KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO NĂM 2023
XIN CHỦ SAI THỢ RA GẶT LÚA VỀ
“Missio” thường được dịch là “truyền giáo”, nên chúng ta thường để ý đến việc truyền đạo, đem Chúa đến cho người khác, mà quên mất “Missio” nghĩa là việc gởi đi, phái đi, sai đi thi hành sứ mạng, thi hành mạng lệnh. Chúng ta chỉ một sứ mạng duy nhất, đó chính là sứ mạng của Đức Kitô, Người được Chúa Cha sai đến thế gian (x. Ga 5,24;17,3); Chúa Kitô Phục Sinh sai Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh (x. Lc 24,49; Ga 15,26). Đức Kitô sai các Tông Đồ và Hội Thánh đi rao giảng Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19; Cv 1,8). Sứ mạng của mỗi người chúng ta xuất phát từ sứ mạng của Đức Kitô. Do đó, “truyền giáo” là thông dự vào và chia sẻ cùng một sứ mạng của Đức Kitô: sứ mạng thì chỉ có một, nhưng bao gồm nhiều sứ vụ khác nhau: sứ vụ tông đồ (apostolat), sứ vụ mục vụ (pastoral), sứ vụ của các mục tử, sứ vụ của người giáo dân, sứ vụ của các nhà giáo dục, sứ vụ của các nhà hoạt động xã hội… Một điều cần lưu ý nữa liên quan đến từ “Missio”: sứ mạng, chúng ta thường thấy trên các thiệp mời của lễ truyền chức phó tế và linh mục là: lãnh nhận tác vụ phó tế, tác vụ linh mục, thiếu mất chữ “thừa”, chữ “thừa” mới cho thấy căn tính và sứ mạng của người lãnh nhận, bởi vì, đương sự không thực hiện tác vụ của chính mình, nhưng, là thi hành tác vụ do sự thừa kế, thừa hưởng, thừa hành, thừa lệnh của Đức Kitô. Do đó, đầy đủ phải là lãnh nhận thừa tác vụ phó tế, thừa tác vụ linh mục.
Đức Giêsu khi thi hành sứ mạng, Người luôn ý thức căn tính của mình là: được sai đến, không phải để làm theo ý mình, nhưng, là làm theo ý Đấng đã sai mình; Lương thực của Người là thi hành ý muốn của Chúa Cha, còn chúng ta, khi thi hành sứ mạng, dường như, chúng ta quên mất căn tính, nguồn cội của mình. Chắc, có lẽ vì thế mà, chúng ta vẫn có rất nhiều chương trình, kế hoạch truyền giáo rất hoành tráng: tốn rất nhiều công sức, và tiền của, nhưng, dường như, việc truyền giáo của chúng ta vẫn không mang lại những hoa trái tốt đẹp như lòng Chúa ước mong.
Để thi hành sứ mạng truyền giáo, chúng ta phải xác tín rằng: Động lực đầu tiên thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng là tình yêu của Ðức Giêsu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Chính tình yêu cứu độ này đã thúc bách chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu? Nếu chúng ta không cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt, để chia sẻ về tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu xin Chúa: chạm đến tâm hồn cứng cỏi của chúng ta, mở rộng cõi lòng băng giá của chúng ta, và lay động con tim thờ ơ lãnh đạm của chúng ta.
Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa với một tấm lòng rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn ta, để ta bắt gặp ánh mắt chan chứa tình yêu của Người. Trong khi thi hành sứ mạng truyền giáo, thật tốt lành biết bao khi ta đứng trước Thánh Giá, hoặc quỳ gối trước Thánh Thể, hay đơn giản chỉ là ở trong sự hiện diện của Chúa để chiêm ngắm Chúa và thầm thĩ với Người. Tốt lành biết mấy khi Người một lần nữa chạm đến cuộc đời chúng ta, và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của Người cho người khác: “Ðiều chúng tôi đã thấy, đã nghe, và đã chạm đến, chúng tôi loan báo lại cho anh em” (1Ga 1,3).
Chúng ta phải thừa nhận rằng: Động lực tốt nhất để loan báo Tin Mừng, đến từ việc chiêm niệm Tin Mừng với tình yêu mến, ước gì chúng ta biết dừng lại bên những trang Thánh Kinh và đọc Lời Chúa với cả tấm lòng. Nếu chúng ta tiếp cận Lời Chúa theo cách này, vẻ đẹp của Lời Chúa khiến chúng ta phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chúng ta hãy nhớ rằng: mình đã được ủy thác một kho tàng quý báu, kho tàng này làm cho chúng ta trở nên người hơn, giúp chúng ta sống một đời sống mới trong Chúa, và chia sẻ đời sống đó cho tất cả mọi người.
Hội Thánh là Đoàn Dân Thiên Chúa: “Xưa kia anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa” (1Pr 2,10). Chúng ta phải ý thức rằng: “Sứ mạng” là niềm say mê của Đức Giêsu, đồng thời, cũng là niềm say mê của Dân Người. Khi đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu tình yêu bừng sáng của Người: trải rộng ra, để ôm trọn tất cả Dân của Người. Bởi vì, Người chọn chúng ta từ giữa muôn dân và sai chúng ta đến với Dân của Người, cho nên, sứ mạng truyền giáo của chúng ta phải đưa chúng ta đến tận trung tâm của Dân Người. “Sứ mạng” ở giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống chúng ta, hay như một thứ đồ trang sức, mà chúng ta có thể tháo cởi; “sứ mạng” này không phải là một “vai phụ”, hay là một thời gian phụ trội trong đời sống chúng ta. Trái lại, “sứ mạng” là điều gì đó chúng ta không thể bứng ra khỏi con người của chúng ta, mà không hủy diệt chính bản thân mình. Chúng ta là “sứ mạng” trên trần gian này, đó là lý do: tại sao chúng ta có mặt ở đây, trong trời đất này.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức rằng: Chỉ một lần chúng ta tách “sứ mạng” ra khỏi cuộc sống của mình, thì ngay lập tức, tất cả mọi sự sẽ trở nên tẻ nhạt, và chúng ta sẽ đi tìm danh vọng, cùng những tham vọng ích kỷ của mình. Khi đó, chúng ta không còn là Đoàn Dân Chúa nữa. Xin cho chúng ta ý thức rằng: Qua sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người, chúng ta được đóng ấn là Đoàn Dân Chúa. Nếu chúng ta có thể giúp: ít nhất cho một người, có một cuộc sống tốt hơn, chỉ điều đó thôi, cũng đủ là hy lễ của cuộc đời chúng ta rồi. Xin cho chúng ta luôn hướng tới mục tiêu trở thành một Dân trung thành của Chúa, với “sứ mạng” mà Chúa đã trao phó cho chúng ta.
Hãy là chứng nhân của Thầy!
Chúa nhật hôm nay (16-10-2022) là Ngày Thế giới Truyền giáo. Có nhiều định nghĩa về truyền giáo, và định nghĩa nào thì cũng nhấn mạnh đến việc giới thiệu Chúa Giê-su và giáo huấn của Người. Do thiếu hiểu biết, người tín hữu giáo dân ít khi ý thức rằng mình cũng là một nhà truyền giáo, vì vậy họ không lưu ý đến bổn phận quan trọng này. Công đồng Vatican II đã khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi” (Sắc lệnh Truyền giáo Ad Gentes, số 2). Nói như thế, có nghĩa nếu Giáo Hội không lo thực thi sứ vụ truyền giáo, thì Giáo Hội đánh mất chính mình, và sự hiện diện của Giáo Hội trên thế gian này sẽ trở thành vô nghĩa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã quả quyết: “Giáo Hội hoặc là lên đường hoặc không còn là Giáo Hội; Giáo Hội hoặc là truyền giáo hoặc không còn là Giáo Hội. Nếu không lên đường, Giáo Hội sẽ mục ruỗng và trở thành một thứ gì đó” (Trả lời hãng tin Công giáo Fides, năm 2019)”. Khẳng định này của Đức Thánh Cha cũng cùng một nội dung với khẳng định của Công đồng.
Nếu năm xưa Đấng Phục sinh đã ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15), thì hôm nay, mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ, vào lúc Thánh lễ kết thúc, vị chủ sự tuyên bố: “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an”. Lời tuyên bố của linh mục chủ sự Thánh lễ, tiếp nối lệnh truyền của Đức Giêsu. Người Kitô hữu, sau khi tham dự Thánh lễ, khởi đầu một cuộc lên đường mới. Thánh sử Mác-cô, sau khi kể lại lệnh truyền của Đức Giêsu và sự việc Người về trời, đã ghi nhận: “Còn các tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20). Cũng như ba tác giả Tin Mừng khác, thánh Mác-cô đã kết thúc tác phẩm của mình một cách lạc quan, đầy hy vọng.
Theo thông lệ, vào Ngày Thế giới Truyền giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho các tín hữu trên toàn thế giới một Sứ điệp. Năm 2022 này, ngài đã chọn chủ đề cho Sứ điệp là “Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy” (Cv 1,8). Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha nêu bật tính cách cá nhân cũng như cộng đoàn của sứ vụ loan báo Tin Mừng: Sứ vụ này mang tính cá nhân, vì mỗi người phải thấm đượm Tin Mừng trước khi có thể loan báo Tin Mừng. Sứ vụ này cũng mang tính tập thể, vì chỉ có thể loan báo Tin Mừng trong sự hiệp thông với Giáo Hội và theo định hướng của Giáo Hội. Những “sáng kiến” tuỳ tiện sẽ gây chia rẽ trong Giáo Hội và cản trở sứ vụ truyền giáo. Đức Thánh Cha đã trích dẫn Tông huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, số 60 như sau: “Loan báo Tin Mừng không phải là một hành vi cá nhân và riêng lẻ đối với bất cứ ai, nhưng nó mang tính Giáo Hội một cách sâu xa. Khi một người giảng thuyết, một giáo lý viên hay một mục tử âm thầm nhất, ở một miền đất xa xăm nhất, rao giảng Phúc Âm, tập hợp cộng đoàn nhỏ bé của mình lại hay ban phát các bí tích, cho dù đơn độc một mình, người ấy đang thực thi một hành vi của Hội Thánh, và hành động của họ chắc chắn gắn liền với hoạt động phúc âm hoá của toàn thể Hội Thánh bởi những tương quan về thể chế, nhưng cũng bởi những sự liên kết vô hình thâm sâu trong trật tự của ân sủng”. Như thế, việc loan báo Tin Mừng phải khởi sự từ chính cá nhân mỗi tín hữu, rồi sau đó, họ nhân danh Giáo Hội và hiệp thông với Giáo Hội trong sứ vụ quan trọng này. Hiện nay, tại Việt Nam, chúng ta thấy có một số nhóm giáo dân khởi xướng và tuyên tuyền những quan điểm lệch lạc về Đức tin và lôi kéo các tín hữu theo họ. Những nhóm này đã và đang gây chia rẽ hoang mang trong các cộng đoàn Đức tin. Một số người bất chấp lời khuyến cáo của các vị có thẩm quyền trong Giáo Hội, tự xưng là những người được “mạc khải”. Những hiện tượng này không phải là mới, nhưng thường thấy trong lịch sử. Những người chủ trương sai lạc, thường vì lý do kiêu ngạo hay vì lợi lộc vật chất. Những khuynh hướng sai lạc, đi ngược lại với thẩm quyền của Giáo Hội địa phương, sớm hay muộn, cũng sẽ tan rã, vì không đến từ Chúa.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa họp Đại hội tại Toà Tổng Giám mục Hà Nội. Trong Thư Chung gửi mọi thành phần Dân Chúa, các vị Chủ chăn của Giáo Hội Công giáo Việt Nam mời gọi các tín hữu hãy thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng một cách cụ thể bằng tình hiệp thông trong đời sống Giáo Hội. “Củng cố tình hiệp thông” là định hướng mục vụ cho năm 2023. Hiệp thông là liên kết với nhau, để cùng nhau thực thi bác ái, sống tinh thần Tin Mừng. Đây đó vẫn còn những chia rẽ trong các cộng đoàn giáo xứ, giáo họ. Những chia rẽ do khác biệt về dòng họ, khác biệt về quan điểm trong xây dựng cơ sở vật chất hay trong cách tổ chức cộng đoàn. Có những chia rẽ nghiêm trọng dẫn đến gương mù trong giáo xứ, làm biến dạng hình ảnh Giáo Hội. Trong Thư Chung năm 2022 này, Các Giám mục đã đưa ra những chỉ dẫn chi tiết cụ thể, để giúp các cá nhân và các cộng đoàn sống tình hiệp thông. Trước hết là hiệp thông với Chúa, qua việc năng đọc Kinh Thánh và cầu nguyện trước Thánh Thể. Sau đó là hiệp thông với nhau, qua những nghĩa cử bác ái. Một khi tình hiệp thông nội bộ Giáo Hội được củng cố, chúng ta mới nói đến việc loan báo Tin Mừng.
“Anh em hãy là chứng nhân của Thầy!”. Lệnh truyền của Đấng Phục sinh vẫn luôn thôi thúc các tín hữu. Xin cho mỗi chúng ta có trái tim rộng mở để đón nhận Lời Chúa và nhiệt tâm loan báo tình thương của Ngài.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI
SUY NIỆM LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay, được Đức Thánh Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.
Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.
Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.
“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.
Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.
“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…”(Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Như Cha đã sai Con vào thế gian
thì Con cũng sai chúng vào thế gian
(Ys 2,1-6; Cv 11,19-26; Yn 17,11b.17-23)
Phúc Âm: Yn 17,11b.17-23
“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.
Ðức Giêsu ngước mắt lên trời và nói rằng: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta.
Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.
Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.
Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một:
Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Suy Niệm:
Áp Chúa Nhật Cuối Tháng 10
Chúa Nhật Truyền Giáo
(Ys 2,1-6; Cv 11,19-26; Yn 17,11b.17-23)
Hôm nay, ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Hội Thánh muốn chúng ta suy nghĩ về việc đem Tin Mừng cứu độ của Chúa Yêsu Kitô đến cho lương dân, để làm cho họ cũng trở nên môn đệ của Người. Chúng ta đừng vội kêu lên: làm sao chúng tôi làm được việc ấy? Ngay việc giữ đạo cũng đã khó rồi, huống nữa còn nói đến việc truyền giáo! Ðàng khác, chúng tôi đến với lương dân như thế nào được? Ai làm việc nhà thay cho chúng tôi? Dễ gì mà tiếp xúc với người ta? Và ai mà lại không có lập trường? Vấn đề làm cho người khác “trở lại” xem ra không còn dễ như ngày trước nữa…
Nhưng nói gì thì nói, rõ ràng Lời Chúa hôm nay muốn sai chúng ta đến với lương dân. Và chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa nếu không thao thức làm cho lương dân trở thành môn đệ của Người. Vậy, chúng ta phải tìm hiểu lý do tại sao chúng ta được sai đi, sai đi để làm gì và phải làm việc ấy thế nào?
- Lý Do Truyền Giáo
Chính Ðức Yêsu hôm nay trong Tin Mừng đã nói lên lý do tại sao chúng ta được sai đến với lương dân. Người nói: “Như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian”. Qua lời vắn tắt ấy, Chúa Yêsu công khai sai các môn đệ của Người đi. Người chọn họ để sai đi. Ơn gọi Kitô hữu và ơn gọi tông đồ là một, vì tông đồ chỉ có nghĩa là được sai đi. Thế nên Công đồng Vatican II đã khẳng định Giáo hội là Giáo hội truyền giáo. Giáo hội gồm những người được sai đi. Và truyền giáo là lẽ sống của Giáo hội. Mọi người trong Giáo hội phải truyền giáo. Không truyền giáo là không thi hành ơn gọi của mình.
Và Chúa Yêsu không thể làm thế khác. Người không thể cứu chuộc ai mà đồng thời lại không sai họ đi. Người không thể nhận ai vào thân thể của mình mà lại không để cho họ thông phần vào sự sống của Người. Mà sự sống của Người là làm theo ý Chúa Cha, là tham dự sự sống của Chúa Cha, là chia sẻ tất cả những gì Chúa Cha có. Thật sự, chẳng ai thấy Chúa Cha bao giờ… Và chẳng ai biết được Người, ngoại trừ Chúa Con. Thếmà Chúa Cha đã cho chúng ta biết: Chúa Cha yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con của Người cho họ để họ được sự sống của Người. Nghĩa là chúng ta đã được biết Chúa Cha là Bác ái, Yêu thương; là Ðấng thương yêu loài người và muốn cứu chuộc loài người. Chính vì lòng yêu thương vô vàn đó mà Người đã sai Con của Người xuống thế. Và Con của Người đến với loài người không để làm công việc nào khác chính là việc thi hành lòng yêu thương của Chúa Cha muốn cứu độ mọi người. Thế nên khi chúng ta đang còn là tội nhân, thì Chúa Con đã hy sinh dâng mình làm lễ tế cứu chuộc chúng ta. Người là Sứ giả của Chúa Cha, là Tông đồ của Chúa Cha sai xuống cứu độ trần gian. Người đã làm công việc ấy khi trở thành giá cứu chuộc mọi người trong mầu nhiệm tử nạn-phục sinh. Và chính khi làm công việc này, Người đã muốn sai chúng ta vào thế gian, như lời bài Tin Mừng hôm nay chúng ta vừa nghe đọc.
Hôm ấy, trước giờ chịu nạn, Chúa Yêsu đã ngước mắt lên cầu nguyện. Người ý thức Chúa Cha đã sai Người vào thế gian. Này đây, Người dâng mình “tự thánh hóa” để thánh hóa chúng ta, tức là cứu độ chúng ta. Không phải để chúng ta tiếp tục sống sự sống của mình và cho mình, nhưng là để chúng ta nhận được sự sống mới đang chảy đến cho các tín hữu của Chúa từ cạnh sườn Ðấng bị đâm thâu, đang thống thiết cầu xin Chúa Cha tha tội cho mọi người. Sự sống mới đến với chúng ta, do đó, là ơn tha thứ, ơn xóa bỏ tội lỗi, ơn giao hòa tội nhân với Thiên Chúa, ơn đưa tội nhân vào dòng nước thanh tẩy, ơn lôi cuốn những ai được tha thứ lại đi cứu vớt người khác. Chính vì thế mà trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Yêsu lại nói: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con”. Nghĩa là không những Ðức Kitô chỉ thánh hóa chúng ta. Người gián tiếp dạy chúng ta đã được thánh hóa thì phải ra đi làm cho kẻ khác cũng được thánh hóa để tất cả nên một.
Như vậy rõ ràng sứ mệnh được sai đi gắn liền với vinh dự được thánh hóa. Ơn gọi truyền giáo gắn liền với danh hiệu Kitô hữu. Hết mọi tín hữu phải làm tôngđồ, cho dù danh xưng này nhiều khi được dành để gọi những người chuyên môn làm việc truyền giáo. Nhưng cho dù có các chuyên viên truyền giáo, hết mọi người vẫn phải truyền giáo vì sự sống mới của Chúa Yêsu mang vào thế gian là chính tình yêu của Chúa Cha muốn cứu vớt mọi người. Ai nhận được sự sống ấy, phải ra công cứu thế; bằng không, nó sẽ không phát triển và dần dần sẽ hao hụt đi. Sự sống mà không vươn lên thì nó sẽ tắt đi. Chỗ nào không truyền giáo, sự sống ở nơi đó sẽ suy yếu.
Ý thức lý do truyền giáo như thế, chúng ta sẽ thấy đây là vấn đề nhiệm vụ và là lẽ sống của chúng ta. Chúng ta bị động, vì bàn tay Chúa đã để trên chúng ta, vì chúng ta đã nhận được sức sống mạnh mẽ của Thiên Chúa muốn cứu vớt mọi người. Chúng ta “bị bắt” làm tiên tri vì Chúa chứ không phải vì người ta, nếu nói được như vậy. Và chúng ta nên nói như thế để khi đến với lương dân, chúng ta không có thái độ tự tôn, coi mình như kẻ làm ơn đến kéo họ ra khỏi nơi tối tăm lầm lạc. Chúng ta sẽ theo gương Chúa Yêsu đã được Chúa Cha sai đến với loài người. Người khiêm tốn đến tìm các người em đi lạc của Nhà Cha trên trời. Người mang tình yêu của gia đình đến. Người khơi lên những tâm tình sâu sắc bị chôn vùi dưới nhiều cảm nghĩ sai lầm. Người dạy chúng ta đến với lương dân như để họ và ta cùng khám phá ra cả hai đều có một Cha chung trên trời và chúng ta thật sự là anh em với nhau. Việc đó làm cho Danh Cha cả sáng, nhưng đồng thời cũng làm cho chính chúng ta hết thảy được thêm phong phú… Truyền giáo như vậy không phải chỉ là trao ban mà còn đón nhận. Và ai dám nói bên nào nặng hơn bên nào? Thực tế nhiều khi chúng ta ra đi chưa làm được gì cho người khác, nhưng đã mang về nhiều kết quả cho mình rồi vì mình đã sống đạo mạnh mẽ. Như vậy, lại thêm lý do nữa để chúng ta nhiệt tình hơn với việc truyền giáo.
- Nhưng Truyền Giáo Thế Nào?
Không ai ra đi nếu không được sai phái. Có những người được chính thức sai đi. Ðó là các nhà truyền giáo. Nhưng chính họ cũng chỉ được sai đi chính thức vì sứ mệnh nội tại của Giáo hội và vì tiếng gọi tông đồ khẩn thiết của chính ơn gọi làm Kitô hữu, như chúng ta đã trình bày ở trên. Do đó, trước khi nói đến việc ra đi đến với lương dân, phải chú trọng đến sức sống Kitô giáo mạnh mẽ ở trong tâm hồn. Thế mà nhiều khi chúng ta không có điều kiện này. Những khi đó, ước gì chúng ta được như Isaia.
Nhà tiên tri hồi ấy sống trong một hoàn cảnh bi đát. Dân Chúa dường như không có tương lai. Miền Bắc và miền Nam không thống nhất. Hai bên càng ngày càng tiêu điều. Chung quanh, các dân tộc chỉ chiến tranh chém giết. Suy nghĩ con người chỉ có bi quan yếm thế. Nhưng nhà Tiên tri có niềm tin vào mạc khải. Ông biết Chúa đã chọn Dân Người. Người muốn cứu độ các dân tộc. Người đã mạc khải như vậy ngay từ thời Abraham. Thế nên Isaia lên tiếng giữa cảnh tang thương. Ông tuyên bố Sion sẽ được khôi phục. Muôn dân sẽ tiến về đó. Khắp nơi sẽ bước theo đường lối của Chúa. Và người ta sẽ uốn lưỡi gươm thành lưỡi cày; và thay vì chém giết lẫn nhau, các dân tộc sẽ hân hoan đồng hành theo ánh sáng của Chúa.
Ở thời bấy giờ mà Isaia đã có được niềm tin như vậy. Ông đã nói lên được kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên Chúa. Và ông không ngớt chia sẻ cái nhìn cứu thế ấy cho mọi người. Còn chúng ta, những người đã được nhìn thấy ơn cứu độ tỏ hiện của Thiên Chúa, nhiều khi chúng ta không nhìn xa thấy rộng. Chúng ta chỉ quanh quẩn với các vấn đề sinh nhai của mình. Chúng ta ít sống bằng niềm tin và không đặt mình vào giòng lịch sử. Thiên Chúa đang đưa lịch sử đi mà chúng ta không tham gia. Người đang đưa muôn dân vào trong Nước của Con Yêu Dấu Người mà chúng ta không để ý nhìn xem. Chỉ vì chúng ta đang sống sự sống của phàm nhân chứ chưa phải sự sống mà Ðức Kitô đã đặt trong chúng ta. Chúng ta sống chứ không phải để Người sống trong chúng ta.
Ngược lại, nếu Người đang sống trong chúng ta thì ít nhất Người cũng làm được công việc Người đang làm ở trên trời mà không có sự cộng tác của chúng ta. Ðó là việc Người cầu bầu, thỉnh nguyện cho tất cả loài người. Người sẽ nói lên như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lạy Cha, Con không những cầu xin cho chúng mà thôi, mà còn cho mọi kẻ tin vào lời chúng nữa để hết thảy nên một”. Và khi đó chúng ta sẽ tự nhiên muốn hợp ý với Người mà cầu nguyện cho việc truyền giáo.
Chúng ta sẽ truyền giáo trước tiên bằng cầu nguyện. Cầu nguyện cho các chuyên viên truyền giáo và các kẻ tin vào lời họ rao giảng. Lời cầu nguyện truyền giáo làm chứng chúng ta kết hiệp với Chúa, Ðấng đầy yêu thương muốn cứu vớt mọi người. Nó chứng tỏ chúng ta có sự sống mạnh mẽ của Chúa, Ðấng hằng sinh ra và tái tạo mọi loài. Nó nói lên lòng bác ái thật sự của chúng ta, không quanh quẩn chỉ nghĩ đến cái thế giới bé nhỏ của mình nhưng luôn luôn có một đức tin công giáo muốn bao trùm tất cả nhân loại. Lời cầu nguyện truyền giáo cho thấy chúng ta đã biết cầu nguyện như Chúa dạy, vì theo kinh “Lạy Cha” chúng ta trước tiên phải cầu cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Thế mà chúng ta lại thường thiếu sót việc cầu nguyện truyền giáo. Và cũng chính vì vậy mà chúng ta không biết làm gì thêm nữa để truyền giáo.
Ngược lại, ai nhiệt tình với việc cầu nguyện truyền giáo sẽ có khả năng làm được nhiều việc khác nữa cho việc Phúa Âm hoá các dân tộc. Họ sẽ như các tín hữu tiên khởi mà bài sách Công vụ các Tông đồ hôm nay còn kể lại. Những người ấy đi đến đâu cũng ưu tư loan Tin Mừng cứu độ của Ðức Kitô cho người khác. Biết nói tiếng Dothái thì họ nói với người Dothái. Mà biết tiếng Hylạp, thì họ nói với người Hylạp. Họ không đến với người ta như các chuyên viên truyền giáo, tức là không đến vì mục đích giảng đạo. Thời cuộc đã phân tán họ đi. Họ đi vì hoàn cảnh bó buộc. Vì lý do sinh sống, nếu được nói như vậy. Nhưng đi đâu họ cũng sống đạo. Và sống đạo là sống đức ái yêu thương của Thiên Chúa, nên ở hoàn cảnh nào họ cũng nói với người ta về Tin Mừng cứu độ của Chúa Yêsu. Họ khuyến khích chúng ta truyền giáo, mặc dầu không phải là các chuyên viên tông đồ. Còn các vị này lại dạy thêm chúng ta một bài học nữa.
Barnaba là một tông đồ. Ông được Hội Thánh cử đến Antiôkia. Thấy công việc truyền giáo ở đấy, ông tạ ơn Chúa và khuyến khích mọi người. Rồi thấy người khác có thể đóng góp vào công việc chung này một cách hữu hiệu, ông đã đi Tarsô tìm Saulô, để ông này trở thành Phaolô Tông đồ các dân ngoại.
Chúng ta cũng năng gặp những hoàn cảnh tương tự. Có người ở ngoài chợ muốn theo đạo hoặc có ngưòi khác ở nơi nọ muốn biết giáo lý. Chúng ta không có khả năng trực tiếp giúp đỡ. Tại sao chúng ta không đi tìm cho họ một người tông đồ? Và tại sao chúng ta không nghĩ đến việc khuyến khích, giúp đỡ các chuyên viên tông đồ? Họ sẽ được sai đi bởi Chúa đang hoặc đã sống trong chúng ta. Và như vậy chúng ta cũng tham gia thật sự vào việc tông đồ của họ.
Têrêsa Hài Ðồng Yêsu này là Bổn mạng các xứ truyền giáo. Người không đặt chân đến một nơi truyền giáo nào; cũng chẳng đào tạo một lớp tông đồ nào để sai đi. Nhưng người chia sẻ tâm tình cứu thế của Chúa. Người cầu nguyện hy sinh cho việc truyền giáo. Người kêu gọi khuyến khích các tâm hồn tông đồ. Người sống như thể đang ra đi, đang rao giảng, đang chịu đau khổ, đang rửa tội cho lương dân. Giáo hội đặt người làm Bổn mạng các xứ truyền giáo để toàn thể Dân Chúa thấy phải tha thiết với việc truyền giáo như thế đó.
Giờ đây, đi vào thánh lễ, chúng ta hãy kết hiệp với Ðức Kitô. Người muốn tự hiến thánh mình để thánh hóa chúng ta và mọi kẻ sẽ tin vào lời chúng ta. Chúng ta hãy dâng mình với Người để được đưa vào mầu nhiệm cứu thế hầu thánh hóa mình ở đây rồi ra đi thánh hóa tha nhân và lương dân trong đời sống, để tất cả nên một trong tình yêu hạnh phúc của Thiên Chúa, Ðấng đã sai Chúa Con vào thế gian thế nào cũng đang muốn sai chúng ta vào thế gian như vậy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)