xấu.
“Đừng làm gương xấu cho kẻ bé mọn”. Chúng ta không được hiểu kẻ bé mọn đây là trẻ con, ngây thơ, yếu đuối, nhưng còn phải hiểu nghĩa rộng hơn, đó là những kẻ còn kém đức tin. Nếu những người lãnh đạo mà làm cớ cho họ vấp phạm thì “phải buộc thớt cối xay vào cổ mà ném xuống biển còn hơn”.
Ngoài ra, khi nói tới gương xấu hay dịp tội đến từ bản thân mình làm nên cớ vấp phạm thì Chúa khuyên : hãy chặt nó đi.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Gương xấu và dịp tội
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, thuật lại việc Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ. Trong bài này, Marcô kể lại câu chuyện sau khi khiển trách Gioan về tội ganh tị, Chúa Giêsu hứa ban phần thưởng cho những ai tiếp đón các môn đệ Ngài; đồng thời , Ngài dạy không được làm gương mù gương xấu và còn phải tránh các dịp tội. Trong bài này, chúng ta chỉ bàn đến phần thứ ba là tránh gương xấu và dịp tội mà thôi.
I. TRÁNH GƯƠNG XẤU.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra nhiều điểm rất quan trọng liên quan tới đời sống cộng đoàn. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu nhằm gửi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn, nhưng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.
Trước tiên Ngài khuyên các Tông đồ hãy có tinh thần hợp tác đừng ngăn cản những ai góp phần vào việc làm sáng danh Chúa. Tiếp đó Ngài chúc phúc cho những ai giúp đỡ các ông và hứa phần thưởng bội hậu cho những người ấy.
Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội. Ngài tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Ngài đi lạc lối. Ngài nói :”Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà ném xuống biển thì hơn”(Mc 9,42)
Thiên chức của người tông đồ cao quí như vậy nên Đức Giêsu dạy các Tông đồ không được làm gương xấu cho những kẻ bé mọn. Vậy “những kẻ bé mọn” đây là ai ? Chúa muốn ám chỉ những người hèn kém, khờ dại, dốt nát, không được học hỏi những vấn đề luật pháp : Hạng ngươi này, trong Do thái giáo , có khuynh hướng khinh bỉ họ. Những kẻ bé mọn có lòng tin này là những người thuộc giai cấp bình dân có thiện chí muốn học hỏi Kinh Thánh, luật pháp, thường được các thầy thông luật giải thích Thánh Kinh, luật pháp, nhưng lại bị giải thích sai lạc vì những gương xấu.
Vì thế, việc cảnh giác đề phòng làm gương xấu cho những “kẻ bé mọn” này, Chúa Giêsu muốn nhắm tới các thủ lãnh tôn giáo mà Ngài đã có lần tố cáo họ đã độc quyền chiếm đoạt sự giải thích Thánh Kinh và đóng cửa không cho kẻ muốn vào (Lc 6,39; Mt 15,14) và dụ ngôn về con chiên lạc (Lc 15,3-7; Mt 18,12-14).
Chúa Giêsu đã răn đe rất nghiêm ngặt những ai gây gương mù gương xấu :”Thà buộc cối xay vào cổ người ấy mà ném xuống biển còn hơn”. Lời răn đe rất thẳng thắn và quyết liệt. Thớt cối xay nặng như thế mà kéo dìm một tội nhân dưới nước thì không thể nào ngóc đầu lên được : ý nói đến sự xấu xa, ghê tởm, nặng nề của tội làm gương xấu.
Trong bức thư của Lentulô, tổng trấn Do thái gửi cho hoàng đế Tiberiô, để diễn tả chân dung Chúa Kitô, có câu này :”Khi ông (Chúa Kitô) quở trách sửa phạt, thật cả là một sự ghê sợ; nhưng khi khuyên bảo dạy dỗ ông lại rất hoà nhã đằm thắm, làm cho thiên hạ tin phục say mê”.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy lộ ra hai tính cách đó : nửa trước Chúa khuyên bảo nhân từ dịu dàng; nửa sau Chúa rất nghiêm thẳng đối với hai vấn đề gương xấu và dịp tội.
Truyện : Cha Béc-na Vô-gan
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ôâng ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khói trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo :”Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi :”Quên cái gì đâu” ? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn :”Ôâng để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
II. TRÁNH CÁC DỊP TỘI.
Đối với dịp tội Chúa Giêsu nói tiếp :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi, thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục” (Mc 9, 43).
1. Phải hiểu Lời Chúa như thế nào?
Chúng ta thấy Đức Giêsu nói một cách quyết liệt như thế, ta phải hiểu thế nào ? Thực ra, Ngài dùng lối nói cường điệu của những nhà hùng biện như thế là muốn cho chúng ta thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mọi người.
Nếu chúng ta hiểu lời Chúa theo nghĩa đen thì chúng ta thấy Giáo hội sẽ ra làm sao ? Chắc chắn sẽ xẩy ra trong hai trường hợp :
a) Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng : một Giáo hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị chột…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình.
b) Trường hợp 2 : Giáo hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện điều ấy, mà Giáo hội còn dạy những điều ngược lại. Sách giáo lý Công giáo của Giáo hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách giáo lý cho biết :”… Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe doạ đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con ngườøi và phẩm giá con người. Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, huỷ hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý”(GLCG số 2297).
Thực ra, những lời nói của Chúa Giêsu không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Ngài là in sâu vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xoá được, rằng Nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.
2. Nói về dịp tội.
a) Nguyên nhân.
+ Thiên Chúa cho phép.
Không ai có thể phủ nhận được sự hiện hữu của dịp tội, của cám dỗ. Chính ma quỉ đã cám dỗ để làm hư hoại loài người, dĩ nhiên là Thiên Chúa cho phép cám dỗ để thử thách lòng trung thành của con người. Chúng đã cám dỗ ông Adong và bà Evà, và ông bà đã sa ngã, đã bất trung với Chúa. Ngay Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa nhưng đã chiến thắng một cách vẻ vang. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã dạy :”Hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”(Mt 26,41; Mc 14,38; Lc 22,40).
Nếu nói rằng Chúa cám dỗ chúng ta thì không đúng, không bao giờ Chúa cám dỗ chúng ta mà Ngài chỉ cho phép ma quỉ cám dỗ chúng ta trong mức độ chúng ta có thể chịu đựng được để thử thách chúng ta thôi, vì”lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức”. Như vậy, cám dỗ tự nó không xấu, nó chỉ là một sự thử thách và nó có lợi cho những ai cố gắng chiến thắng nó để vượt qua thử thách vì như người ta nói :”Vô hoạn nạn, bất anh hùng”.
+ Loài người gây ra.
Con người sống trong xã hội có tương quan với nhau, do đó có ảnh hưởng tương tác, hoặc là ảnh hưởng tốt hoặc là ảnh hưởng xấu. Vì vậy mà Chúa Giêsu đã nói :”Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã”(Mt 18,7). Và Chúa còn lên án mạnh mẽ hơn:”Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn”(Mc 9,42; Mt 18,6).
Ngày nay người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Người ta có thể đi từ châu lục này đến châu lục kia trong vòng mấy giờ đồng hồ, cho nên ảnh hưởng giữa con người càng nhanh chóng và càng mạnh. Dù chúng ta có biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp phạm hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua trên con đường đến ơn cứu độ (x. Mt 21,42-44).
Chúng ta có thể trở thành tảng đá vấp ngã hay tảng đá giúp cho người khác vượt qua là tuỳ ở cách sống của chúng ta : nếu chúng ta gây gương mù gương xấu thì chắc chắn đã trở thành tảng đá vấp ngã. Ngược lại, nếu chúng ta nêu gương sáng giúp người khác sống tốt hơn thì chúng ta trở thành tảng đá giúp người ta vượt qua :
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa,
Công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta (Tv 118,22-23).
Dựa vào câu Thánh vịnh trên, Chúa Giêsu nói :”Bởi đó, Tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân làm cho nước ấy sinh hoa lợi. Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 22,43-44).
b) Phải chống trả chước cám dỗ.
Cám dỗ hiện diện khắp nơi mà không ai có thể thoát được. Chính Chúa Giêsu cũng bị ma quỉ cám dỗ. Chúa đã nhắc bảo các Tông đồ :”Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Như vậy công việc của chúng ta là chỉ việc chống lại chước cám dỗ. Cuộc chiến chống ba thù là một cuộc trường kỳ kháng chiến, không bao giờ kết thúc. Và trong cuộc chiến này phải phân thắng bại, không được thoả hiệp : một là thắng, hai là bại. Adong Evà đã để lại gương thất bại, còn Đức Giêsu đã nêu gương chiến thắng rực rỡ.
Dĩ nhiên trong cuộc chiến một mất nột còn này đòi phải gian khổ, hy sinh, từ bỏ có khi ngay cả đến bản thân mình, không có từ bỏ không chiến thắng được.
Truyện : Đánh bẫy khỉ.
Người ta đồn thổi rằng : Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên người ta tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.
Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam mà lôi ra.
Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn thay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông quả cam ra để bàn tay được tự do. Đã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt quả cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương (Thiên Phúc).
Thế giới chung quanh ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội khiến chúng ta lỗi luật Chúa. Chúa Giêsu nói hơi mạnh :”Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi” (Mc 9,43). Chúng ta phải hiểu rằng kiểu nói :”chặt tay, chặt chân, móc mắt” chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình.
Nói tới cắt tỉa, chặt bỏ, từ bỏ là những động từ gợi lên cho chúng ta sự đau đớn, nhưng như người ta nói :”Thuốc đắng đã tật”(Tục ngữ), đau đớn lại là một điều cần thiết cho sự lành mạnh, nó là một điều kiện” bất khả thiếu”. Chính vì vậy, Ludovic Giraud đã viết :”Nỗi đau đớn với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất mầu mỡ, cũng như việc cắt tỉa cây cối : làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khoẻ và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao”.
Xét ra Lời của Chúa cũng không xa thực tế lắm. Có người chỉ vì lòng tham lam của cải chứ không phải vì Nước Trời mà đã dám hy sinh một phần thân thể. Họ dám hy sinh cái nhỏ để chiếm được cái lớn. Đó là ông O Neil, nhà thám hiểm đã tìm ra đất Aùi nhĩ lan. Khi nhóm thám hiểm đến gần phần đất mới, vị thuyền trưởng tuyên bố :”Hễ ai chạm tay trước hết vào phần đất trên bờ thì người ấy làm chủ phần đất ấy”. Ôâng O’Neil quyết tâm chiếm cho bằng được. Ôâng chèo chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Nhận thấy có kẻ khác vượt lên trên mình, ông quyết định lấy rìu chặt đứt cánh tay trái và liệng vào bờ, chạm đất trước hết, thắng cuộc.
Nhà thám hiểm cụt một tay để được một nước thế gian, thì trong việc chiếm lấy Nước Trời, Chúa dạy chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì thân thiết và quí mến.
c)Tránh dịp nguy hiểm.
Người ta thường nói :”Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ởû trong một môi trường tốt thì người ta dễ nên tốt, người ở trong một môi trường xấu thì dễ trở nên xấu, đó là định luật tâm lý vì người ta hay bắt chước một cách vô ý thức.
Kinh Thánh nói :”Ai thích sự nguy hiểm thì sẽ rơi vào sự nguy hiểm” (Gv 3,27) : chơi với lửa có ngày sẽ bỏng, chơi với dao có ngày đứt tay, chơi với bùn có ngày lấm áo… Đó là kinh nghiệm ngàn đời của dân gian. Nên người ta khuyên :
Chim khôn tránh lưới tránh dò,
Người khôn tránh chốn xô đồ mới khôn.
(ca dao)
Người xưa cũng khuyên :”Cá, giải chán vực sâu mà ra chỗ nông, cho nên mắc phải chài lưới. Chim, muông chán rừng rậm mà xuống đồng bằng, cho nên bị phải cạm bẫy” (Hàn Thi ngoại truyện).
Chống lại chước cám dỗ là tốt, việc phải làm, nhưng cũng không nên gây ra dịp thuận tiện để cho cám dỗ ập tới. Tại sao không cố mà tránh cơ hội gây ra cám dỗ để khỏi bị mắc bẫy ?
Chim ham mồi sa lưới,
Cá ham thính mắc câu.
Con người phải nghĩ cho sâu,
Đừng ham danh lợi, sắc hầu sa cơ.
Tài danh là cạm giữa trời,
Hồng nhan là bả những người tài hoa.
(ca dao)
Người xưa cũng còn dạy :”Cẩn tắc vô ưu” : cẩn thận thì khỏi phải lo. Không ai dám nói được mình khôn ngoan, không bị sa vào cạm bẫy. Chúa Giêsu đã từng khuyên :”Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mt 26,41 ; Mc 14,38). Cẩn thận đề phòng là phương pháp tốt nhất để khỏi bị rơi vào cạm bẫy của ma quỉ đang giăng ra khắp nơi, như lời thánh Phêrô khuyên :”Anh em hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1Pr 5,8-9a).
Truyện : Thuê tài xế lái xe.
Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.
Người giầu nói :”Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
Người tài xế thứ nhất tự nhủ :”Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người thứ hai thầm bảo :”Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng :”Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.
(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)
Hôm nay Chúa nói với chúng ta : nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời rút ra từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường sử dụng trong kinh Nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa nhật trong năm phụng vu :
“Nghe danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống.
Mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ngài là vua vinh quang… Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Ngài, để ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tể chúng ta”(M. Link).