VÀO ĐỀ
Chúa Thánh Thần là Người quyết định thành quả của Công Cuộc Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội. Nhưng Chúa Thánh Thần không hoạt động một mình cũng như Chúa Giê-su đã không hoạt động một mình. Trong suốt lịch sử ngàn đời của Dân Chúa, ơn Cứu Độ luôn được đem đến cho con người bằng/qua những con người và nhờ các phương tiện mà Chúa Quan Phòng ban cho con người.
Trong bài này chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề NHÂN SỰ là yếu tố tối cần thiết cho công cuộc Truyền Giáo. Chúng ta có thể gọi là Cán Bộ Truyền Giáo, và nhấn mạnh đến các Tông Đồ Giáo Dân.
TRÌNH BÀY
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA NHÂN SỰ TRUYỀN GIÁO
1.1 Để tạo ra Ơn Cứu độ, Chúa Giê-su đã một mình tự hiến trên cây thập giá. Nhưng để ban tặng ơn ấy cho nhân loại, Ngài đã tuyển chọn và huấn luyện 12 Tông Đồ để rồi sai họ đến với muôn dân. Chúa Thánh Thần đã kiện toàn công trình đào tạo các Tông Đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Cv 2,1-12). Các Tông Đồ đã ra đi như Chúa Giê-su truyền và đã làm nên đại sự nhờ năng lực Chúa Thánh Thần ban. Sứ vụ Loan Báo Tin Mừng đương nhiên là kéo dài cho đến tận thế như Đức Giê-su gợi ý: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Các Tông Đồ, theo đúng bài học Thày chí thánh để lại, cũng đã tuyển mộ học trò, huấn luyện họ rồi sai họ đi.
1.2 Nếu đọc Tông Đồ Công Vụ và lịch sử của Giáo Hội Công Giáo những thế kỷ đầu, chúng ta sẽ thấy vai trò nổi bật của giáo dân, nam có nữ có trong việc đem Chúa và Tin Mừng Cứu Độ đến cho dân ngoại. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cũng có sự đóng góp lớn lao của hàng ngũ giáo dân. Trong số 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta có 96 Thánh là người Việt Nam trong số đó có 37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân.
1.3 Nhưng chúng ta cũng phải đau buồn mà nhận rằng trong lịch sử Giáo Hội, đã có một thời gian khá dài đại đa số người Công Giáo, kể cả các vị lãnh đạo, đã ngộ nhận mà hiểu sai rằng: chỉ có các linh mục và tu sĩ nam nữ mới có Ơn Gọi và Sứ Mạng Truyền Giáo; còn giáo dân thì không có ơn gọi và sứ mạng gì hết, nên cứ việc ngồi chơi xơi nước, không phải làm gì cả, chỉ cần giữ đạo để khỏi phải sa hỏa ngục là đủ rồi! Để diễn tả thực trạng tâm lý ấy, người ta đã mượn hình ảnh một con thuyền để trình bày Giáo Hội. Chất đầy các khoang thuyền là giáo dân nam nữ, già trẻ, lớn bé. Những người đứng ở mũi thuyền để lái và đứng đằng sau thuyền cố sức chèo cho thuyền lướt trên mặt nước là các linh mục và tu sĩ. Người ta cũng trình bày Giáo Hội như một chiếc xe không động cơ, trên xe là giáo dân ngồi chen chúc, thái độ tỉnh khô và bất cần; trong khi hai bên và phía sau xe là các linh mục và tu sĩ dùng hết sức bình sinh để đẩy chiếc xe tiến về phía trước, mồ hôi nhễ nhại,
1.4 Nhờ ảnh hưởng của phong trào thánh kinh và nhiều phong trào giáo dân và nhất là của Công Đồng Vatican II (1962-1965) trong thế kỷ XX, Giáo Hội nói chung và các vị lãnh đạo nói riêng đã quan tâm đến việc huy động giáo dân – là lực lượng chiếm đại đa số trong Giáo Hội – vào việc chèo thuyền và đẩy xe Giáo Hội. Vì thế mới có nhiều người thành tâm thiện chí, nhiệt tâm với sứ vụ cứu rỗi anh em, đã gia nhập hàng ngũ Tông Đồ. Họ thuộc đủ mọi thành phần dân Chúa: giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân; đủ mọi lối sống; đủ mọi ngành nghề; thuộc cả hai phái nam và nữ. Họ được Chúa Thánh Thần ban phát các đặc sủng để mưu cầu lợi ích cho Giáo Hội và Chúa Giê-su linh hứng ơn gọi truyền giáo trong tâm hồn từng người. Họ đã cống hiến cuộc đời cho sứ vụ sai đi và đã góp phần mở mang Nước Chúa mỗi ngày mỗi rộng khắp. Nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng phần đông những người giáo dân đã quá quen với cách sống thờ ơ thụ động của mười mấy thế kỷ nên chưa kịp thích ứng với hoàn cảnh mới, chưa đóng góp được gì nhiều; trong khi đó một số khá nhiều giáo dân trong nhiều Giáo Hội Tây Phương, vì không tìm thấy chỗ của mình trong lòng Giáo Hội Công Giáo, nên đã lẳng lặng ra đi mà không nói lời từ giã.
II. NHẬN DIỆN VỀ NHÂN SỰ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngoài các linh mục và tu sĩ nam nữ hoạt động trên cánh đồng Truyền Giáo, nếu quan sát sinh hoạt của bất kỳ giáo xứ hay cộng đoàn Ki-tô hữu nào chúng ta cũng thấy nổi bật ba hạng người sau đây có công đóng góp lớn nhất vào việc Loan Báo Tin Mừng và Huấn Luyện Đức Tin. Đó là: (1) Các Thành Viên Hội Đồng Giáo Xứ và Ban Điều Hành các Giáo Họ (Khu/Xóm Giáo; (2) Các Giáo Lý Viên; (3) Các Hội Viên Hội Đoàn Tông Đồ hay Công Giáo Tiến Hành.
2.1 Các Thành Viên của Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ và của Ban Điều Hành các Giáo Họ (Khu/Xóm Giáo):
Dù thế nào đi nữa thì các thành viên của Hội Đồng Mục vụ Giáo xứ cũng như của Ban Điều Hành các Giáo Họ hay Khu / Xóm Giáo (tức các chánh phó trương, trùm trưởng trùm phó theo tiếng gọi ngày xưa) cũng là những người làm việc trực tiếp với các linh mục và ở nằm giữa thượng tầng của Giáo Xứ là linh mục và hạ tầng của Giáo Xứ là giáo dân.
Ở một số Giáo Xứ thì những người này có vai trò khá quan trọng trong việc duy trì, định hướng và phát triển các sinh hoạt của Giáo Xứ.
Ở một số Giáo Xứ khác thì họ chỉ thuần túy là những người thừa hành, thậm chí là người để các linh mục chánh phó xứ sai bảo. Nhưng dù có như thế thì nếu thiếu họ, nhiều công việc quan trọng không có ai thực hiện nên cũng không thể coi thường vai trò của những người này.
Nếu các linh mục chính xứ biết noi gương, học hỏi Chúa Giê-su trong việc tuyển chọn, huấn luyện và đào tạo các Tông Đồ thì các ngài có thể biến những người này thành các Cán Bộ Tông Đồ Giáo Dân đích thực tức nhiệt thành và hữu hiệu. Chỉ tíếc là có nhiều linh mục cai quản một giáo xứ trong vòng 30-40 năm mà không đào tạo được đến một tiểu đội (12 người) Tông Đồ Giáo Dân đích thực!
2.2 Các Giáo Lý Viên:
Ngoài thành phần giáo dân kể trên, một thành phần khá quan trọng khác trong sinh hoạt của một Giáo Xứ là các Giáo Lý Viên. Có thể nói ở hầu hết các Giáo Xứ Việt Nam hiện nay, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, việc dạy Giáo Lý Khai Tâm, Rước Lễ và Thêm Sức… cho trẻ em và thiếu niên là trăm phần trăm được giao cho Giáo Dân. Các linh mục chỉ còn dạy Giáo Lý Hôn Nhân và Dự Tòng mà thôi. Nhưng trong nhiều Giáo Xứ việc dạy Giáo lý Hôn Nhân và Dự Tòng cũng được giao cho Giáo Dân.
Ở một số Giáo Xứ thì các Giáo Lý Viên rất được trân trọng, quý mến, từ cha chính xứ đến bà con giáo dân. Nhưng ở một số giáo xứ khác thì họ chẳng được ai quan tâm hỏi han. Thậm chí việc tuyển chọn, huấn luyện thành phần này cũng chẳng được cha xứ ngó ngàng tới. Làm ở Học viện Mục Vụ Sàigòn, tôi biết có nhiều Giáo Xứ lên danh sách Giáo Lý viên đến Học viên đăng ký cho các em tham dự các Khóa Đào Tạo về Su Phạm Giáo Lý và đóng tiền học phí cho các em. Nhưng cũng có nhiều Giáo Xứ chẳng hề bận tâm đến việc này. Không ít Giáo Lý Viên tự ghi danh và tự đóng tiền học.
Cũng nên ghi nhận một nhu cầu thực tế mà nhiều Giáo Xứ, nhất là ở thành thị, chưa biết giải quyết cách nào, đó là làm sao có các Giáo Lý Viên Gia Đình, nghĩa là Giáo Lý Viên đến tận các gia đình để dạy Giáo Lý cho những người già cả, bệnh tật không thể đi xa được hoặc những người còn trẻ nhưng quá vất vả vi cuộc sống khó khăn không có thời gian theo học các Khóa do Giáo Xứ tổ chức.
Một hiện tượng khác đang làm nhức đầu các linh mục coi xứ vùng nông thôn: đó là các Giáo Lý Viên, phần đông là còn trẻ, kẻ trước người sau, theo nhau ra thành phố học hành, kiếm việc, làm ăn, sinh sống. Giáo Xứ miền quê đã nghèo nay lại nghèo thêm vì mất dần người. Đây là hệ quả không thể đảo ngược được của nền kinh tế thị trường. Phải chăng các Giáo Xứ nên nhắm đến các giáo viên trong Giáo Xứ mà vận động họ tham gia vào công việc giáo dục Đức Tin và Truyền Giáo của Giáo Xứ. Thành phần này có nhiều thuận lợi: họ vừa có trình độ vàn hóa và sư phạm, vừa có đời sống và nghề nghiệp ổn định tại địa phương.
2.3 Các Hội Viên Hội Đoàn Tông Đồ hay Công Giáo Tiến Hành:
Một thành phần giáo dân khác thuộc Nhân Sự Truyền Giáo đáng được nên lên ở đây là các Hội Viên Hội Đoàn Tông Đồ hay Công Giáo Tiến Hành. Hiện nay nhiều Hội Đoàn đã hoạt động trở lại và phát triển khá mạnh mẽ. Đó là một điều đáng mừng và rất đáng khích lệ. Một linh mục chính xứ nói với tôi là ngài chủ trương và khuyến khích mỗi người giáo dân tham gia vào một Hội Đoàn, để đời sống tâm linh được trau đồi cao hơn và để cùng anh chị em hội viên làm việc Tông Đồ.
Rất tiếc là một số Hội Đoàn còn tự khép mình trong giới hạn một hội đạo đức có tính cá nhân mà chưa phát huy tính môn đệ Chúa Ki-tô của Bí Tích Rửa Tội. Mọi Ki-tô hữu đều là môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô và một khi đã là môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô thì phải sống hai chiều kích hay hai trách nhiệm gắn liền với nhau: Đó là sống gắn bó mật thiết với Chúa và được Chúa sai đi Truyền Giáo (1).
Có một điều đáng tiếc khác là nhiều Tông Đồ Giáo Dân không được huấn luyện tương đối đầy đủ về Truyền Giáo. Có thể nói các Hội Viên Legio Mariae (Đạo Binh Đức Ma-ri-a) đáng được coi là những Tông Đồ xung kích, dấn thân nhất trong công việc đến thăm các gia đình. Nhưng không chỉ có thiện chí là đủ. Ngoài lời cầu nguyện và lòng khát khao giúp các linh hồn gặp được (hay gặp lại) Chúa, người Tông Đồ cũng cần có kiến thức tối thiểu về tâm lý xã hội, về các tôn giáo tín ngưỡng không phải là Ki-tô giáo, về giáo huấn của Công Đồng Vatican II liên quan tới con người, thực tại trần thế, Ơn Cứu Độ cũng như cách Thiên Chúa Cứu Độ. Tiếc rằng nhiều Hội Đoàn chưa làm được việc này, thậm chí chưa quan tâm đến việc hệ trọng này.
THAY LỜI KẾT
Chúa Thánh Thần là nhân tố quan trọng nhất trong công cuộc Truyền Giáo. Nhân sự Truyền Giáo là nhân tố quan trọng thứ hai. Nhân sự Truyền Giáo phải được hiểu là những người đã được chuẩn bị cho công cuộc Truyền Giáo. Bài sau (bài 5) sẽ đề cập đến vấn đề chuẩn bị hay huấn luyện nhân sự Truyền Giáo, theo biểu đồ năm (5) chữ T: Tinh Thần, Trình Độ, Tâm Lý, Thời Gian và Tài Chánh.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Kansas City (MO/USA) ngày 14.08.2006
…………………….
Chú thích
(1) Xem Mc 3, 13-15: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ.” Trong tông huấn Kitô hữu giáo dân, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã mượn dụ ngôn những người làm vườn nho (Mt 20,1-16) để nhắc nhở hết mọi Ki-tô hữu, giáo sĩ cũng như giáo dân, đều được mời và có trách nhiệm vào làm cho Vườn Nho của Thiên Chúa (xem Christifideles Laici, số 1-3).