“Giữa triều thần Thiên Chúa,
ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15,10)
Bài Ðọc I: ( Năm I) Rm 14, 7-12
“Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa.
Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Ðức Kitô, bởi có lời chép: “Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa”.
Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14
Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
Xướng: Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.
Xướng: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 3, 3-8
“Những điều xưa kia được kể là lợi ích cho tôi, thì nay tôi coi là bất lợi vì Ðức Kitô”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, chính chúng ta là những người chịu cắt bì, chúng ta phụng thờ Thiên Chúa theo thần trí, và khoe mình trong Ðức Giêsu Kitô, chứ không tin tưởng vào xác thịt, mặc dầu chính tôi cũng có thể ỷ lại vào xác thịt. Nếu có ai khác nghĩ mình có lý để ỷ lại vào xác thịt, thì tôi còn có lý hơn: tôi đã chịu cắt bì từ ngày thứ tám, là người chủng tộc Israel, thuộc chi họ Bengiamin, là người Do-thái sinh bởi người Do-thái, là người biệt phái chiếu theo lề luật. Bởi lòng đạo đức nhiệt thành, tôi đã bách hại Hội Thánh Thiên Chúa, chiếu theo đức công chính do lề luật công bố, tôi được coi là người không có gì đáng trách.
Nhưng những điều xưa kia được kể là ích lợi cho tôi, thì nay vì Ðức Kitô tôi coi là bất lợi. Vả lại tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Ðức Kitô.
Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).
Xướng: Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.
Xướng: Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.
Xướng: Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! – Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.
TIN MỪNG: Lc 15, 1-10
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:
4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.
7Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. 8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.
10Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
HIỆN DIỆN ĐỂ YÊU THƯƠNG
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2,16)
Suy niệm: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã muốn ở giữa con cái loài người; nhưng cũng có những “nơi” Người chọn cách riêng để làm “nơi Người ngự, vì Người ưa thích” (x. Tv 132,13-14). Thời Cựu Ước, khi dân Do thái dong ruổi trong sa mạc, “nơi” Thiên Chúa hiện diện đó là cột mây, cột lửa, là Lều Hội Ngộ, là hòm bia Giao Ước. Khi đã định cư tại Đất Hứa, Đền thờ Giê-ru-sa-lem trở thành dấu chỉ của “nơi Thiên Chúa ngự trị.” Đền thờ trở thành linh thánh vì được dành riêng cho Thiên Chúa, là nơi Dân Chúa quy tụ để thờ phượng Người. Vì thế “tất cả những thứ này,” những thứ gian tham, bất công, bon chen, ích kỷ, những thứ bất xứng với Thiên Chúa là Đấng Thánh, phải đem ra khỏi đó vì là nơi linh thánh dành riêng để thờ phượng Người.
Mời Bạn: Ngày nay, dù là các vương cung thánh đường nguy nga hay các nhà nguyện đơn nghèo, xa xăm hẻo lánh, đó cũng là những “nơi Chúa ngự” bởi vì nơi đó Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Và tâm hồn bạn chính là cõi riêng tư thân mật nhất mà Chúa muốn chọn làm nơi Người hiện diện để yêu thương bạn. Trong lòng bạn còn “những thứ gì” chưa khu trừ để trả lại tâm hồn bạn thành nơi Chúa ngự trị? Phải chăng là những thú vui bất chính, ham mê tiền bạc, chức quyền, hận thù…?
Sống Lời Chúa: Dành vài phút bình tâm trước Thánh Thể để cảm nghiệm sự hiện diện yêu thương của Chúa đối với loài người, đối với chính bạn!
Cầu nguyện: Chúa ơi, con ước ao được sống với sự hiện diện yêu thương của Chúa lắm. Amen.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
“Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Giới luật sỹ và biệt phái luôn tự coi mình là người hoàn hảo và coi những người khác là tội lỗi. Do đó họ sống tách ra thành một phái riêng biệt, không giao tiếp xúc với người tầm thường, vì sợ lây nhiễm tội lỗi. Sống tách biệt như vậy nên họ gọi là Biệt phái.
Và vì quan niệm như vậy nên họ không thể chấp nhận được việc Chúa Giêsu cũng là bậc thầy như họ mà lại đi ngồi ăn uống chung với quân tội lỗi.
Trước những lời lẩm bẩm, càm ràm của nhóm biệt phái, Chúa Giêsu đã kể hai dụ ngôn con chiên lạc và đồng bạc bị mất để biện minh cho thái độ của Ngài. Đúng hơn là hai dụ ngôn này chẳng những muốn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với kẻ có tội, mà còn cho thấy lập trường của Ngài là phải yêu thương kẻ có tội, phải bằng mọi giá cứu sống họ. Đó là lẽ sống, là nguồn vui của Ngài.
Nếu trong cuộc sống hàng ngày, người chăn chiên không thể ngồi yên khi thấy mất một con chiên, và người đàn bà không thể dửng dưng khi thấy thiếu một đồng bạc, thì Thiên Chúa lại càng không thể ở yên khi có một người con sa vào tội lỗi và có nguy cơ hư mất đời đời.
Hai dụ ngôn này thực sự là một tin mừng cho chúng ta, chúng ta đều là người tội lỗi, là con chiên lạc, đã được Chúa tìm về. Trước tình yêu thương đó, chúng ta hãy quyết tâm sống chết cho Ngài hơn nữa. Và tích cực cộng tác với Ngài trong việc tìm nhiều anh em khác đem về với đàn chiên duy nhất của Chúa.
Hội Thánh không bao giờ là một tập thể những người công chính. Và bao lâu chưa tìm được con chiên lạc cuối cùng, Hội Thánh, trong đó có cả mỗi người chúng ta nữa, không thể ngồi yên.
Người phụ nữ trong dụ ngôn thắp đèn, quét nhà, moi móc … để tìm cho kỳ được đồng tiền lạc mất. Đó cũng phãi là hình ảnh của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy đem lại niềm vui cho cả thiên đàng bằng cách nối tiếp sứ mạng kiếm tìm, cứu vớt của Chúa Giêsu.
C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ THỨ THA CỦA CHÚA
1.Thấy Đức Giêsu hay gần gũi những người tội lỗi lại còn đồng bàn với họ, nhóm biệt phái và luật sĩ trách cứ Chúa. Do đó, Đức Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ. Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài xót xa khi một người rơi vào tình trạng tội lỗi, do đó, Ngài thiết tha cứu người tội lỗi. Hai dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất nói lên tấm lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng đón nhận chúng ta và Ngài vô cùng sung sướng khi chúng ta biết mở lòng đón nhận sự tha thứ và tình thương của Ngài.
2.Hình ảnh con chiên bị lạc vì nó lạc bước không có chủ ý, mà do đam mê cỏ ngọn suối ngọt mà nó bị lạc, nên nó vẫn muốn tìm về, nhưng nó không tìm được đường về, hoặc bị sa xuống hố, hay đang bị cầm giữ, nên chủ nó mới đi tìm về, cho nó được nhập lại đàn và băng bó chữa trị cho nó. Cũng thế, không ít người trong chúng ta cũng lạc lối bơ vơ trong những đam mê, sa lầy trong tội lỗi, bị mọi thứ thế gian che khuất không tìm thấy lối về nẻo chính đường ngay. Chúa vẫn đã, đang và sẽ mãi đi tìm chúng ta để chữa lành và đưa về với Hội thánh. Đó là điều làm chúng ta an tâm và ngoan ngoãn cho Chúa đưa về.
3.Thật cảm động trước thái độ ân cần của người chủ chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó lên vai mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân (Lm. Carôlô).
4.Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
5.Cách nói phóng đại trong dụ ngôn “con chiên lạc” và “đồng bạc bị mất” diễn tả niềm vui của Thiên Chúa lớn lao dường nào khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải. Quả thật, Thiên Chúa đã phải buồn lòng bao nhiêu khi con cái mình lạc đường, thì Ngài sẽ vui mừng hơn gấp bội khi thấy dù chỉ là một người con trở về chính lộ. Lòng thương xót của Thiên Chúa dạt dào đến mức khiến Ngài cũng trở nên “yếu đuối, mềm lòng” luôn sẵn sàng tha thứ một khi tội nhân tỏ lòng sám hối ăn năn. Thiên Chúa muốn cho người tội lỗi hối cải đến mức như Ngài không còn e ngại gì nữa, mà còn chấp nhận để cho lòng tốt và tình yêu của mình bị lợi dụng (5 phút Lời Chúa).
6.Đức Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Đức Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: “Hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc”. Như thế, đối với Đức Giêsu, Đấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi mà xếp loại vào những người bị kết án suốt đời (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Thiền sư Sengai
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thoả thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền rời cái ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám phá ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con phải cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.