Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.
(Lc 10,2)
Bài Ðọc I: (Năm I) Nkm 8, 1-4a. 5-6. 7b-12
“Thầy Esdra mở sách luật ra, chúc phúc cho dân và toàn dân đáp lại: Amen! Amen!”
Trích sách Nơkhemia.
Trong những ngày ấy, toàn dân mọi người như một, tụ họp lại ở phố trước cửa Nước, họ xin thầy Esdra mang ra sách Luật của Môsê mà Chúa đã truyền cho dân Israel. Vậy thầy tư tế Esdra mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật.
Thầy thư ký Esdra đứng trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdra chúc tụng Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, Amen. Họ cúi mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Các thầy Lêvi khiến dân chúng thinh lặng để nghe đọc Lề Luật: Dân chúng mỗi người đứng nơi mình. Một số người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu được điều đã đọc.
Nơkhemia là tổng trấn, Esdra là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng: “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta: anh chị em đừng mang tang chế, đừng than khóc”. Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi nghe đọc các lời trong luật.
Họ nói với dân chúng rằng: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gởi phần cho kẻ không có dọn sẵn cho mình, vì ngày này là ngày thánh dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của Chúa là đồn lũy của chúng ta”.
Các Thầy Lêvi khiến toàn dân thinh lặng mà rằng: “Anh chị em hãy thinh lặng, vì hôm nay là ngày thánh, nên chớ lo buồn”. Vì thế toàn dân đi trở ra ăn uống, gởi phần cho những người không có, và đầy hân hoan vui mừng, vì người ta hiểu rõ những lời mình nghe giảng dạy.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11
Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can
Xướng: Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.
Xướng: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.
Xướng: Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.
Xướng: Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật, và hơn cả mật chảy tự tàng ong.
Bài Ðọc I: (Năm II) G 19, 21-27
“Tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi hằng sống”.
Trích sách ông Gióp.
Ông Gióp nói: “Hỡi các bạn hữu của tôi, ít ra các anh cũng thương xót tôi, thương xót tôi, vì tay Chúa chạm đến tôi. Tại sao các anh như Thiên Chúa bắt bớ hành hạ tôi vậy, và tại sao các anh no chán thịt tôi? Có ai ghi chép giùm lời tôi, có ai viết nó vào sách, dùng bút sắt ghi trên lá chì, hay dùng đục chạm vào đá?
“Vì tôi biết rằng Ðấng Cứu Chuộc tôi hằng sống và ngày sau hết tôi sẽ từ bụi đất sống lại, da sẽ bọc lại thân tôi, và trong xác thịt, tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tôi. Chính tôi sẽ nhìn thấy Người và mắt tôi sẽ trông thấy, chớ không phải ai khác: niềm hy vọng ấy đã chất chứa trong lòng tôi”.
Ðáp Ca: Tv 26, 7-8a. 8b-9abc. 13-14
Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Chúa”.
Xướng: Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ, Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con.
Xướng: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! – Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. – Alleluia.
TIN MỪNG: Lc 10, 1-12
1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông:
3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.
5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này! “ 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.
7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông.”
10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.”
12 Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơđôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó.”
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
LOAN BÁO TIN MỪNG, QUYỀN ƯU TIÊN SỐ MỘT
“Anh em hãy ra đi…. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” (Lc 10,1-12)
Suy niệm: Thỉnh thoảng chúng ta vẫn thấy những chiếc xe cứu thương hay xe chữa cháy bóp còi inh ỏi, đèn đỏ chớp nháy liên hồi, lao vun vút trên đường phố trong khi tất cả cả các phương tiện giao thông khác phải nhường đường tránh lối. Chúng ta biết rằng những xe đó có quyền ưu tiên vì đang thực hiện sứ mạng khẩn cấp liên quan đến sinh mạng con người. Chúa Giê-su dùng những ngôn từ rất mạnh để nhấn mạnh đến tính khẩn cấp của sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đó là công việc phải làm ngay, bất chấp cả hiểm nguy, làm trước các việc khác, dù phải hy sinh cả những mối quan hệ thân thiết nhất, phải làm cho bằng được, dù thiếu phương tiện hoạt động, và thiếu cả những nhu cầu cơ bản nhất để sống còn.
Mời Bạn: Bạn có thấy việc loan báo Tin Mừng ngày nay còn khẩn thiết hơn không? Bạn làm gì để dành quyền ưu tiên số một cho việc loan báo Tin Mừng? Bạn đang sống, đang làm việc giữa anh em lương dân, đó có phải là cơ hội để bạn biến các việc đời thường của mình thành lời rao giảng Tin Mừng không?
Sống Lời Chúa: Trước khi làm bất cứ việc gì, bạn tự nhắc nhở mình làm thật tốt việc đó với tinh thần truyền giáo loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chung quanh chúng con, còn nhiều người chưa nhận biết Chúa. Không thiếu sách vở, tranh ảnh về Chúa, nhưng chứng tá đời sống của các cá nhân và cộng đòan chúng con mới là những lời nói thuyết phục nhất. Xin Chúa gởi tới cánh đồng truyền giáo những sứ giả biết ghi dấu ấn Tin Mừng trong tất cả đời sống.
SỨ GIẢ BÌNH AN
“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5)
Suy niệm: Lời nói cửa miệng của người Do Thái khi gặp nhau là: “Shalom” nghĩa là “bình an”. Đó là lời cầu chúc tốt đẹp nói lên ước muốn trao cho nhau món quà quý giá nhất là sự bình an. Khi sai các môn đệ đi trước “đến các nơi mà Chúa sẽ đến”, Đức Giê-su muốn rằng điều đầu tiên các môn đệ đem đến cho người ta là lời cầu chúc: “Bình an cho anh em”. Bình an là sứ điệp khởi đầu của Tin Mừng trong ngày Chúa giáng sinh (x. Lc 2,14). Đó là bình an sâu thẳm, không phải thứ bình an theo kiểu thế gian (x. Ga 14,27); bình an Chúa ban vẫn ở lại với các môn đệ dù người đời không đón nhận nó; bình an của Chúa sẵn lòng chấp nhận bị gươm giáo, vác thập giá (x. Mt 10,34; 26,55); bình an đó sẽ là món quà đầu tiên và trọn vẹn của Chúa Ki-tô trong ngày Ngài từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,19-21).
Mời Bạn: Mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta vẫn được nghe lặp lại lời chúc này: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, và chúng ta cũng được mời gọi: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Bạn là người môn đệ thừa sai của Chúa hôm nay, bạn được mời gọi là sứ giả bình an của Chúa cho mọi người bạn gặp gỡ trong cuộc đời. Khi bạn sống thân thiết với Chúa và lòng bạn tràn ngập bình an của Ngài, thì ở đâu có sự hiện diện của bạn, ở đó cũng sẽ tràn ngập bình an của Chúa.
Sống Lời Chúa: Trong bất cứ cuộc gặp gỡ giao tiếp nào, tôi quyết loại trừ những thái độ hay lời nói khó nghe, có tính bạo lực, thay vào đó là sự ôn hoà, vui tươi, bầu khí yêu thương, hiệp nhất.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
“Chúa Giêsu sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến”.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt. Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến, nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân. Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần phải vào. Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta. Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm. Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai đến trước để dọn đường, thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào lãnh địa của chúng ta, vào trường học, vào xí nghiệp, vào công ty, vào khu xóm của chúng ta… Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó. Hãy mang lấy khuôn mặt của những người được sai hôm xưa? Hiền lành như chiên giữa bầy sói. Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị. Con người ngày nay dễ đón nhận người tông đồ sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ. Việc làm chứng thực cho lời giảng, và lời giảng soi sáng cho việc làm.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật, một thế giới thèm khát tự do, thèm chân lý. Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay. Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần, với những thứ bệnh mới của thời đại. Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng. Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố. Một thế giới đang cần Chúa đến để chữa lành.
Xin Chúa dạy chúng ta, các Linh mục, các Tu sĩ, các tông đồ giáo dân, biết tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Nhưng có khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Hãy là chứng nhân để dọn đường cho Chúa đến.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo
(Lc 10,1-12)
1.Đức Giêsu đi rao giảng Tin mừng Nước trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng, vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước trời.
2.Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
3.Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
4.Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyện và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
5.Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư:
“Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.
6.Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo. Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ.
Truyện: Chúa cần bàn tay bạn
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng pháo. Trong làng có một ngôi nhà thờ Công giáo, bên ngoài nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh qua, rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra từng mảnh trên mặt đất.
Một hôm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối. Ngài nói:
– Tôi có một ý tưởng hay hơn: Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi vào chân đế lời này: BẠN ƠI, BẠN HÃY CHO TÔI MƯỢN ĐÔI BÀN TAY CỦA BẠN” (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật B, tr. 494).