“Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”.
Bài Ðọc I: Gr 31, 7-9
“Ta sẽ lấy lòng từ bi dẫn dắt kẻ đui mù và què quặt”.
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! Hãy hò hét vào đầu các Dân ngoại, hãy cất tiếng vang lên, ca hát rằng: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”.
Ðây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây.
Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về. Ta sẽ đưa chúng đi trên con đường thẳng, băng qua các suối nước; chúng không phải vấp ngã trên đường đi: vì Ta đã trở nên thân phụ dân Israel, và Ephraim là trưởng tử của Ta.
Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6
Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).
Xướng: Khi Chúa đem những người từ Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Xướng: Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: “Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.” Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Xướng: Lạy Chúa, hãy đổi số phận của con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Xướng: Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Bài Ðọc II: Dt 5, 1-6
“Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Tất cả các vị thượng tế được chọn giữa loài người, nên được đặt lên thay cho loài người mà lo việc Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy lễ đền tội. Người có thể thông cảm với những kẻ mê muội và lầm lạc, vì chính người cũng mắc phải yếu đuối tư bề. Vì thế, cũng như người phải dâng lễ đền tội thay cho dân thế nào, thì người dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai được chiếm vinh dự đó, nhưng phải là người được Thiên Chúa kêu gọi như Aaron.
Cũng thế, Ðức Kitô không tự dành lấy quyền làm thượng tế, nhưng là Ðấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê”.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.
Tin Mừng: Mc 10, 46-52
Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nadarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.
Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Ðược, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
PHỤC HỒI PHẨM GIÁ CAO QUÝ
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” Đức Giê-su đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây.” (Mc 10,48-49)
Suy niệm: Đối với nhiều người, anh mù Ba-ti-mê chẳng có một chút giá trị nào, thậm chí còn là chướng ngại phải dẹp bỏ đi. Có thể họ nghĩ mình đang bảo vệ Đức Giê-su khi “quát nạt bảo anh ta im đi”. Nhưng Chúa Giê-su không loại trừ ai. Ngài đón nhận tất cả mọi người đến với Ngài, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi,… những người bị loại trừ. Ngài cho người gọi anh mù đến với Chúa. Lời kêu gọi của Chúa khiến anh được phục hồi phẩm giá. Người chung quanh liền đổi giọng, nói với anh một cách ân cần tôn trọng: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy.” Không phải Đức Giê-su thương hại anh ta. Đúng hơn Ngài thương xót vì phẩm giá của anh bị chà đạp. Ngài tôn trọng phẩm giá là con người của anh. Đó là lối sống của Đức Giê-su và cũng phải là lối sống của mọi Ki-tô hữu trong một giáo hội Công giáo mở đón tất cả mọi người.
Mời Bạn: Trong một thế giới thực dụng, những người không đem lại giá trị kinh tế thường là người yếu thế, dễ bị tổn thương, và bị loại trừ. Người môn đệ Chúa Ki-tô sống theo chuẩn mực của Ngài luôn tôn trọng mọi người, bảo vệ và phục hồi phẩm giá của những người bé mọn, yếu đuối nhất và bị bỏ rơi nhất.
Sống Lời Chúa: Thể hiện sự tôn trọng phẩm giá con người qua lời nói thể hiện sự hoà nhã, tôn trọng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa không loại trừ ai, nhưng đến với mọi người và mời gọi mọi người đến với Chúa. Xin cho chúng con là Ki-tô hữu cũng luôn mở rộng đến với tha nhân để cùng họ đến với Chúa. Amen.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX này có chung một chủ đề: tấm lòng của Thiên Chúa đối với nỗi khốn cùng của nhân loại.
Gr 31: 7-9
Bài Đọc I được trích từ sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vị ngôn sứ ca ngợi tấm lòng ưu ái của Đức Chúa. Ngài đã bày tỏ tấm lòng phụ tử đối với những người lưu đày khi đích thân dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
Dt 5: 1-6
Thư gởi tín hữu Do thái so sánh Đức Giê-su với vị thượng tế Cựu Ước. Đức Giê-su là vị Thượng Tế Tân Ước thập toàn biết cảm thông những yếu đuối của con người.
Mc 10: 46-52
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã lắng nghe lời khẩn cầu đầy lòng tin của anh mù thành Giê-ri-cô và đã đáp trả ước nguyện của anh.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 7-9)
Bản văn nầy được trích từ chương 31 sách Giê-rê-mi-a. Chương 31 nầy liên kết với chương 30 trước đó để hình thành nên một đơn vị. Đây là một trong những bản văn cảm động nhất mà vị ngôn sứ viết để ca ngợi tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa.
1. Bối cảnh:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng những năm 626-587 trước Công Nguyên. Ông đã chứng kiến những năm tháng bi thương của đồng bào ông dưới gót dày xâm lược của đế quốc Ba-by-lon, nào cảnh nước mất nhà tan, cảnh thành thánh đổ nát và cảnh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoang phế. Đây là thảm họa mà ông có sứ mạng báo trước, nhưng đồng bào ông đã để ngoài tai những lời cảnh báo của ông.
Trước khi những biến cố bi thảm nầy xảy đến, ông đã trải qua một thời kỳ hạnh phúc dưới triều đại của vua Giô-si-gia-hu (522-509 tCn.). Chính vào thời kỳ nầy mà bản văn hân hoan nầy được viết, chủ yếu liên quan đến những dân cư Ga-li-lê và Sa-ma-ri. Vào thế kỷ trước đó, hai miền này đã bị đế quốc Át-sua xâm chiếm và một phần dân cư đã bị dẫn đi lưu đày. Ấy vậy, đế quốc Át-sua trở nên suy yếu và không còn đủ sức bành trướng. Nhờ đó, vua Giô-si-gia-hu mới có thể thực hiện công cuộc canh tân cải tổ toàn diện của mình trên toàn cõi đất nước.
2. Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a tràn đầy hy vọng. Phải chăng giờ phục hưng Ít-ra-en và thống nhất dân Thiên Chúa đã điểm? Ông mơ ước, ít ra một sấm ngôn bày tỏ niềm mơ ước này được gặp thấy ở chương 30-31. Cùng chung nhịp với tấm lòng của Thiên Chúa, vị ngôn sứ phác họa niềm cảm xúc của Đức Chúa trước cảnh khốn cùng của con cái Ngài (30: 1-11). Chắc chắn Ngài đã trừng trị họ vì những lỗi phạm của họ (30: 11, 15), nhưng Ngài không bao giờ ngừng yêu thương họ “bằng mối tình muôn thuở” (31: 3). Và Giê-rê-mi-a hình dung Đức Chúa kêu mời muôn dân: “Reo lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân tộc đứng đầu chư dân!”. Ít-ra-en được gọi “dân tộc đứng đầu chư dân”, vì dân này đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tách riêng ra giữa muôn dân và được Ngài rất mực yêu thương.
“Nào loan tin, ca ngợi và công bố: Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn lại của Ít-ra-en”. “Số còn lại của Ít-ra-en” là những người đã kinh qua gian khổ của cuộc lưu đày, họ sẽ là chất xúc tác đối với toàn dân Chúa chọn. Cũng danh xưng nầy sẽ được dùng để gọi những người lưu đày ở Ba-by-lon vào thế kỷ sau đó.
3. Ngày trở về:
“Nầy Ta đưa chúng từ phương Bắc trở về”: Đây là cách nói kinh điển để chỉ ách thống trị của ngoại bang, dù đế quốc Át-sua hay đế quốc Ba-by-lon. “Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng”. Ngay cả những kẻ yếu nhược nhất, thông thường không thể tự mình trở về, Đức Chúa sẽ an ủi và nâng đỡ để không một ai vấp ngã trên đường, vì Đức Chúa là Người Cha tận tình săn sóc: “Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng”. Tên “Ép-ra-im” được dùng để chỉ toàn bộ các chi tộc phương Bắc và tước hiệu “con trưởng” để chỉ đứa con rất mực yêu dấu.
Niềm ước mơ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không được thực hiện. Đế quốc Ba-by-lon đã thay thế đế quốc Át-sua. Dân Ít-ra-en phải chịu cảnh đời nô dịch này thay thế cảnh đời nô dịch khác. Vì thế, những viễn cảnh tươi đẹp mà vị ngôn sứ phác họa chỉ được ứng nghiệm sáu mươi năm sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Chính từ những viễn cảnh tươi đẹp này sẽ được ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon, lấy lại và khai triển những đề tài chứa chan hy vọng cho những người lưu đày Ba-by-lon. Tuy nhiên, trong trực giác sâu xa của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị đánh lừa. Khi mô tả tấm lòng phụ tử của Thiên Chúa: cảm thương thân phận con cái của Ngài, nhân loại vừa tội lỗi vừa đau khổ, vị ngôn sứ đã đem lại cho niềm ước mơ của mình một tầm mức mà chính ông không thể ngờ được, một tầm mức Mê-si-a.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 1-6)
Trọng tâm của Thư gởi tín hữu Do thái là sứ vụ của Đức Ki-tô, vị Thượng Tế thập toàn và trổi vượt vô vàn so với vị Thượng Tế Cựu Ước.
Hai khía cạnh chủ yếu tiêu biểu chức tư tế: một mặt, vị Thượng Tế nào cũng là người được chọn trong số phàm nhân; mặt khác, ông là người của Thiên Chúa, người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của hai khía cạnh nầy, tác giả đối chiếu tấm lòng biết cảm thông với con người yếu đuối và tội lỗi giữa vị thượng tế Cựu Ước và Đức Ki tô, vị thượng tế Tân Ước.
1. Vị thượng tế Cựu Ước:
Tác giả nhấn mạnh những phẩm chất phàm nhân của vị thượng tế Cựu Ước: là một con người như bao nhiêu người khác, ông chia sẻ những yếu đuối của con người; ông lại càng cảm thông hơn nữa với những tội lỗi của họ bởi vì chính ông cũng là một tội nhân: “Mà vì yếu đuối, nên ông phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy”. Không ai có thể tự phong cho mình là người của Thiên Chúa, nhưng phải lãnh nhận chức vị nầy từ chính Thiên Chúa. Thật ra, chức thượng tế Cựu Ước là một chức vụ cha truyền con nối. Thiên Chúa đã chọn ông A-ha-ron một lần cho tất cả, bao gồm hậu duệ của ông (Xh 28: 1 và Lv 18: 1-13).
2. Đức Ki tô, vị Thượng Tế Tân Ước:
Tác giả sẽ đối lập vị Thượng Tế biết cảm thông của Cựu Ước với Đức Ki tô, vị Thượng Tế biết cảm thương của Tân Ước. Ông tiến hành theo trật tự đảo ngược khi bắt đầu gợi lên lễ tấn phong của Đức Ki-tô với hai đặc tính biệt phân: trước hết, Đức Ki-tô là một vị Thượng Tế có phẩm chất khôn sánh, vì Ngài là Con Thiên Chúa; thứ nữa, Đức Ki-tô là vị Thượng Tế không theo phẩm trật A-ha-ron, nhưng theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
Khi bắt đầu gợi lên tính siêu việt của chức tư tế Đức Ki-tô, tác giả thư gởi tín hữu Do thái lưu ý rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế biết cảm thông tuyệt vời vì Ngài là Đấng Trung Gian trực tiếp lòng xót thương của Thiên Chúa. Chức tư tế độc nhất vô nhị của Đức Ki-tô diễn tả một chuyển động từ trên xuống: tấm lòng Phụ Tử của Thiên Chúa đối với con người.
Quả thật, chính từ sáng kiến của Chúa Cha mà Chúa Con nhận được lễ tấn phong của mình. Tác giả trích dẫn Tv 2 để làm chứng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con”. Thánh Vịnh nầy là một trong những Thánh Vịnh phong vương. Thời quân chủ Đa-vít, vào ngày lễ phong vương, vị tân vương được công bố là Thiên Tử. Tước hiệu Thiên Tử của vị tân vương là biểu tượng, còn tước hiệu Thiên Tử của Đức Ki-tô mới là đích thực. Tước hiệu Thiên Tử của Chúa Giê-su không chỉ hàm chứa biến cố Nhập Thể (“Cha đã sinh ra con”) nhưng còn tính cách vương đế của Ngài. Đức Ki-tô vừa là vương đế vừa là thượng tế, như vậy làm trọn niềm ước mơ Mê-si-a.
3. Vị Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê:
Đức Giê-su không thuộc chi tộc Lê-vi, vì thế, Ngài không thể tự nhận mình là thượng tế theo luật Mô-sê. Chức tư tế của Ngài thuộc phẩm trật khác, phẩm trật Men-ki-xê-đê. Men-ki-xê-đê là một nhân vật huyền nhiệm mà sách Sáng Thế nói về ông (14: 18-20). Ông vừa là “vua thành Sa-lem” (thành Giê-ru-sa-lem tương lai) vừa là “tư tế của Thiên Chúa Tối Cao”. Chính ông đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham và đại diện vị tổ phụ, tiến dâng bánh và rượu lên Thiên Chúa. Còn ông Áp-ra-ham thì biếu tặng cho “con người của Thiên Chúa” nầy một phần mười chiến lợi phẩm của mình.
Truyền thống đối lập chức thượng tế A-ha-ron với chức thượng tế Men-ki-xê-đê. Chức thượng tế Men-ki-xê-đê thì không giới hạn, không lai lịch, muôn đời, có nguồn gốc thiên giới. Chính ở nơi mẫu thức chức thượng tế Men-ki-xê-đê nầy mà Tv 110 quy chiếu đến: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Tv 110: 4). Thánh Vịnh này, cũng là một Thánh Vịnh phong vương, loan báo vị thượng tế lý tưởng trong tương lai, vì thế, Thánh Vịnh nầy cũng mang một cung giọng Mê-si-a. Những sấm ngôn nầy được ứng nghiệm nơi Đức Ki-tô, Ngài là vị Thượng Tế biết cảm thông với những yếu đuối và tội lỗi của con người và Ngài là Đấng Trung Gian muôn đời bên cạnh Chúa Cha.
TIN MỪNG (Mc 10: 46-52)
Việc chữa lành anh mù thành Giê-ri-cô được cả ba sách Tin Mừng nhất lãm thuật lại (tại Mát-thêu, có đến hai người mù được chữa lành). Câu chuyện nầy có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì nó đóng chức năng như bản lề giữa lời loan báo thứ ba về cuộc Thương Khó và cuộc khải hoàn của Đức Giê-su vào thành thánh Giê-ru-sa-lem.
1. Bối cảnh:
Chúa Giê-su rời thung lũng sông Gio-đan và trực chỉ tiến về thành thánh Giê-ru-sa-lem, băng qua thành Giê-ri-cô. Chính ở thành Giê-ri-cô nầy mà vào thời điểm lễ Vượt Qua những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại trước khi cùng nhau lên thành thánh Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng hai mươi sáu cây số. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài cùng với đám đông đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Vì thế, việc thánh ký ghi nhận “Đức Giê-su cùng với đám đông dân chúng ra khỏi thành Giê-ri-cô” phù hợp với khung cảnh của khách hành hương trước đại lễ Vượt Qua.
2. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô:
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và anh mù thành Giê-ri-cô được mô tả rất sinh động và ngoạn mục. Mọi người đang lũ lượt kéo nhau đi trong khi anh ngồi mà lại ngồi một mình bên vệ đường. Tư thế này diễn tả cảnh ngộ của anh, anh hoàn toàn bị gạt ra ngoài cuộc sống, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang nhộn nhịp lên đường lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua. Tuy nhiên, anh không cam chịu số phận bị khai trừ của mình. Anh lắng nghe dư luận quần chúng, nhờ đó biết rằng Đức Giê-su đang đi qua đây; vì thế, lòng anh tràn đầy hy vọng. Chắc chắn anh đã nghe nói về việc ông Giê-su Na-da-rét nầy đã mở mắt cho nhiều người mù. Vì thế, anh kêu to và bạo dạn gọi Đức Giê-su là “Con vua Đa-vít”, tước hiệu của Đấng Mê-si-a mà dân chúng từ lâu mong đợi (2Sm 7: 1-17). Nhiều người quát nạt bảo anh im đi. Đám đông trở nên chướng ngại ngăn cản anh đến với Đức Giê-su. Nhưng mặc kệ, không chịu thua cuộc, anh mù lại càng kêu gào hơn nữa át cả những lời quát tháo ngăm đe của đám đông để làm thế nào lời kêu cứu của anh đến được với Đức Giê-su.
Đức Giê-su cứ để mặc anh mù kêu to tước hiệu Mê-si-a mà không đòi buộc anh phải im lặng như trước đây nữa. Thời kỳ nầy đã qua, thời Ngài đã cố giữ mầu nhiệm chung quanh con người của Ngài để tránh những giải thích sai lạc về sứ vụ Mê-si-a của Ngài. Giờ đây, Ngài đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường mặc khải tuyệt mức sứ vụ Mê-si-a của Ngài ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh. Giờ của sự thật đã điểm. Chẳng bao lâu nữa dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ tung hô Ngài dưới tước hiệu nầy.
3. Đức tin của anh mù thành Giê-ri-cô:
Đức Giê-su không thể nào làm ngơ trước những tiếng kêu đầy niềm tin của anh mù thành Giê-ri-cô nầy được, vì thế, Ngài dừng bước và ra lệnh: “Gọi anh ta lại đây!”. Một lần nữa, Đức Giê-su biểu lộ cho thấy Ngài muốn liên lụy đến những kẻ mà người ta khăng khăng muốn khai trừ, loại bỏ. Đám đông tức khắc thay đổi thái độ từ ác cảm sang thiện cảm khi khuyến khích anh mù: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
Khi được Đức Giê-su gọi, “anh mù liền vất áo choàng lại”. Trong Kinh Thánh, y phục không chỉ để che thân nhưng nhất là tượng trưng cho nhân cách người mặc nó. Khi “vất áo choàng”, anh vất thân phận bị khai trừ của mình. “Áo choàng” cũng là của cải duy nhất mà người nghèo có (Xh 22: 25-26); đối với anh hành khuất mù này, áo choàng còn là phương tiện sinh sống, bởi vì người mù thường trải chiếc áo choàng ra trước mình để đón nhận của bố thí. Khi vất áo choàng, anh đã bỏ tất cả những gì anh có mà đến với Đức Giê-su. Đây đúng là lời đáp trả mà Đức Giê-su đã mong đợi nhưng không gặp thấy ở nơi chàng thanh niên giàu có. Anh “đứng phắt dậy mà đến gần Chúa Giê-su” trong khi mắt vẫn mù, thì đúng là thái độ của đức tin.
Khi diện đối diện với anh mù, Ngài hỏi anh: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Dĩ nhiên, Đức Giê-su biết rõ ước muốn của anh, nhưng Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của những người đến gặp Ngài, vì thế Ngài muốn anh phải tự mình nói lên ước nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”. Tác giả sách “Hạt Giống Nẩy Mầm” viết: “Đây cũng là lời cầu xin của các tín hữu trong cộng đồng của Mác-cô. Họ đang sống trong một thời kỳ bị bách hại, nghi kỵ và khinh miệt. Họ không biết phải sống như thế nào. Họ xin Chúa cho họ thấy con đường mà họ phải sống và đi theo Người. Một phần nào đó, tôi cũng không biết phải sống như thế nào trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi hãy mượn lời anh Ba-ti-mê để cầu xin với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy’”.
4. Anh mù đón nhận nhiều hơn điều anh mong chờ:
“Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”. Lời của Đức Giê-su mặc lấy một chiều kích sâu xa bất ngờ đối với anh mù cũng như đối với đám đông vây quanh. Lệnh truyền “Anh hãy đi” hàm chứa một sứ mạng. Thay vì “lòng tin của anh đã chữa lành anh”, Đức Giê-su lại nói với anh: “lòng tin của anh đã cứu anh!”, nghĩa là, nhờ đức tin, Đức Giê-su không chỉ cứu chữa anh khỏi đôi mắt mù lòa của thể xác, mà còn ban cho anh ơn cứu độ mà Ngài đem đến nữa. Như vậy, anh mù không chỉ được sáng mắt mà còn sáng cả cõi lòng trước sứ điệp Tin Mừng.
Câu chuyện kết thúc với lời đáp trả tích cực của anh: “Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi”. Con đường mà Đức Giê-su đi là con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường dẫn Đức Giê-su đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh. Đó cũng là con đường mà anh mù Ba-ti-mê vừa được sáng mắt đi theo Ngài để được dự phần vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Như vậy, câu chuyện kết thúc với việc ghi nhận rằng anh mù Ba-ti-mê được sáng mắt trở thành người môn đệ lý tưởng của Ngài, và chắc chắn vì lý do đó mà tên anh vẫn được truyền trong ký ức của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Như vậy, câu chuyện anh mù thành Giê-ri-cô là dịp làm chứng về một đức tin năng động và kiên vững tương phản với tâm trí u mê mù tối của các Tông Đồ trước ba lần loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Thầy. Câu chuyện nầy cũng đã đánh dấu việc vén mở bí mật Mê-si-a, chuẩn bị cho việc dân chúng hân hoan đón tiếp Ngài vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Một lần nữa, chúng ta thấy nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của thánh Mác-cô. Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Mác-cô là người kể chuyện với nhiều chi tiết sinh động nhất và phong phú nhất.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔ
A. DẪN NHẬP
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô kể lại cho chúng ta việc chữa lành người mù thành Giêricô. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa luôn yêu thương con người. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là con vua Đavít về phương diện con người, là Đấng mang lại ơn cứu độ nếu chúng ta tin tưởng đón nhận. Nhưng cần phải có đức tin tinh tuyền, can đảm giống như niềm tin của anh mù Bartimê.
Chúng ta cũng là những người mù, những người mù từ mới sinh. Biết bao chân lý căn bản, chúng ta đã không thấu hiểu và vì không hiểu biết những chân lý đó, chúng ta đã không tiến nhanh trên con đường sự sống đời đời. Nhưng Chúa Kitô vẫn hiện diện, sẵn sàng chữa lành con mắt chúng ta. Chúng ta hãy biết cầu cứu Ngài như người mù Giêricô :”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”.
Sau khi đã được mở mắt tâm hồn để biết Chúa, chúng ta phải tin theo Ngài trên mọi nẻo đường của cuộc sống như anh mù đã làm, không dám ngăn cản người khác đến với Chúa bằng gương xấu, trái lại, phải xin Chúa làm cho “sáng mắt sáng lòng” để lôi kéo ngườ ta đến với Chúa bằng đời sống chứng nhân được thể hiện qua cuộc sống gương mẫu hằng ngày.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Gr 31,7-9
Theo lịch sử, dân Do thái phản bội, Thiên Chúa để cho quân đội Assyri đến tàn phá hai vương quốc Israel và Giuđa, bắt dân cư đi lưu đầy ở Babylon. Đây là thời kỳ đen tối nhất của dân tộc Do thái. Tuy thế, tiên tri Giêrêmia vẫn tin tưởng vào Chúa và loan báo cho dân biết Thiên Chúa sẽ giải phóng họ, sẽ đưa họ trở về quê hương.
Giêrêmia hát lên bài ca hy vọng : họ ra đi trong nước mắt sẽ hân hoan trở về quê hương, dưới bàn tay phụ tử của Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2 : Dt 5,1-6
Theo tác giả thư Do thái, Vị Thượng Tế người phàm là người được chọn giữa dân chúng, mang sự yếu hèn như tất cả mọi người, đại diện cho loài người trong các tương quan với Thiên Chúa, cũng phải được Thiên Chúa tuyển chọn, để dâng lễ đền tội cho dân và cũng dâng lễ đền tội cho chính mình nữa.
Rõ ràng chính Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài sở hữu ở một mức độ phi thường những đức tính phải có để làm Đấng Trung gian cầu bầu cho loài người và dẫn đưa họ đến cùng Thiên Chúa : Ngài là vị Thượng Tế tuyệt hảo.
+ Bài Tin mừng : Mc 10,46-52
Trên đường đi đến Giêrusalem, tại Giêricô có một người mù tên là Bartimê kêu xin Đức Giêsu chữa để được trông thấy. Đức Giêsu động lòng thương và nói với anh :”Con hãy đi, lòng tin của con đã cứu con”. Tức khắc anh thấy được và đi theo Ngài trên con đường Ngài đi.
Có một chi tiết chúng ta nên lưu ý : khi được xem thấy, anh liền đi theo Chúa. Anh ta có mấy động tác diễn tả ý định của anh đi theo Chúa : Trước đó, khi Đức Giêsu gọi, anh đã từ bỏ (“liệng áo choàng”), thay đổi nếp sống (từ “ngồi ở vệ đường” đến “đứng dậy”), qui hướng về Đức Giêsu (“nhảy đến với Đức Giêsu”. Người mù này có can đảm gắn bó với Đức Giêsu đi vào đường tử nạn ở Giêrusalem.
Chúng ta cũng phải có can đảm đi theo Chúa Kitô như người mù trên mọi nẻo đường đời, dù có phải qua đỉnh Canvê.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Xin được sáng mắt sáng lòng
I. CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ Ở GIÊRICÔ
1. Bối cảnh.
Hiện nay trên thế giới có nhiều người mù. Trong những xứ nghèo phương Đông, người bị mù khá đông. Trước khi phát minh ra phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh Thánh, người mù là hình tượng của sự đói nghèo, của con người bị bỏ rơi.
Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và đám đông dân chúng ra khỏi thành Giêricô thì gặp một anh mù tên là Bartimê ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh này có một thính giác rất đặc biệt, anh ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nazareth. Anh kêu lớn tiếng :”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Người ta mắng anh, hãy im đi đừng quấy rầy. Nhưng anh càng la to hơn :”Lạy con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đức Giêsu cho gọi anh ta lại. Được tin, anh ta vứt bỏ áo choàng, nhảy chồm lên và đến với Chúa. Tuy biết anh ta muốn xin gì, nhưng Đức Giêsu cũng cứ hỏi :”Con muốn ta làm gì cho con” ? Anh ta thưa ngay :”Lạy Thầy, xin cho con thấy được”. Đức Giêsu nói tiếp :”Cứ về đi, lòng tin của con đã chữa con”. Tức khắc anh ta nhìn thấy được và theo Ngài lên đường.
2. Cách chữa bệnh của Đức Giêsu.
Đức Giêsu chữa bệnh lần này hơi khác thường. Marcô nói đến những sự việc chung quanh thì nhiều, làm cho phép lạ càng hoành tráng, còn việc chữa bệnh thì rất ít. Đức Giêsu chỉ dùng một câu và phán một lời thôi. Đang khi có lần khác, để chữa lành một người câm điếc (Mc 7,31-37), Ngài đã làm nhiều cử chỉ, không khác những lang y hoặc pháp sư thời bấy giờ. Ngài đem người có tật ra chỗ vắng, thọc ngón tay vào tai y, nhổ nước miếng và sờ vào lưỡi y, rồi ngước mắt, rên lên, thốt ra một lời lạ tai : Ephphata ! Ngay đến lần chữa người mù ở Betsaida (Mc 8,22-26), Ngài cũng đã dắt y ra ngoài làng, đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó, rồi đặt tay khoa trước mặt nó và hỏi : có thấy gì không ?… Hôm nay, Ngài không làm một cử chỉ nào như vậy. Ngài chỉ nói một câu : hãy đi, lòng tin của con đã chữa con. Và người mù đã được khỏi tức khắc.
Như vậy có nghĩa là hôm nay tác giả Marcô không muốn chú trọng nhiều đến chính phép lạ chữa lành một người mù. Ngài đặt câu truyện này trong một bối cảnh có ý nghĩa cứu độ của nó. Marcô muốn nói Bartimê là con người đại diện của con người thời Cựu ước cũng như thời nay đang mù lòa không thấy gì hết và chẳng biết đường đi. Y ngồi bên vệ đường, không theo được con đường cứu độ mà Thiên Chúa đang đi. Y chỉ biết giơ tay ăn xin, tức là nhân loại chỉ biết cầu cứu được thương xót. Bartimê, người mù Giêricô, chính là kẻ đang ngồi trong bóng tối cho dù chung quanh đều đang hưởng ánh sáng ban ngày. Đó cũng là kẻ đang lầm than khổ sở, bất động và bất di bất dịch. Bóng tối đang bao phủ kẻ ấy, đúng là bóng tối của tử thần.
3. Kết quả.
“Đức tin của con đã chữa con”. Qua lời nói vắn tắt của Đức Giêsu, anh mù được chữa lành. Đúng thực, Bartimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng con mắt đức tin vì anh đã thấy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế khi gọi Ngài là “Con vua Đavít”.
Bartimê đã mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng mắt tâm hồn. Anh thấy nhiều cái mà người sáng mắt không thấy : anh thấy Đức Giêsu là Con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin, và chính vì lòng tin này, Đức Giêsu đã thương anh, cho anh được sáng mắt.
II. CÂU CHUYỆN QUANH NGƯỜI MÙ.
1. Tâm sự của một người mù.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ôâng đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ôâng đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp :”Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
2. Những đức tính của anh mù.
* Có lòng tin vững vàng. Bartimê đã có lòng tin sắt đá. Như tất cả mọi người, Bartimê biết rằng Đức Giêsu là người thợ mộc thành Nazareth. Nhiều người vấp phải vấn đề này. Còn Bartimê biểu lộ công khai niềm tin của mình. Anh là người đầu tiên la lớn lên rằng Đức Giêsu Nazareth là con Vua Đavít, là Đấng Cứu Thế. Đã được soi sáng, người mù nói :”Lạy Thầy”. Anh ta kêu xin với một niềm tin mạnh đến độ quyền năng của Đức Giêsu có thể biến đổi anh hoàn toàn.
* Nhiệt tình đến với Chúa. Nhiều người khi được nghe tiếng gọi của Đức Giêsu đã thật sự tự nhủ :”Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Bartimê nghe tiếng gọi, anh lập tức đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xẩy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Bartimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một điều say quấy, muốn hiến thân cho Chúa trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta không chịu hành động ngay, rồi dịp may đó qua đi và chẳng bao giờ còn trở lại.
* Biết đúng nhu cầu của mình. Bartimê biết mình cần gì và tha thiết xin cho bằng được điều đang mong ước với sự khôn ngoan. : “Rabboni, Thưa Thầy, xin cho con nhìn thấy được”. Anh mù đã đáp lại câu hỏi của Chúa, cũng là câu mà Chúa đã hỏi hai người con ông Giêbêđê :”Con muốn Talàm gì cho con” ? Đàng sau khát vọng được nhìn thấy, Đức Giêsu đã nhận ra nơi anh đức tin, khát vọng được biết nhiều hơn về Đấng Messia, được nhìn thấy thực tại tối hậu ẩn sau dáng vẻ bên ngoài.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chỉ là một sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ giúp chiếc răng đang đau chứ không chữa bất kỳ một chiếc răng hư nào khác. Giữa chúng ta với Đức Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà ít người muốn đối diện tự xét mình. Khi đến với Đức Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Bartimê, sẽ có chuyện lạ xẩy ra.
* Thể hiện lòng biết ơn. Bartimê chỉ là người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Đức Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo con đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng.
Nếu không có lòng biết ơn khi Bartimê được chữa khỏi, anh có thể ra về để sống cuộc đời của mình và quên đi câu chuyện về Đức Giêsu. Nhưng không, anh đã trở thành một môn đệ trực tiếp và nhiệt thành của Đức Giêsu. Anh đi theo Ngài trên con đường Ngài đi. Đó là đỉnh cao của câu chuyện.
Từ chỗ chỉ là người tin, Bartimê đã trở thành một môn đệ. Có một sự khác nhau rất lớn. Người môn đệ sống như Đức Giêsu đã sống. Sự sẵn sàng đi theo Đức Giêsu của Bartimê tương phản với thái độ của các môn đệ còn biết cách lờ mờ và còn lưỡng lự trong suốt cuộc hành trình lên Giêrusalem.
III. XIN CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT SÁNG LÒNG.
1. Muốn thấy Chúa phải có đức tin.
Marcô không muốn chỉ tường thuật một phép lạ mà còn muốn đi xa hơn nữa, muốn ám chỉ việc Chúa đến để thắp sáng đời anh mù bằng nhân đức tin. Vì thế Ngài phán :”Đức tin của con đã chữa con”. Muốn thấy Chúa, cần phải có nhân đức tin. Đức tin mở mắt chúng ta để nhìn thấy Chúa. Có bao nhiêu người sáng mắt, nhưng mù tối linh hồn.
Trên con đường Damas, Saulê đi lùng bắt giáo hữu, Chúa hiện ra với Saulê. Ôâng ngã ngựa, đứng lên thì bị mù mắt cho đến khi vào thành Damas, chịu phép rửa tội. “Một cái gì, như những cái vảy bong ra và Phaolô được nhìn thấy”(Cv 9,18). Đức tin mở mắt tâm hồn. Vì thế, giáo hữu thời xưa, gọi phép rửa tội là “phép thắp sáng” (Illuminatio). Và từ đây, chúng ta nhìn thấy Đức Giêsu. Thánh Inhaxiô thành Antiochia nói :”Với đức tin, tôi được thấy và sờ đụng Ngài”.
2. Tin phải như thế nào ?
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu chỉ làm phép lạ cho những người có lòng tin. Đốâi với những người không có lòng tin như luật sĩ, biệt phái, những người đồng hương Nazareth thì Ngài không làm phép lạ nào. Để ý nhận xét, trong các phép lạ, Đức Giêsu hay dùng công thức :”Lòng tin của con đã chữa con”.
Chúng ta nên nhớ, tin không phải là trí khôn chấp nhận một chân lý . Tin còn là tình nguyện đi theo một người, người đó là Chúa. Tình nguyện theo như thế có một phần sáng sủa vì có những lẽ để mà tin, nhưng cũng có một phần mịt mù để việc tin đem lại công phúc. Vì thế kẻ tin thì làm vinh dự cho Chúa phần nào. Tin tức là lựa chọn đứng về phía Chúa. Việc lựa chọn đó là một việc do trí tuệ mà một trật do lòng mến : Scio cui credidi : tôi biết Đấùng mà tôi giao phó niềm tin(Trần văn Khả).
3. Tin còn là nhiệt tình theo Chúa.
Khi được Đức Giêsu gọi đến, Bartimê đã vứt áo choàng, nhảy chồm lên mà đến với Ngài. Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chiếc “áo choàng” là biểu tượng cho quyền lực của con người (1Sm 18,4; 2v 2,14). Động chạm đến áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để được lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ “đoạn tuyệt với quá khứ” của anh.
J. Hervieux giải thích :”Những chi tiết này thật là lạ lùng. Mọi sự xẩy đến dường như Bartimê không còn mù nữa. Khi vứt bỏ áo choàng, anh cũng vứt bỏ luôn tình trạng bị loại trừ (…). Cái áo choàng là vật duy nhất mà người nghèo sở hữu. Vứt bỏ nó, Bartimê đã thực hiện điều mà Đức Giêsu đã không làm được với chàng thanh niên giầu có : anh đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đi theo cách nào ? Anh nhảy lên, đứng phắt dậy. Cú nhảy trong đêm tối là cú nhảy đức tin vì mắt anh vẫn còn mù “(L’Evangile de Marc, Centurion, tr 156).
4. Đừng ngăn cản người khác theo Chúa.
Khi nghe anh Bartimê kêu xin Chúa thương cứu, mọi người nạt nộ, không cho anh nói . Thực ra, thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đang thường phải im miệng. Luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình : đó là những kẻ sống bên lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại.
Còn Đức Giêsu, Ngài nghe, Ngài luôn để tai nghe. Ngài nghe tiếng kêu của những người van xin, Ngài dủ lòng thương xót, van xin Ngài cho họ được trông thấy, được đứng dậy. Nếu chúng ta nhận biết Chúa quan tâm đến tiếng kêu xin của con người, chắc chúng ta sẽ trở thành những người “trung gian” tốt, để nói với họ :”Hãy an tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được Chúa đến thắp sáng đời ta, chúng ta cũng phải sống đức tin, phải làm tỏa sáng đức tin ấy cho những người chung quanh, không được ngăn cản người ta đến với Chúa, trái lại phải đem họ về với Chúa qua cuộc sống gương mẫu của ta.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói :”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
Truyện : chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói :
– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng nhu nhau.
Người bạn trả lời :
– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :
– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người kia đáp :
– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này : Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…
E/ Các bài suy niệm khác
- BÁC-TI-MÊ ĐƯỢC SÁNG MẮT
- XIN ƠN SÁNG MẮT SÁNG LÒNG ĐỂ ĐI THEO CHÚA
- NHÌN RÕ CHÚA LÀ AI ĐỂ ĐI THEO NGƯỜI
- NGƯỜI MÙ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
- ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ Ở GIÊRIKHÔ
- NGƯỜI HÀNH KHẤT MÙ BÁCTIMÊ
- LẠY CON VUA ĐA-VÍT, XIN DỦ LÒNG THƯƠNG TÔI.
- Ðức Yêsu Dựng Nên Một Dân Mới
- XIN MỞ MẮT LINH HỒN CON
- XIN CHO CON ĐƯỢC NHÌN THẤY
- Xin Cho Tôi Được Thấy