ĐỐI THOẠI VỚI MỌI NGƯỜI
& MỌI DÂN TỘC ÐỂ TRUYỀN GIÁO
(HƯỚNG VỀ ĐẠI HỘI TRUYỀN GIÁO Á CHÂU TẠI CHIANG MAI, THÁI LAN, 18-22.10.2006)
VÀO ĐỀ
Từ ngày 18 đến ngày 22.10.2006 tại Chiêng Mai (Thái Lan) sẽ diễn ra Đại Hội Truyền Giáo của các Giáo Hội Công Giáo Á Châu lần thứ I. Chủ đề được chọn cho Đại Hội Truyền Giáo lần I này là “KỂ VỀ CHÚA GIÊSU Ở CHÂU Á = TELLING THE STORY OF JESUS IN ASIA” (xin phép được thêm: “VÀ CHO NGƯỜI Á CHÂU”). Theo một bản tin được đưa trên UCA NEWS thì Đại Hội sẽ tập trung vào 4 khía cạnh của chủ đề trên: Khía cạnh thứ nhất là câu chuyện của Chúa Giêsu nơi các dân tộc Á Châu (trong gia đình, giới trẻ, phụ nữ, di dân). Khía cạnh thứ hai là câu chuyện của Chúa Giêsu trong các tôn giáo của Châu Á (Phật Giáo, Hồi Giáo, các tôn giáo truyền thống). Khía cạnh thứ ba là câu chuyện của các nền văn hóa Á Châu có liên quan tới Chúa Giêsu (văn hóa bản xứ, văn hóa đương thời, văn hóa truyền thống). Khía cạnh cuối cùng là câu chuyện về cách thức Con Thiên Chúa hướng dẫn đời sống Hội Thánh tại Châu Á (các Thánh người Châu Á, sự thánh thiện, Ðức Mẹ Maria).
Để thể hiện sự hiệp thông với các đại biểu dự Đại Hội Truyền Giáo các Giáo Hội Công Giáo Á Châu lần thứ I nói trên và cũng để tiếp nối các đề tài về Ðường Lối Truyền Giáo, bài 14 này sẽ trình bày việc Đối Thoại với mọi người và mọi dân tộc nói chung, với mọi người và dân tộc Việt Nam nói riêng, như một Đường Lối Truyền Giáo của Giáo Hội ngày nay.
TRÌNH BÀY
I. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ CÁCH TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỐI THOẠI
1.1 Ý nghĩa của đối thoại:
“Đối thoại có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
* Trước hết, ở cấp độ thuần túy con người, nó có nghĩa là thông tin cho nhau nhằm đưa đến một mục đích chung, hoặc ở một cấp độ sâu xa hơn, nó nhằm nói đến một sự hiệp thông liên nhân vị (giữa con người với nhau).
* Thứ đến, đối thoại có thể sử dụng theo nghĩa một thái độ cung kính và thân thiện (lãnh vực hành động), thấm nhập hoặc cần thấm nhập tất cả các sinh hoạt cấu tạo nên sứ mệnh truyền bá Phúc Âm của Giáo Hội. Đúng hơn gọi là “tinh thần đối thoại”.
* Nghĩa thứ ba nằm trong một bối cảnh của thực trạng đa tôn giáo, đối thoại có nghĩa là “toàn bộ những tương quan liên tôn, tích cực và xây dựng, với những người và những cộng đồng của các tín ngưỡng dị biệt, nhằm tìm cách quen biết nhau và làm phong phú cho nhau” (1).
1.2 Tầm quan trọng của đối thoại:
“Trong thời gian nhóm họp Công Đồng Vatican II, Đức Phaolô VI trong Thông Điệp “Ecclesiam Suam” đã tuyên bố rằng, vấn đề quan hệ giữa Giáo hội và thế giới hôm nay chính là một trong những mối bận tâm lớn nhất của thời đại. Ngài viết rằng “vấn đề ấy đã xuất hiện và mang tính khẩn trương tới mức tạo ra một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, cũng như trở thành một yếu tố kích thích, một lời mời gọi chúng ta”. Kể từ Công Đồng ấy, Giáo Hội luôn tỏ ý muốn theo đuổi quan hệ ấy trong tinh thần đối thoại. Tuy nhiên, muốn đối thoại không phải chỉ là một chiến thuật để sống chung hòa bình giữa các dân tộc; nhưng đó là một phần thiết yếu trong sứ mạng Giáo Hội, vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương của Chúa Cha với nhân loại thông qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng của mình theo một cách giống như cách Thiên Chúa đã làm trong Đức Giêsu Kitô: Ngài đã trở thành con người, chia sẻ cuộc sống con người và nói bằng ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề xuất được xây dựng dựa trên nền tảng là logic của sự Nhập Thể (đã làm người, thì sinh sống ăn nói như mọi người, với mọi người để loan báo và thực hiện sứ điệp cứu độ). Bởi đó không phải vì điều gì khác hơn là do liên đới một cách nhiệt tình, vô vị lợi mà Giáo Hội đã mở cuộc đối thoại với những con người Á Châu đang tìm kiếm sự thật trong tình thương” (2).
1.3 Mọi người và mọi dân tộc là đối tượng đối thoại chung của người / Giáo Hội Công Giáo:
“Là bí tích của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo Hội không thể làm gì khác hơn là tham gia đối thoại với mọi dân tộc, vào mọi thời và ở mọi nơi. Để đáp trả sứ mạng đã lãnh nhận, Giáo Hội ra đi gặp gỡ các dân tộc trên thế giới, và ý thức mình là “đàn chiên nhỏ” giữa tập thể nhân loại rộng lớn (x. Lc 12,32), nhưng cũng ý thức mình là men trong khối bột của thế giới (x. Mt 13,33)” (3).
1.4 Mọi người Việt Nam và dân tộc Việt Nam là đối tượng đối thoại của riêng người / Giáo Hội Công Giáo Việt Nam:
Hệ luận đương nhiên của khẳng trên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là: Người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải đối thoại với mọi người Việt Nam và với dân tộc Việt Nam. Thư Chung 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã khẳng định mối tương quan mật thiết giữa người và Giáo Hội Công Giáo và mọi người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, vì đất nước Việt Nam là mảnh đất chung của người không Công Giáo và Công Giáo Việt Nam; dân tộc Việt Nam là đối tượng phục vụ của người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Dân tộc Việt Nam hơn 80 triệu người Việt Nam thuộc 54 sắc tộc, sống trên mảnh đất hình chữ S từ biên giới Trung -Việt đến Mũi Cà Mâu, từ biên giới Lào-Campuchia-Việt Nam đến Biển Đông. Trong số hơn 80 triệu người Việt Nam mới chỉ có khoảng 7-8 triệu người đã biết Chúa Giêsu Kitô. Do đó việc “kể về Đức Giêsu ở Việt Nam và cho người Việt Nam” là một sứ mạng lớn lao và trọng đại vô cùng, đòi người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hết thế hệ này đến thế hệ khác, phải tiếp nối nhau thực hiện.
II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGƯỜI VÀ GIÁO HỘI VIỆT NAM ĐỐI THOẠI ĐƯỢC VỚI MỌI NGƯỜI VIỆT NAM VÀ VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM?
Quả là vấn đề lớn lao không dễ gì có câu trả lời thỏa đáng. Chỉ xin nêu 3 điều cơ bản nhất để gợi ý cho nhiều người cùng suy nghĩ, trao đổi, nghiên cứu và tìm tòi chung.
2.1 Gắn liền với thân phận con người và dân tộc Việt:
Việc người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải làm trước tiên là chấp nhận thân phận của mình gắn liền với thân phận của dân tộc Việt Nam và nhất là của tầng lớp người nghèo, người thiểu số, người bị kỳ thị và bị thiệt thòi nhất. Dân tộc Việt Nam đã bao năm khốn khổ vì chiến tranh, chia rẽ, hận thù, nay còn tiếp tục phải khốn khổ vì đói nghèo, lạc hậu và thiếu tự do, dân chủ. Người và Giáo Hội Công Giáo không thể làm ngơ trước hiện trạng ngổn ngang của đất nước và tiền đồ của Tổ Quốc Việt Nam. Người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải cùng với những người thiện chí, làm hết sức mình để đất nước Việt Nam phát triển, con người Việt Nam được tôn trọng và thăng tiến toàn diện, xã hội Việt Nam được tự do, dân chủ, công bằng và tiến bộ. Nếu cần phải chịu thiệt thòi cách này cách khác, vì mục đích cao cả ấy, thì người và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải sằn sàng chấp nhận, để làm chứng cho Tin Mừng.
2.2 Xác định mình chỉ là đàn chiên nhỏ giữa tập thể rộng lớn:
So với tổng dân số Việt Nam hơn 80 triệu người thì tỷ lệ người Công Giáo mới chỉ là 6-7%, nghĩa là người Công Giáo chỉ là một thiểu số nhỏ bé trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Thái độ thích hợp là sống khiêm nhường, hòa đồng và cộng tác với mọi thành phần để cùng nhau xây dựng một đất nước phát triển cho kịp với thời đại mà vẫn giữ gìn và phát huy được truyền thống văn hóa, tôn giáo của cha ông tổ tiên để lại.
2.3 Xác tín mình là muối, là men, là ánh sáng giữa lòng xã hội Việt Nam:
Tuy chỉ là một thành phần nhỏ trong cộng đồng lớn của dân tộc, nhưng người Kitô hữu Việt Nam phải xác tín vai trò trách nhiệm nặng nề của mình đối với đồng bào ruột thịt và đối với dân tộc Việt Nam. Đó là vai trò và trách nhiệm làm muối, làm men, làm ánh sáng mà Chúa Giêsu Kitô đã giao phó cho từng người khi chịu Phép Thanh Tẩy (4). Đó là vai trò và trách nhiệm – cùng với những người thành tâm yêu nước – xây dựng một xã hội công bằng mà theo đánh giá của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (5) thì đây là công việc cấp bách nhất vì có quá nhiều bất công, chênh lệch về của cải, chức quyền, điều kiện sống và cơ hội tiến thân trong xã hội Việt Nam ta hiện nay .
THAY LỜI KẾT
“Kể về Chúa Giêsu ở Châu Á và cho người Á châu” nói chung và “Kể về Chúa Giêsu ở Việt Nam và cho người Việt Nam” nói riêng là người và Giáo Hội Công Giáo đối thoại với mọi người trên hết và trước hết về phẩm giá và ơn gọi của họ. Phẩm giá và ơn gọi ấy không phải do xã hội hay chế độ chính trị ban cho, mà là do chính Thiên Chúa đã ban cho mỗi người và cho mọi người khi họ được sinh ra làm người. Đó là trách nhiệm và vinh dự của chúng ta là những người đã đón nhận được ánh sáng mạc khải tròn đầy từ Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Kansas City (MO/USA) ngày 17.10.2006
…………………….
Chú thích
(1) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đối thoại và Rao Truyền, số 9.
(2) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 29.
(3) như trên, số 48.
(4) “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,13-16; Mc 9,50; Lc 14, 34-35).
(5) “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.
“Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Kitô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.
“Sự công bằng cần phải đi đôi với lòng tôn trọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Mục Vụ 2006, số 7: Góp phần xây dựng một xã hội công bằng).