“Người sẽ quy tụ những người được tuyển chọn từ khắp bốn phương trời”.
Bài Ðọc I: Ðn 12, 1-3
“Khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát”.
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Khi ấy, tổng lãnh sứ thần Micae sẽ chỗi dậy can thiệp cho con cái dân ngươi, đó sẽ là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ. Trong thời kỳ ấy dân ngươi, hễ ai đã có ghi tên trong sách, sẽ được cứu thoát.
Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ chỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời.
Những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời.
Ðáp Ca: Tv 15, 5 và 8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng: Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
Xướng: Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong âm phủ, cũng không để thánh nhân của Người thấy điều hư nát.
Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh: sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời!
Bài Ðọc II: Dt 10, 11-14. 18
“Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Trong khi mọi tư tế hằng ngày đứng gần bàn thờ chu toàn chức vụ mình và hiến dâng cũng ngần ấy của lễ nhiều lần, nhưng không bao giờ xoá được tội lỗi, còn Người khi dâng xong của lễ duy nhất đền tội, đã ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời, và từ đây, Người chờ đợi cho đến khi thù địch bị đặt làm bệ dưới chân Người. Vì chưng, nhờ việc hiến dâng duy nhất mà Người đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời. Vậy nơi nào tội lỗi được thứ tha, thì không còn việc dâng của lễ đền tội nữa.
Alleluia: Kh 2, 10c
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống”. – Alleluia.
Tin Mừng: Mc 13, 24-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất. Nhìn vào cây vả, các con hãy tìm hiểu dụ ngôn này. Khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến. Cũng vậy, khi các con nhìn thấy tất cả những điều đó xảy ra, thì các con hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật các con: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi sự đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.
“Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
NIỀM VUI LỚN LAO
“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.” (Mc 13,26)
Suy niệm: Chúa sẽ lại đến. Đó là điều chắc chắn, nhưng khi nào và như thế nào, thì không ai biết. Mỗi khi xảy ra tai ương, như chiến tranh, động đất, bão lũ… hoặc những hiện tượng thiên nhiên khác thường, người ta lại lo lắng bất an, vì nghĩ rằng “ngày ấy” đã đến. Họ mặc định rằng ngày tận thế là ngày u ám đáng kinh sợ, ngày của huỷ diệt. Trái lại, đối với những ai mong đợi ngày Đức Ki-tô lại đến, thì “ngày ấy” lại là niềm vui và niềm hy vọng lớn lao vì đó là lúc “anh em sắp được cứu độ” (Lc 21,28).
Mời Bạn: Vậy chúng ta phải chuẩn bị cho ngày đó như thế nào? Một ngày kia thánh Gio-an Bốt-cô hỏi học trò mình: “Đa-minh Sa-vi-ô, nếu ngày mai con chết, con sẽ làm gì?” Đa-minh Sa-vi-ô trả lời: “Con vẫn chơi đùa, ăn uống bình thường bởi vì ngày nào con cũng chuẩn bị sẵn sàng để được gặp Chúa.” Vâng! “Phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, “đừng để mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc 21,36.34). Với tâm thế đó, chúng ta sẽ không còn sợ hãi mà trái lại đón chờ ngày Chúa lại đến trong bình an, vui tươi và hy vọng.
Sống Lời Chúa: Chu toàn công việc bổn phận hằng ngày của mình trong tinh thần phục vụ khiêm tốn với tâm niệm: “Tôi chỉ là người tôi tớ vô dụng, tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (x. Lc 17,10).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chúng con mong đợi Chúa lại đến, xin cho chúng con biết dùng những giây phút hiện tại để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân, ngõ hầu mai ngày chúng con được kết hợp hạnh phúc với Chúa mãi mãi trên Nước Trời. Amen.
B/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy”.
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-22
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Đa số các ngài là những dân quê hiền lành chất phát, nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-tin: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Ki-tô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa”.
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan đánh dấu một khúc quanh quan trọng về cuộc sống mai sau của con người. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.
1. Quan niệm Cựu Ước về sự sống lại
Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “nhân quả”: “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay từ cõi đờinàyphát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống mai hậu. Tất cả mọi người, dù thiện hay ác, khi từ giã cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trong thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 Tcn) xao xuyến nêu lên vấn đề “họa vô đơn chí” giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với bọn ác nhân ở bên kia nấm mồ. Các thánh vịnh gia công bố rằng người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc vinh hiển trước Nhan Thiên Chúa muôn đời (Tv 16, 17, 49, 73).
Tiếp đó, niềm tin vào kẻ chết sống lại vào ngày chung thẩm xuất hiện. Vào thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử đạo chết trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống mai hậu (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin của người Hy lạp vào sự bất tử của linh hồn như một sự củng cố cho niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu của dân Do thái, dù vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác được ví như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bĩ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
2. Quan niệm sai lầm về con người
Trong đoạn văn trước đó (ch. 2), tác giả sách Khôn Ngoan đã phản bác quan niệm duy vật sai lầm về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào được dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Sách Khôn Ngoan được viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho những đồng bào của mình, họ đang bị những sức hấp dẫn của nền văn minh ngoại giáo chung quanh cám dỗ. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
3. Quan niệm đích thật về con người
Ở trung tâm tiến trình lập luận của mình, tác giả đã đặt Mặc Khải thiết yếu nhất liên quan đến con người: “Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23) như chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử. Từ đó, tác giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa; họ đang hưởng an bình”.
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết học nhị nguyên của Platon. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên triết thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách như “lửa thử vàng, gian nan thử đức” nhằm tôi luyện cuộc đời của các tôi trung của Thiên Chúa thành “của lễ toàn thiêu” .
4. Vinh quang chung cục
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”. “Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ kinh thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung. Những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo. Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định vị thế các môn đệ Ngài trong Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.
5. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm
Niềm hy vọng lớn laonàyđược đặt để vào tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính ở nơi tình yêu, ân phúc và từ tâmnàymà những người công chính sống. “Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật, và những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân huệ, và thương xót những ai được Người tuyển chọn”. Lời kết thúc của Bài Đọc Inàyđược viết trước các sách Tin Mừng một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một tiến trình liên tục từ Mặc Khải Cựu Ước đến Mặc Khải Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô vào Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, được cấu trúc rất chặc chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân.
Xin nhắc lại ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, tạo nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy nầy, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xửnàykhông phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ mình “thông thái”, thánh nhân nhắc nhở rằng ngài đã rao giảng cho họ không phải bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với đòi hỏi điềm thiêng dấu lạ của người Do thái và tìm kiếm lẽ khôn ngoan của người Hy lạp.
Dân Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Dân Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được. Đó là điều mà tất cả mọi hệ thống triết học đều đề cao.
Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá được.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ nhục trên thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và những nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do tháinàybách hại.
Còn đối với dân Hy lạp và sự khôn ngoan của họ, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân cố gắng thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những bài diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một con người thập toàn bị đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó lòng mà thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào sánh ví với hình ảnh của một vị thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Nhưng Thập Giá không là một bài diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện lạ thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn ra khỏi mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh độc nhất về “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-22)
Mặc dù đoạn Tin Mừng dành cho ngày đại lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được trích từ Mt 10: 17-22, nhưng để hiểu sâu xa đoạn Tin Mừng này chúng ta sẽ đặt nó vào trong toàn bộ phân đoạn của nó, nghĩa là từ 10: 17-25. Đây là phân đoạn thứ hai về những huấn thị bách hại (10: 17-25) được phân biệt rõ nét với phân đoạn thứ nhất về những huấn thị truyền giáo (10: 1-16).
Phân đoạn thứ nhất nêu bật chủ đề uy quyền hay quyền năng phi thường mà Đức Giê-su ban cho những ai mà Ngài sai đi loan báo Nước Trời. Trong phân đoạn nầy, không có bất kỳ ám chỉ chính xác nào về đau khổ. Thật ra, đoạn văn 10: 13b-16 ám chỉ đến việc người đời có thể không tiếp đón các môn đệ (10: 13b-15) và cảnh báo rồi những hiểm nguy đang rình rập chờ đón họ: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (10: 16). Tuy nhiên, những đối kháng này vẫn mơ hồ và một bầu khí chiến thắng xem ra phải ngự trị trên hoạt động truyền giáo.
Khởi đi từ 10: 17, những huấn thị được đặt trên một dấu nhấn hoàn toàn khác: những cuộc bách hại sắp đến. Các môn đệ không chỉ bị thù ghét, nhưng những thử thách sắp tới của họ được mô tả một cách chính xác đến nỗi chúng ta có thể định vị môi trường của chúng nữa. Chúng ta có thể phân chia phân đoạn thứ hainàythành: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ cần phải có trong hoàn cảnh bách hại (10: 23) và phần kết luận (10: 24-25) cho toàn bộ phân đoạn thứ hai này (10: 17-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21):
Phần mở đầu của câu 17: “Hãy coi chừng người đời” lập lại chủ đề về sự cẩn trọng của câu 16 nhưng với những thuật ngữ hoàn toàn khác. Động từ “coi chừng” mặc lấy hai nét nghĩa: hoặc bác bỏ, từ chối điều gì đó (như 7: 15; 16: 6) hay đề phòng cảnh giác trong hoàn cảnh khó khăn nào đó (như 6: 1). Văn mạch nhấn mạnh đến nét nghĩa thứ hai: Đức Giê-su không khuyên các môn đệ của Ngài nên trốn chạy khỏi “người đời” nhưng trong những gặp gỡ của họ với người đời, nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Họ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Phần tiếp theo của câu 17 cho thấy rằng “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”.
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở bên ngoài xứ Pa-lét-tin. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội “làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” về Đức Ki-tô và Nước Thiên Chúa. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công chúng vừa chính trị nữa. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Chính vì làm chứng cho Thầy mình mà họ không cần lo nghĩ phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thần Khí để giúp họ như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12).
Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến nghĩ đến một sự gợi hứng máy móc loại bỏ tất cả sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế; trái lại hai cụm từ “anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng còn ở trong họ và bởi họ nữa.
2. Cuộc bách hại ngay trong gia đình (10: 21-22)
Song đối với 10: 17-20 ở trên, các câu 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết để tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bách hại (23)
Câu 23 diễn tả thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại. Người Ki tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành nầy, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ đi thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng vẫn phải là bổn phận cho đến cùng.
4. Phần kết luận (10: 24-25)
Hai câu 24-25 là phần kết luận của phân đoạn này. Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một số phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh nhưng là căn tính về vận mệnh trần thế giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẽ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho môn đệ của mình sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Thiên Chúa đã đến gần (10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Thiên Chúa này (10: 18).
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
ĐÓN NGÀY TẬN THẾ
Chúa Nhật áp chót năm phụng vụ đề cập đến một vấn đề hết sức quan trọng mà có lẽ nhiều người ngại nói đến, hoặc không muốn nghĩ đến. Đó là ngày tận thế, ngày thế mạt, ngày Chúa quang lâm kết thúc lịch sử nhân loại, “phán xét kẻ sống và kẻ chết”, định đoạt số phận đời đời của mỗi người. Kitô hữu chúng ta xưa nay vẫn tin như thế và tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Nhưng liệu chắc chắn có ngày tận thế không? Khoa học nói gì về ngày tận thế? Khoa học cho chúng ta biết có ngày tận thế. Tận thế là khi Trái đất của chúng ta bị thiêu rụi bởi sức nóng khủng khiếp của mặt trời. Sau khi cạn nguồn Hydro, mặt trời sẽ tự đốt cháy chính mình, khiến nó ngày càng phình to ra, gấp 100 lần so với hiện tại, trở thành một quả cầu lửa khổng lồ. Khi ấy nó sẽ nuốt chửng Thủy tinh và Kim tinh – hai hành tinh nằm gần mặt trời nhất rồi Trái đất của chúng ta cũng không ngoại lệ. (https://nld.com.vn/khoa-hoc/trai-dat-se-tan-the-trong-5-ty-nam-nua-2016121210475352.htm) Nhà vật lý thiên văn Paul Sutter còn cho biết: “Nếu bầu khí quyển căng phồng của Mặt trời chạm tới thế giới của chúng ta, Trái đất sẽ tan biến trong vòng chưa đầy một ngày”. (https://tuoitre.vn/qua-bom-hen-gio-mat-troi-khi-nao-se-no-20230926225031234.htm)
Như thế, khoa học củng cố đức tin của Kitô hữu về ngày tận thế. Ngày tận thế có thật, và nó đang diễn tiến. Điều này, hơn 2000 năm trước, chính Chúa Giêsu đã nói tới: “Trong những ngày ấy, sau cảnh khốn cực, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.” Bằng lối văn Khải huyền, Chúa Giêsu cho thấy cảnh uy hùng của ngày tận thế.
Mục đích của tận thế không phải là ngày Thiên Chúa hù dọa con người mà là ngày Thiên Chúa cứu độ những ai tin: “Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Đó là điều chắc chắn sẽ xảy ra, đang diễn tiến đúng theo Lời Chúa nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi.”
Vậy, tận thế sẽ xảy đến khi nào? Người ta thực sự lo lắng về ngày tận thế, muốn biết về ngày tận thế, phỏng đoán tận thế vào năm 2000, vào cuối 2012, và những người theo thuyết âm mưu tiên đoán tận thế vào 29/07/2019, nhưng tất cả chỉ là đoán mò, vô căn cứ. Trong khi Chúa Giêsu đã khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó, thì không một ai biết được, ngay cả các thiên thần trên trời hay Người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” (Mc 13,32); lại rằng: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.” (Cv 1,6–8).
Thành thử, tận thế xảy đến ngày nào không còn quan trọng nữa, mà vấn đề quan trọng là chúng ta đón ngày tận thế như thế nào? “Nếu chỉ còn một ngày để sống” chúng ta sẽ sống như thế nào? Thiết nghĩ, trước hết, chúng ta cần tín thác vào Thiên Chúa, tin Lời Chúa phán là sự thật, là sự sống, là ánh sáng dẫn đường chỉ lối cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.”
Thế nên, thay vì bận tâm về ngày tận thế của nhân loại, chúng ta hãy nghĩ đến ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta; ngày Chúa gọi chúng ta ra khỏi cuộc đời này, cách bất ngờ “không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13); không biết “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng” (Mc 13,35). Cho nên, thái độ tỉnh thức sẵn sàng mọi nơi, mọi lúc và suốt cuộc đời phải là hoạt động ưu tiên trên mọi hoạt động của Kitô hữu chúng ta. Đó là điều các thánh đã nỗ lực thực hiện trong suốt cuộc đời các ngài. Để sống tỉnh thức sẵn sàng, Thánh Biển Đức đã sống và dạy các môn sinh: “Ngày ngày đinh ninh mình sẽ chết.” (Tu luật thánh Biển Đức, 4,47).
Với Thánh Đaminh Saviô, người ta kể lại câu chuyện rằng ngày kia Thánh Gioan Boscô hỏi người học trò trẻ tuổi của mình: “Đaminh Saviô, nếu ngày mai con chết, con sẽ làm gì?” Đaminh Saviô trả lời: “Con vẫn chơi đùa, ăn uống bình thường bởi vì ngày nào con cũng dọn mình để được rước Chúa; ngày nào con cũng chuẩn bị sẵn sàng để được gặp Chúa.” Câu chuyện ấy hẳn nhắc nhớ mỗi người chúng ta: Hãy chu toàn bổn phận trong giây phút hiện tại, đó thật là cách chúng ta đón ngày tận thế một cách hiệu quả nhất.
Khi Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận bị cầm tù, ngài không để thời gian qua đi vô ích mà chọn “sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường.”
“Lạy Chúa Giêsu, con sẽ không chờ đợi, con muốn sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình thương. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Ðường hy vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời hy vọng do mỗi phút hy vọng.” (Năm Chiếc Bánh Và Hai Con Cá, Chương I; ÐHV số 978).
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
NGÀY CHÚA TRỞ LẠI
+++
A. DẪN NHẬP
Hôm nay là Chúa nhật 33 thường niên, Chúa nhật áp chót theo niên lịch Phụng vụ; và Chúa nhật tới là Chúa nhật chót được dành để đặc biệt mừng kính Đức Giêsu Kitô Vua. Phụng vụ hôm nay đề cập tới ngày tận thế, ngày chấm dứt lịch sử nhân loại cùng những gì sẽ xẩy ra trong những ngày ấy. Đồng thời trong ngày ấy, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Chúa Giêsu và các môn đệ vừa ra khỏi Đền thờ Giêrusalem, một trong các môn đệ trầm trồ vẻ huy hoàng tráng lệ của Đền thờ và nền tảng vững chắc có thể đứng vững được qua nhiều thê kỷ. Nhưng Đức Giêsu không nói gì thêm mà chỉ làm cho môn đệ ấy cụt hứng khi Ngài nói :”Sẽ chẳng còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”. Do đó, môn đệ muốn biết khi nào Đền thờ sẽ bị tàn phá và cứ dấu hiệu nào để biết. Chúa Giêsu chỉ cho biết sẽ có những điềm lạ trên trời dưới đất làm cho người ta kinh sợ. Cứ nhìn cây vả thì biết…
Chúa Giêsu báo trước Đền thờ Giêrusalem sẽ bị phá hủy trong thế hệ này, nhưng cũng trong dịp này Ngài báo trước ngày thế giới sẽ bị tàn phá, tức là ngày tận thế, và cũng có những điềm lạ báo trước. Tuy nhiên, không ai có thể biết trước được ngày tận thế vì đó là chương trình bí mật của Chúa Cha. Việc cần thiết chúng ta phải làm là chờ đợi trong tin yêu và hy vọng, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong việc yêu thương và phục vụ mọi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Đn 12,1-3.
Đây là một trong những đoạn quan trọn nhất của Cựu Ước nói về việc phục sinh kẻ chết vào thời sau hết. Và khi ấy sẽ có cuộc ân thưởng dứt khoát.
Vào thế kỷ thứ 3 trước Chúa Giáng sinh, Antiôkô Epiphane đã phát động một cuộc bách hại dữ dội chống lại dân Do thái. Tiên tri Đaniel đưa đến cho dân một sứ điệp hy vọng : vào giờ ấn định, Thiên Chúa sẽ can thiệt để che chở họ. Đối với những kẻ đã chết, họ sẽ chỗi dậy từ bụi đất dưới mộ sâu để hưởng một cuộc vinh quang.
Thật vậy, sẽ có một cuộc ân thưởng dứt khoát. Trong khi những người công chính sẽ sống lại để hưởng cuộc sống vĩnh cửu, thì những kẻ khác cũng sống lại, nhưng để chịu hình phạt đời đời.
+ Bài đọc 2 : Dt 10,11-14.18
Tác giả thư Do thái làm một cuộc so sánh giữa các thượng tế Do thái với Đức Giêsu Thượng tế để cho thấy hy lễ của Đức Giêsu dâng trên thập giá lại trổi vượt bội phần mọi hy tế khác.
Những thứ hy tế mà thượng tế Do thái dâng trong đền thờ chẳng thể nào xóa bỏ được tội lỗi, còn hy tế của Đức Giêsu Thượng tế xóa sạch tội lỗi của loài người.
Ngoài ra, các thượng tế Do thái phải dâng đi dâng lại mỗi ngày cũng ngần ấy thứ hy tế, còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ dâng có một lần là đủ và sau đó lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời.
+ Bài Tin mừng : Mc 13,24-32
Nền tảng của đoạn văn này là một bài khải huyền Do thái viết trước năm 70 trong tâm trạng lo âu bồn chồn sợ Giêrusalem bị tàn phá, bài viết đầy những trích dẫn Sách Thánh…
Các Kitô hữu gốc Do thái dựa trên bài khải huyền này để cho rằng việc Giêrusalem bị tàn phá trùng hợp với Ngày Đấng Phục sinh ngự đến.
Thực sự, Đức Giêsu chỉ loan báo cuộc trở lại vinh quang của Ngài vào thời sau hết, còn ngày giờ thì không ai biết. Còn ví dụ cây vả và thời điểm của “ngày giờ đó” chỉ lên quan đến sự sụp đổ của Giêrusalem mà thôi.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ngày tận thế
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày tận thế và những gì xẩy ra trong ngày đó. Chúng ta đều nhìn nhận rằng : bất cứ cái gì ở trần gian, nếu đã có khởi đầu thì chắc chắn sẽ có lúc chấm dứt. Con người sống trong hiện tại, nhưng muốn biết hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới.
I. NÓI VỀ NGÀY TẬN THẾ
1. Chúa Giêsu đã báo trước.
Vào lúc Chúa Giêsu ra khỏi Đền thờ để rồi không bao giờ trở lại nữa, một trong số các môn đệ của Ngài mong muốn Thầy chia sẻ lòng thán phục của mình :”Này Thầy nhìn kìa, những phiến đá rực rỡ biết bao, tòa kiến trúc lộng lẫy chừng nào” ! Đền thờ này đáng thán phục thật !
Theo J. Potin giải thích : Đền thờ do Hêrôđê xây lên đã là một trong những công trình đẹp nhất thế giới. Ngay cả đến Rôma cũng không có được một ngôi đền thờ tôn giáo nào hùng vĩ như vậy. Tính bạo tàn của người xây lên nó cũng giảm bớt hung hãn trước vẻ đẹp tráng lệ của nó; nó còn vượt xa Đền thờ vinh hiển của vua Salômôn. Nền móng vững chắc của nó bảo đảm nó có thể đứng vững nhiều thế kỷ, vẻ sáng ngời của cẩm thạch và vàng bạc trang trí ngời lên đức tin độc thần lan đi khắp cả hành tinh”(Jesus, l’histoire vraie, Centurion, tr 396).
Câu trả lời của Đức Giêsu làm người môn đệ cụt hứng :”Sẽ không còn phiến đá nào chồng trên phiến đá nào”(Mc 13,1-2). Qua câu trả lời đó, môn đệ xin Ngài trả lời những câu hỏi đầy lo lắng của họ :”Xin Thầy nói cho biết các sự việc ấy xẩy ra và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước”(Mc 13,3) .
Chúa Giêsu muốn nói về ngày tàn của thành Giêrusalem vào năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. Trong những ngày ấy sẽ có những dữ kiện xẩy ra trên trời dưới đất…
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Rôma bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã phải chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào”. Còn tương lai xa là ngày tận thế, biến cố đó sẽ xẩy ra và cũng có những điềm báo trước.
2. Những dấu hiệu báo trước.
Chúa Giêsu báo trước trong ngày tận thế , Ngài sẽ trở lại trong vinh vinh quang để phán xét kẻ sống vả kẻ chết. Sẽ có những điềm lạ xẩy ra trên trời dưới đất làm mọi người kinh sợ. Dĩ nhiên các môn đệ muốn biết ngày nào việc ấy xẩy đến, nhưng Chúa Giêsu không nói rõ mà chỉ đưa ra dụ ngôn về cây vả để báo trước ngày đó.
Những người ở ngoài Bắc đều dễ hiểu điều Đức Giêsu nói đây. Cây cối cứ mùa đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Nhìn xem cây cối có thể biết thời tiết, hoặc nói đến hình thức cây cối người ta biết ở vào tháng nào :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Không cần phải có câu “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, ai cũng biết ngay là đã cuối mùa Xuân, sắp sang Hạ.
Đây Chúa nói với những người Palestine nên Chúa dùng ví dụ cây vả. Tại Giuđê, cây vả rụng lá vào mùa đông và đâm chồi nảy lộc vào tháng 3, hè vào tháng 6. Vậy khi đâm chồi là dấu sắp tới hè.
Cũng thế, có những dấu báo trước biến cố sẽ đến. Biến cố đây là biến cố nào ? Biến cố nói ở câu 4-19 về việc phá hủy đền thờ và thành Giêrusalem. Những ai tỉnh táo có thể lợi dụng mà thoát thân.
Đức Giêsu đã khẳng định rõ ràng :”Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến”(Mc 13,26). Chưa bao giờø từ lúc Người sinh ra một cách nghèo nàn trong chuồng bò ở Belem cho đến hôm nay, Đức Giêsu đã nói về Người như thế. Bỗng nhiên, Người trở nên cao cả, vĩ đại, vinh hiển, từ trên cõi trời ! Người tự nói Người là thẩm phán ngày cánh chung, mà vai trò này chỉ dành cho Thiên Chúa. Rõ ràng là thế, Người sẽ lặp lại điều này trước Thượng Hội đồng, vài ngày nữa (Mc 14,62)
3. Không ai biết được điều đó.
Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định :”Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Con Người đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi”(Mc 13,32). Đúng vậy, Đức Giêsu với tư cách là Thiên Chúa thì Người biết điều đó, nhưng với tư thế là con người nhân loại như chúng ta thì Ngài không biết.
Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế ? Thánh Augustinô đã trả lời dứt kgoát :”Việc này hoàn toàn nằm trong quyền hạn của Thiên Chúa”. Nơi khác, ngài còn nói :”Đức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai họa trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn cho chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Vì thế Seneca nói :”Ngày mà bạn cho là tận cùng của mọi sự , lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúa Giêsu đã khẳng định rằng không ai biết được ngày tận thế, vậy mà có kẻ dám cướp quyền Chúa mà tuyên bố đích xác ngày tận thế.
Truyện : Tận thế ngày 14/07/1960
Các báo chí hoàn cầu nhao nhao bình luận và băn khoăn tự hỏi :
– Phải chăng đã đến ngày “Tận thế” ?
Thế rồi, lửa đỏ lại bỏ thêm rơm ! Thình lình người ta tung ra lời tiên tri EMMAN, rụng rời nghẹt thở : Tận thế ! Ngày 14/07/1960 sẽ là ngày tận thế.
Kinh khủng ! Nhiều nơi, các thợ thuyền đình công. Các phu hầm mỏ chạy lên núi .. chờ chết.
May phước thay ! Ngày tận thế EMMAN đã qua đi như cơn ác mộng.
Lại một tin giật gân nữa ! Dạo cuối tháng 10/1992, có hàng chục ngàn tín đồ Nam Hàn thuộc một giáo phái đã tụ tập tại hơn 150 nhà thờ để đón Chúa quang lâm và phán xét thế gian. Theo giới lãnh đạo của giáo phái này, ngày tận thế sẽ xẩy ra vào đúng nửa đêm 28/10/1992. Họ trương nhiều biểu ngữ với câu :”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”.
Trong khi đó, hàng ngàn cảnh sát Nam Hàn được đặt trong tình trạng báo động trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu tận thế không xẩy đến. Bởi vì, nhiều người đã bỏ tài sản, gia đình để chuẩn bị cho biến cố này. Thế nhưng, cuối cùng tận thế đã không xẩy ra, nên giáo phái này đã tự động giải tán.
II. THÁI ĐỘ CẦN PHẢI CÓ
1. Chuẩn bị tâm hồn.
a) Chuẩn bị cho ngày tận thế.
Chúa Giêsu báo trước cho chúng ta là sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến”(2Tm 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ :”Ngài sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa Giêsu Kitô”(Tt 2,13).
Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là :vì thân phận con người mỏng dòn và yêu đuối, chúng ta hãy sống trong”tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào”.
b) Chuẩn bị cho ngày chết của mình.
Mọi người đều phải chết, đây là án lệnh của Thiên Chúa sau khi tổ tông loài người phạm tội :”Ngươi là bụi đất và sẽ trở về cùng bụi đất”. Loài người cũng phải nhìn nhận ra cái thực trạng này là “sinh, lão, bệnh, tử”, ai cũng phải chết, chỉ có điều là kẻ chết trước người chết sau. Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất, còn cái chết cuối cùng của nhân loại là ai, ở đâu, vào lúc nào… Điều đó không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công vụ Tông đồ có viết :”Anh em không cần biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyến sắp đặt”(Cv 1,7).
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến lúc chúng ta sẽ phải gặp Chúa Giêsu – vào cuối đời chúng ta hoặc vào lúc tận cùng thế giới – bất kỳ lúc nào xẩy ra. Thái độ của chúng ta là bình tĩnh chờ đợi :”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”(Mt 24,44; Lc 12,40).
Trong cuốn “God’s Trombones” (Tiếng kèn của Chúa) tác giả Weldon Johnson có mô tả cái chết của một phụ nữ thánh thiện như sau :”Chị đã thấy những cái chúng ta không thấy được. Chị đã thấy Thần Chết. Chị đã thấy ông ta đến như một ngôi sao băng. Nhưng cái chết đâu có làm cho chị nữ tu Caroline sợ hãi. Chị đã nhìn Thần Chết như một người bạn thân, như một vị khách quí. Chị đã thì thầm nói với chúng tôi :”Tôi đang trở về nhà tôi”. Rồi chị mỉm cười nhắm mắt lại”.
2. Tiêu chuẩn của ngày phán xét.
Kitô giáo tuyên xưng có một ngày tận thế, nhưng ngày ấy xẩy đến lúc nào thì không ai biết được, ngoại trừ một mình Thiên Chúa. Khi loan báo về ngày tận thế, Đức Giêsu cũng nói đến ngày Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét nhân loại.
Trong ngày phán xét ấy, Đức Kitô muốn nêu bật chiều kích cộng đồng của Ơn Cứu Độ :
Con người không được cứu rỗi riêng lẻ, nhưng trong một cộng đồng. Đường về nhà Cha không phải là con đường đơn độc, nhưng trong đó mọi người cùng nắm tay nhau tiến bước. Chính vì thế, trong ngày phán xét, Đức Kitô không xét xử con người dựa trên một tiêu chuẩn nào khác ngoài tiêu chuẩn duy nhất, đó là tình yêu. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ khước từ yêu thương sẽ sống lại để rồi bị trầm luân muôn kiếp.
Nữ bác sĩ Kubler-Ross, thuộc trường đại học Chicago có viết một cuốn sách nhan đề :”Death and Dying” (Chết và hấp hối). Cuốn sách được viết ra là vì bà thường xuyên tiếp xúc với những bệnh nhân sắp chết. Bàn về những cảm nghĩ của những bệnh nhân ấy về cuộc sống lúc họ nhìn lại quá khứ khi đối diện với cái chết, bà viết :”Khi phân tích mọi sự lần cuối cùng, họ thấy rằng chỉ có hai điều này là quan trọng thôi : Tình yêu đối với tha nhân, và tinh thần phục vụ tha nhân. Tất cả những gì khác mà ta đã từng cho là quan trọng, chẳng hạn như danh tiếng, tiền bạc, uy tín , quyền lực, thì đều là vô nghĩa”.
Nhận xét này hoàn toàn phù hợp điều Chúa Giêsu dạy bảo lúc Ngài còn ở dương thế, Ngài nói :”Con người không đến để được phục vụ, mà Người đến để phục vụ”(Mc 10,45) và Ngài cũng nói :”Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12).
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa : Ngày ấy “Những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3). Đó cũng là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
3. Chờ đợi trong tin tưởng và hân hoan.
Những Kitô hữu đầu tiên đã mong ước mãnh liệt ngày “trở lại của Chúa” mà tiếng Hy lạp gọi là “Parousie”. Trong Tân ước người ta gặp được nhiều lần từ huyền nhiệm này : MARANATHA
(1Cr 16,22; Kh 22,20). Đó là kiểu nói Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, đã được đưa vào phụng vụ ban đầu có nghĩa là “Lạy Chúa, xin hãy đến”.
Đó là niềm hy vọng làm vang lên lời cầu xin của các tín hữu ban đầu, và ngày nay trong Thánh lễ, sau truyền phép , chúng ta đồng thanh dâng lên lời cầu xin tha thiết như thế :”Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến ! Tại sao chúng ta lại không hát với các Kitô hữu đầu tiên trong cùng một âm tiếng của Đức Giêsu “Maranatha” !
E/ Các bài suy niệm khác
- Anh Em Hãy Biết
- THẾ GIỚI NÀY SẼ QUA ĐI
- THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG
- Tin Và Hy Vọng Vào Lời Chúa
- CHỜ MONG NGÀY QUANG LÂM
- SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA LẠI ĐẾN
- THỜI SAU CÙNG
- NHẬN BIẾT DẤU HIỆU NGÀY CHÚA ĐẾN
- CHÚNG TA CÓ LÀ NHỮNG KẺ ĐƯỢC TUYỂN CHỌN KHÔNG?
- Thời kỳ cuối cùng
- CON NGƯỜI ĐẾN TRONG VINH QUANG RẠNG NGỜI
- SẴN SÀNG ĐÓN CHỜ CHÚA LẠI ĐẾN
- HY SINH KHÔNG SỜN