Chương 1. Điều tra sơ khởi (Điều 1717 – 1719)
Điều 1717
§1. Mỗi khi Đấng Bản Quyền biết một tội phạm đã xảy ra, ít nhất sự nhận biết này dường như là đúng, ngài phải đích thân hoặc nhờ người nào khác có khả năng cẩn thận điều tra về những sự kiện, những hoàn cảnh và việc quy trách nhiệm, trừ khi việc điều tra đó được xem là hoàn toàn thừa thãi.
§2. Phải liệu sao đừng để việc điều tra này làm hại thanh danh của bất cứ người nào.
§3. Điều tra viên có những quyền lợi và những nghĩa vụ như một dự thẩm trong vụ tố tụng; nếu sau đó việc tố tụng tư pháp được xúc tiến, thì điều tra viên sẽ không được làm thẩm phán.
Điều 1718
§1. Khi các yếu tố thu thập được xem ra đã đủ, Đấng Bản Quyền phải quyết định:
1° việc tố tụng có thể được tiến hành để tuyên kết hoặc để tuyên bố một hình phạt hay không;
2° có nên chiếu theo điều 1341 để tiến hành việc tố tụng hay không;
3° có cần nại đến một cuộc tố tụng tư pháp hay không, hoặc nếu luật không cấm, có cần phải tiến hành bằng sắc lệnh ngoài tòa hay không.
§2. Đấng Bản Quyền phải thu hồi hay phải sửa đổi sắc lệnh được nói đến ở §1, mỗi khi các yếu tố mới thúc đấy ngài phải quyết định cách khác.
§3. Khi ban hành những sắc lệnh được nói đến ở §§1 và 2, Đấng Bản Quyền phải tham khảo hai thẩm phán hay những chuyên viên luật, tùy sự xét đoán khôn ngoan của mình.
§4. Trước khi quyết định chiếu theo quy tắc của §1, Đấng Bản Quyền phải xét xem có nên tự mình hoặc nhờ điều tra viên, với sự thỏa thuận của các bên, giải quyết vấn đề thiệt hại cách hợp tình hợp lý hay không, để tránh được những việc xét xử vô ích.
Điều 1719
Những án từ điều tra và những sắc lệnh của Đấng Bản Quyền để khởi sự hoặc kết thúc cuộc điều tra, cũng như tất cả những tài liệu có trước cuộc điều tra, phải được lưu trữ trong văn khố mật của tòa giám mục, nếu không cần thiết cho việc tố tụng hình sự.
Chương 2. Diễn tiến tố tụng (Điều 1720 – 1728)
Điều 1720
Nếu Đấng Bản Quyền nhận thấy phải tiến hành bằng một sắc lệnh ngoài tòa:
1° ngài phải thông báo cho bị cáo biết cáo trạng với những chứng cớ, và cho họ quyền tự biện hộ, trừ khi bị cáo được triệu tập cách hợp pháp nhưng đã lơ là không ra trình diện;
2° ngài phải cẩn thận cân nhắc mọi chứng cớ và mọi luận cứ với hai hội thẩm;
3° ngài phải ra một sắc lệnh, chiếu theo quy tắc của các điều 1342-1350, để trình bày ít là cách vắn tắt những lý do về pháp lý và về sự kiện, nếu nhận thấy rõ là tội phạm đã xảy ra và nếu tố quyền hình sự chưa bị tiêu hủy.
Điều 1721
§1. Nếu Đấng Bản Quyền quyết định tiến hành một vụ tố tụng hình sự trong tòa, ngài phải chuyển những án từ điều tra tới công tố viên, để vị này nộp đơn khởi tố lên thẩm phán, chiếu theo quy tắc của những điều 1502 và 1504.
§2. Ở tòa thượng cấp, công tố viên nào đã được thiết lập cho tòa đó, thì phải giữ vai trò nguyên cáo.
Điều 1722
Để phòng ngừa gương xấu, để bảo vệ tự do của các nhân chứng và để bảo đảm sự lưu hành của công lý, thì sau khi hội ý với công tố viên và chính bị cáo, Đấng Bản Quyền có thể trong bất cứ giai đoạn nào của vụ án, cấm bị cáo thi hành thừa tác vụ thánh, hay một chức vụ và nhiệm vụ nào trong Giáo Hội, buộc hoặc cấm bị cáo không được cư ngụ ở một nơi hoặc một địa hạt nào, và cũng có thể cấm người đó không được công khai tham dự Thánh Thể, tất cả các biện pháp này phải được thu hồi khi không còn lý do và đương nhiên chấm dứt khi việc tố tụng hình sự kết thúc.
Điều 1723
§1. Khi triệu tập bị cáo ra tòa, thẩm phán phải mời bị cáo tự chọn cho mình một luật sư chiếu theo quy tắc của điều 1481 §1, trong thời hạn do chính thẩm phán ấn định.
§2. Nếu bị cáo không chọn luật sư, thì chính thẩm phán sẽ bổ nhiệm một luật sư trước khi đối tụng, luật sư này phải giữ nhiệm vụ bao lâu bị cáo không chọn luật sư cho mình.
Điều 1724
§1. Ở bất cứ cấp bậc nào của vụ án, công tố viên có thể bãi nại do mệnh lệnh hoặc với sự đồng ý của Đấng Bản Quyền đã quyết định bắt đầu vụ án.
§2. Để có hiệu lực, việc bãi nại này phải được bị cáo chấp nhận, trừ khi tòa tuyên bố là chính bị cáo đã vắng mặt.
Điều 1725
Trong khi tranh luận vụ án, hoặc trên giấy tờ hoặc bằng khẩu biện, chính bị cáo, hoặc luật sư của bị cáo, hoặc người đại diện của bị cáo, luôn luôn có quyền viết hay nói sau cùng.
Điều 1726
Ở bất cứ cấp bậc và giai đoạn nào của vụ tố tụng hình sự, nếu thấy rõ bị cáo đã không thực hiện tội phạm, thẩm phán phải tuyên bố điều đó bằng một bản án và tha bổng bị cáo, ngay cả khi tố quyền hình sự đã bị tiêu hủy cùng một lúc.
Điều 1727
§1. Bị cáo có thể kháng cáo, ngay cả khi bản án chỉ tha cho bị cáo, vì hình phạt có tính tùy ý hay vì thẩm phán đã dùng quyền được nói đến ở các điều 1344 và 1345.
§2. Công tố viên có thể kháng cáo mỗi khi xét thấy việc sửa lại gương xấu hay việc lập lại công lý đã không được quy định đầy đủ.
Điều 1728
§1. Miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của các điều trong chương này, trừ khi bản chất của sự việc không cho làm như thế, những điều liên quan đến việc xử án nói chung và việc xử án hộ sự thông thường phải được áp dụng trong tố tụng hình sự, mà vẫn giữ những quy tắc riêng biệt của những vụ án liên quan đến công ích.
§2. Bị cáo không bị buộc phải thú nhận tội phạm và cũng không bị buộc phải tuyên thệ.
Chương 3. Tố quyền đòi bồi thường thiệt hại (Điều 1729 – 1731)
Điều 1729
§1. Đương sự nào bị thiệt hại có thể sử dụng tố quyền hộ sự để đòi bồi thường những thiệt hại mà mình phải chịu do tội phạm gây ra trong chính việc xét xử hình sự, chiếu theo quy tắc của điều 1596.
§2. Việc can thiệp của đương sự bị thiệt hại, được nói đến ở § 1, không được chấp nhận nữa, nếu đã không được thực hiện tại tòa án hình sự cấp một.
§3. Việc kháng cáo trong một vụ án về việc bồi thường thiệt hại, chiếu theo quy tắc của các điều 1628-1640 phải được thực hiện, ngay cả khi việc kháng án này không thể được thực hiện ở tòa án hình sự; nhưng nếu các bên khác nhau đệ trình cả hai việc kháng án, thì cũng chỉ thực hiện một cuộc xét xử kháng cáo mà thôi, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1730.
Điều 1730
§1. Để tránh việc trì hoãn quá lâu trong vụ án hình sự, thẩm phán có thể hoãn vụ án liên quan đến những thiệt hại, cho đến khi tuyên bố bản án chung quyết của vụ án hình sự.
§2. Thẩm phán nào đã làm như trên, thì sau khi đã ra bản án của vụ án hình sự, phải xét xử những sự thiệt hại, ngay cả khi vụ án hình sự chưa dứt điểm vì đã có kháng cáo, hoặc ngay cả khi bị cáo được tha bổng vì một lý do là phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại.
Điều 1731
Bản án đã được ban hành trong vụ án hình sự, ngay cả khi đã trở thành vấn đề quyết tụng, không tạo ra một quyền lợi nào cho đương sự bị thiệt hại, trừ khi đương sự này đã can thiệp, chiếu theo quy tắc của điều 1729.