Lm. Timothy Radcliffe, O.P.
Ngay sau khi cuộc tĩnh tâm của Thượng Hội đồng được khai mạc vào sáng thứ Hai ngày 30/9/2024, Cha Timothy Radcliffe, O.P., nguyên Bề trên tổng quyền Dòng Đa Minh, đã chia sẻ suy tư với chủ đề: “Phục sinh: Tìm kiếm trong bóng tối” cho các tham dự viên khóa họp thứ II của Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục, dự kiến khai mạc vào Thứ Tư, ngày 03/10/2024. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài suy tư của cha Timothy Radcliffe, O.P.
Năm ngoái, trong kỳ tĩnh tâm, chúng ta đã thảo luận về cách lắng nghe nhau. Làm thế nào chúng ta có thể đối diện với những khác biệt của nhau trong hy vọng, mở rộng tâm và trí cho nhau? Một số rào cản đã sụp đổ và tôi hy vọng rằng chúng ta bắt đầu nhìn nhận những người mà ta bất đồng quan điểm không phải là đối thủ mà là những người đồng môn, những người cùng tìm kiếm.
Năm nay, chúng ta có một trọng tâm mới: ”Làm thế nào để trở thành một Giáo hội hiệp hành trong sứ vụ?” Nhưng nền tảng của tất cả những gì chúng ta sẽ làm vẫn như vậy: kiên nhẫn, trí tưởng tượng, trí khôn ngoan, lắng nghe với cái tâm rộng mở. Tôi thậm chí còn nghĩ đến việc lặp lại những bài nói chuyện giống như trong kỳ tĩnh tâm trước, nhưng bạn có thể nhận ra! Cha Herbert McCabe OP vào giờ chót mới nhớ ra cha phải thuyết trình cho một hội thần học danh tiếng. Cha lấy một bài giảng từ tài liệu của mình, nhảy lên xe máy và đến nơi đúng giờ. Khi mở tập bài giảng, người nhận ra bài này đã được thuyết trình cho chính hội này hồi năm trước. ‘Thế cha đã làm gì?’ Tôi hỏi. ‘Thì tôi bỏ bớt đi những chuyện cười. Đó là những điều duy nhất mà mọi người còn nhớ.’ Trí nhớ của bạn chắc chắn tốt hơn.
Lắng nghe sâu sắc vẫn là nền tảng của mọi thứ chúng ta sẽ làm trong năm nay. Theo Instrumentum laboris (IL) – Tài liệu làm việc, đó là ‘hành động đầu tiên của Giáo hội’ (60). Nhà thơ Amos Oz đã nói về ông nội của mình: ‘Ông đã lắng nghe. Ông không chỉ lịch sự giả vờ lắng nghe, trong khi sốt ruột chờ đợi bà nói hết lời và im lặng. Ông không ngắt lời người bạn đời và nói hết lời thay bà. Ông không ngắt lời để tóm tắt những gì bà đang nói để chuyển sang chủ đề khác. Ông không để người đối thoại của mình nói suông trong khi ông chuẩn bị trong đầu câu trả lời mà ông sẽ đưa ra khi bà vừa dứt lời. Ông không giả vờ quan tâm hay thích thú, ông thực sự quan tâm’[1]. Lắng nghe Chúa và anh chị em của chúng ta là kỷ luật của sự thánh thiện.
Năm nay, chúng ta sẽ suy ngẫm về ‘sứ mệnh duy nhất là loan báo Chúa Phục sinh và Tin Mừng của Người’ (Phần Dẫn Nhập IL) cho một thế giới ‘đang sống trong bóng tối và dưới bóng tử thần’ (Lc 1,79). Để hướng dẫn cho bài suy niệm của mình, chúng tôi sẽ lấy bốn cảnh về sự phục sinh từ Tin Mừng của Thánh Gioan: ‘Tìm kiếm trong bóng tối’, ‘Căn phòng khóa chặt’, ‘Người lạ trên bãi biển’ và ‘Ăn sáng với Chúa’. Mỗi cảnh đều làm sáng tỏ cách trở thành một Giáo hội hiệp hành truyền giáo trong thế giới bị đóng đinh của chúng ta.
Cảnh đầu tiên của chúng ta bắt đầu vào ban đêm: ‘Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, Maria Mácđala đã đến mộ’ (20,1). Đây cũng là nơi chúng ta đang ở ngày hôm nay. Thế giới của chúng ta thậm chí còn đen tối hơn vì bạo lực so với một năm trước. Cô ấy đến tìm thi thể của Người Thầy yêu dấu của mình. Chúng ta cũng tụ họp tại Thượng hội đồng này để tìm kiếm Chúa. Ở phương Tây, dường như Thiên Chúa, phần lớn, đã biến mất. Chúng ta không phải đối diện với chủ nghĩa vô thần mà là sự thờ ơ lan rộng. Sự hoài nghi đầu độc ngay cả trái tim của nhiều tín hữu. Nhưng tất cả các Kitô hữu ở khắp mọi nơi đều là những người tìm kiếm Chúa, giống như Maria Mácđala trước bình minh.
Chúng ta cũng có thể cảm thấy như đang trong bóng tối. Kể từ cuộc họp toàn thể cuối cùng, rất nhiều người, bao gồm cả những người tham gia Thượng hội đồng này, đã bày tỏ sự nghi ngờ của họ về việc liệu có đạt được điều gì không. Giống như Maria Mácđala, một số người nói, ‘Tại sao họ lại lấy đi hy vọng của chúng ta? Chúng ta mong đợi rất nhiều từ Thượng hội đồng, nhưng có lẽ sẽ chỉ có nhiều lời hơn.’
Nhưng mặc dù trời tối, Chúa đã hiện diện trong khu vườn với Maria Mácđala và với chúng ta. Trước khi chết, Đức Giêsu đã nói: ‘Nếu một hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái’ (12,24). Hạt giống đã được Giôxép và Nicôđêmô gieo vào đất màu mỡ của khu vườn, được gieo trong một ngôi mộ mới mà chưa ai sử dụng. Nó sắp nở hoa. Bình minh đã gần kề. Giống như Maria Mácđala, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn những gì chúng ta tìm kiếm nếu chúng ta cũng mở lòng để gặp gỡ Chúa.
Trong khu vườn, chúng ta gặp ba người tìm kiếm, Maria Mácđala, Người môn đồ được yêu mến và Simon Phêrô. Mỗi người tìm kiếm Chúa theo cách riêng của mình; mỗi người có cách yêu thương riêng và mỗi người có sự trống rỗng riêng. Mỗi người tìm kiếm này đều có vai trò riêng trong sự khởi đầu của hy vọng. Không có sự cạnh tranh. Sự phụ thuộc lẫn nhau của họ thể hiện cốt lõi của tính hiệp hành. Tất cả chúng ta đều có thể đồng cảm với ít nhất một người trong số họ. Ai là người bạn chọn?
Tomas Halik đã lập luận rằng tương lai của Giáo hội phụ thuộc vào khả năng tiếp cận những người tìm kiếm trong xã hội của chúng ta. Đây thường là những người ‘không có tôn giáo’. Tôi không có ý nói đến các nữ tu chiêm niệm, mà là những người tuyên bố rằng họ không theo tôn giáo nào. Họ cũng thường xuyên tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của mình. Halik viết rằng các Kitô hữu do đó phải sẵn sàng trở thành ‘người tìm kiếm với những người tìm kiếm và là người đặt câu hỏi với những người đặt câu hỏi’[2].
Tất cả các câu chuyện về sự phục sinh đều chứa đầy những câu hỏi. Maria Mácđala đã hai lần được hỏi tại sao cô ấy khóc. Cô ấy hỏi họ đã đặt xác ở đâu. Tất cả họ đều hỏi tại sao ngôi mộ lại trống rỗng. Trong lời kể của thánh Máccô, những người phụ nữ hỏi, ‘Ai sẽ lăn tảng đá ra cho chúng ta?’ (16, 3). Lời kể của Luca về Sự phục sinh đầy những câu hỏi: ‘Tại sao các ngươi tìm kiếm người sống giữa những kẻ chết?’ Đức Giêsu hỏi các môn đồ chạy trốn đến Emmaus, ‘Các anh đang nói về điều gì?’ Sau đó, với tất cả các môn đồ: ‘Tại sao lại sợ hãi? Sao lòng anh em còn ngờ vực?’ (24, 38). Sự phục sinh bùng nổ trong cuộc sống của chúng ta không phải là một tuyên bố đơn thuần về sự việc mà là trong việc tìm kiếm những câu hỏi.
Những câu hỏi sâu sắc không nhằm tìm kiếm thông tin. Chúng mời gọi chúng ta sống theo một cách mới và nói bằng một ngôn ngữ mới. Nhà thơ Rainer Maria Rilke đã viết: ‘Đừng tìm kiếm câu trả lời, những câu trả lời mà không thể được trao cho bạn ngay bây giờ, bởi vì bạn sẽ không thể sống chúng. Và vấn đề là sống mọi thứ. Sống những câu hỏi ngay bây giờ. Có lẽ sau đó, một ngày nào đó trong tương lai xa, bạn sẽ dần dần, thậm chí không nhận ra điều đó, sống theo cách của mình để tìm ra câu trả lời’[3].
Sự phục sinh không phải là sự sống của Đức Giêsu bắt đầu lại sau một sự bùng nổ ngắn ngủi, mà là một cách sống mới trong đó cái chết đã bị chế ngự. Và vì vậy, nó bùng nổ trong cuộc đời của chúng ta trong các Tin Mừng trước tiên như những câu hỏi cấp bách mà chúng sẽ không để chúng ta tiếp tục sống theo cách cũ. Tương tự như vậy, chúng ta đến Thượng hội đồng này với nhiều câu hỏi, ví dụ như về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Đây là những câu hỏi quan trọng. Nhưng chúng không thể được coi là những câu hỏi về việc liệu một điều gì đó sẽ được phép hay bị từ chối. Điều đó sẽ duy trì cùng một loại Giáo hội. Những câu hỏi mà chúng ta phải đối diện nên giống với những câu hỏi trong các sách Tin Mừng hơn, mời gọi chúng ta cùng sống cuộc sống của Đấng Phục sinh một cách sâu sắc hơn.
Và vì vậy, chúng ta phải dám mang đến Thượng hội đồng này những câu hỏi sâu sắc nhất trong lòng mình, những câu hỏi khó sẽ thúc đẩy chúng ta đến với cuộc sống mới. Giống như ba người tìm kiếm trong vườn, chúng ta phải quan tâm đến những câu hỏi của nhau nếu chúng ta muốn tìm ra một cách thức mới để trở thành Giáo hội. Nếu chúng ta không có câu hỏi, hoặc câu hỏi hời hợt, đức tin của chúng ta đã chết. Một vị tổng giám mục nào đó, không có mặt với chúng ta hôm nay, đã nói với một nhóm tập sinh Đa Minh: ‘Hãy đảm bảo rằng tất cả các bạn đã đọc Tổng Luận Thần Học của Thánh Tôma. Nó chứa đựng năm mươi sáu nghìn câu trả lời cho tất cả những ai chỉ trích Giáo hội Công giáo!’[4]. Thánh Tôma hẳn đã rất kinh hoàng. Khi còn nhỏ, câu hỏi đầu tiên của ngài là ‘Thiên Chúa là gì?’ và sự thánh thiện của ngài là từ chối mọi câu trả lời vì, ngài nói, chúng ta được kết hợp với Thiên Chúa như với điều chưa biết.
Nếu chúng ta lắng nghe câu hỏi của nhau một cách tôn trọng và không sợ hãi, chúng ta sẽ tìm ra một cách mới để sống trong Chúa Thánh Thần. Như tôi đã nói vào năm ngoái, phương châm của Học viện Đa Minh ở Baghdad là: ‘Ở đây không có câu hỏi nào bị cấm.’ Chúng ta là Maria Mácđala và Người môn đệ được yêu mến và Simon Phêrô, và chỉ khi cùng nhau, chúng ta mới tìm thấy Chúa đang chờ đợi chúng ta.
Hãy cùng nhìn vào từng người tìm kiếm và xem họ có thể dạy chúng ta điều gì về việc tiếp cận những người tìm kiếm trong thời đại của chúng ta. Maria Mácđala bị thu hút bởi một tình yêu dịu dàng. Đó là tình yêu thực tế, vật chất, bằng xương bằng thịt. Cô ấy muốn chăm sóc cho thân thể của Chúa yêu dấu của mình. Cô ấy chắc chắn đại diện cho tất cả những người có cuộc sống được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn đối với những người bị tổn thương trên thế giới. Mẹ Têrêsa, người đã tìm kiếm thân thể của Chúa trên đường phố Kolkata. Thánh Damien of Molokai đã hy sinh mạng sống của mình cho những người mắc bệnh phong ở Hawaii.
Hãy nghĩ đến hàng triệu người không biết đến Đức Kitô nhưng vẫn tràn đầy lòng trắc ẩn đối với những người đau khổ. Giống như Maria Mácđala, họ đang tìm kiếm thân thể của những người bị thương. Thế giới tràn ngập tiếng khóc. Bốn ngày sau buổi họp toàn thể cuối cùng của Thượng hội đồng, Hamas đã phạm phải những tội ác khủng khiếp khiến Trung Đông chìm vào chiến tranh. Mọi người đang than khóc ở Ukraine và, vâng, ở Nga nữa, trước cái chết và sự tàn tật của hàng trăm ngàn thanh niên, cũng như họ đang khóc ở Sudan và Myanmar. Một trong những nhóm nghiên cứu do Đức Thánh Cha triệu tập có tên là ‘Lắng nghe tiếng kêu của người nghèo’. Nhóm này cũng có thể được gọi là ‘lắng nghe tiếng kêu của những người đang khóc’. Maria Mácđala là vị thánh bảo trợ của họ.
Rồi Maria nghe tên mình: ‘Maria’; ‘Rabbuni’. Thật thích hợp khi người có cuộc sống được thúc đẩy bởi tình yêu thương, dịu dàng, nên lấp đầy sự trống rỗng của mình bằng tên của mình. Cô ấy đã tìm kiếm một thi thể, nhưng cô ấy đã tìm thấy nhiều hơn những gì cô ấy có thể mơ ước, tình yêu sống mãi mãi. Thiên Chúa của chúng ta luôn gọi chúng ta bằng tên. ‘Nhưng bây giờ, đây là lời Đức Chúa phán, lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi Gia-cóp, lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Ít-ra-en: Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về; đã gọi ngươi bằng chính tên người, ngươi là của riêng Ta!’ (Is 43,1).
Tên của cô ấy biểu thị sự gặp gỡ, sự hiện diện của Chúa. Điều đầu tiên xảy ra trong lễ rửa tội là yêu cầu đặt tên. ‘Tên của con là gì?’ hoặc ‘Anh chị đặt tên con là?’ Tên không chỉ là một nhãn dán trên trẻ em để phân biệt chúng với nhau: Điều đó sẽ khiến tôi trở thành Đứa trẻ số 4. Tên của chúng ta là dấu hiệu cho thấy chúng ta được Chúa trân trọng trong sự độc đáo của mình.
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đối chiếu cách mà Hoàng đế La Mã nhìn thế giới, mặc dù một cuộc điều tra dân số đếm số lượng với Chúa của chúng ta: ‘Anh chị em thân mến, đối với Chúa, người đã thay đổi lịch sử trong quá trình điều tra dân số, anh chị em không phải là một con số, mà là một khuôn mặt. … Chúa Kitô không nhìn vào những con số, mà là khuôn mặt.’
Và vì vậy, sứ mệnh của chúng ta cũng là nêu tên Chúa, người đang tìm kiếm chúng ta trong bóng tối. Và cũng trân trọng tên và khuôn mặt của nhau. Chúng ta sẽ chỉ làm trung gian cho sự hiện diện của Chúa nếu chúng ta hiện diện với nhau trong Thượng hội đồng này. Gregory Boyle, SJ, làm việc với các thành viên băng đảng trẻ tuổi ở Los Angeles. Bí quyết của thừa tác vụ của ông là biết tên của họ. Không chỉ là tên chính thức hoặc biệt danh của họ, mà còn là tên mà mẹ họ gọi họ khi họ không tức giận. Khi ông gọi một bạn trẻ bằng tên Lula, ‘bạn sẽ nghĩ rằng tôi đã làm giật điện anh ta. Toàn bộ cơ thể anh ta co giật vì vui mừng khi được biết đến, được gọi, được nghe tên mình được thốt ra thành tiếng. Trong suốt hành trình qua vạch kẻ dành cho người đi bộ, Lula cứ quay lại nhìn tôi, mỉm cười’[5].
Các chế độ độc tài xóa tên và xóa đi khuôn mặt. Ở trại tập trung Auschwitz, Thánh Maximilianô Kolbe đã trở thành tù nhân thứ 16.670. Tổng thống Nga luôn từ chối nêu tên người đàn ông đã dũng cảm phản đối ông, Alexie Navalny. Ông chỉ là ‘một người nào đó’. Tương tự như vậy, Nelson Mandela đã trở thành gương mặt đại diện cho phe đối lập với chế độ phân biệt chủng tộc. Và vì vậy, khi ông bị cầm tù, người ta cấm công bố hình ảnh chân dung của ông. Nó đã bị xóa khỏi ký ức của công chúng. Vì vậy, sau nhiều thập kỷ ở trong tù, khi ông được phép đi dạo trên bãi biển, không ai biết ông. Khuôn mặt của ông đã bị cướp mất sức mạnh của nó.
Thượng hội đồng này sẽ là thời khắc của ân sủng nếu chúng ta nhìn nhau bằng lòng trắc ẩn, và thấy những người giống như chúng ta, đang tìm kiếm. Không phải đại diện của các đảng phái trong Giáo hội, Hồng y bảo thủ khủng khiếp đó, nhà nữ quyền đáng sợ đó! Mà là những người đồng hành tìm kiếm, những người bị tổn thương nhưng vẫn vui vẻ. Tôi phải thú nhận rằng tôi rất tệ trong việc nhớ tên, một phần là vì tôi bị điếc. Đó là lời bào chữa của tôi. Xin hãy tha thứ cho tôi!
Nhưng tình yêu dịu dàng của Maria Mácđala cần được chữa lành. Chúa Giêsu truyền lệnh cho bà: ‘Đừng đụng đến Ta.’ Các nhà chú giải đã đưa ra một số lời giải thích vô lý cho điều này, lời giải thích không hợp lý nhất là vết thương của Đức Giêsu vẫn còn đau! Ngài đang nói rằng bà không thể chiếm hữu riêng Ngài. Sự hiện diện của Ngài đối với bà không phải là của riêng bà. Sự Phục sinh là sự ra đời của cộng đoàn của Ngài. ‘Dân Chúa không bao giờ chỉ đơn thuần là tổng số những người đã chịu phép rửa tội; đúng hơn, đó là ‘chúng ta’ của Giáo hội’ (IL, 3). ‘Nhưng hãy đến với anh em của tôi và nói với họ: “Tôi đang lên cùng Cha của tôi và Cha của anh em, cùng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của anh em”.’ Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng Gioan, ngài gọi các môn đệ là ‘anh em’. Fratelli tutti! Cô ấy phải giải phóng tình yêu của mình khỏi mọi sự độc quyền! Sau đó, cô ấy sẽ sẵn sàng loan báo tin mừng cho các môn đệ: ‘Tôi đã thấy Chúa.’ Đây cũng là thách thức của chúng ta. Không phải bám víu vào Đức Giêsu Anh Quốc của tôi hay Đức Giêsu Đa Minh của tôi, mà là Chúa mà nơi Ngài tất cả chúng ta đều là anh chị em, ngay cả những anh em Dòng Tên! Thượng hội đồng này sẽ có kết quả nếu chúng ta học cách nói “chúng ta”. “Cha của tôi và Cha của bạn, Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của bạn”.
Sau đó là môn đồ mà Chúa yêu. Ông cũng có cách yêu thương và sự trống rỗng của mình, sự tắt ngấm của ánh sáng cuộc đời ông. Ông để cho ông già Phêrô, thở hổn hển, đi vào ngôi mộ tối tăm trước nhưng ông nhìn thấy khoảng không trống rỗng giữa các thiên thần và ông tin. Đây là tình yêu mang lại thị lực. Ubi amor, ibi oculus (Richard of St Victor). Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có thị lực. Ông nhìn bằng đôi mắt của tình yêu và do đó nhìn thấy chiến thắng của tình yêu. Tin Mừng của ông là Tin Mừng của đại bàng, đôi mắt được cho là nhìn thẳng vào ánh sáng mặt trời và không bị mù. Cuộc tìm kiếm của ông mang tính thần học cao nhất.
Năm nay tôi đã dành hai tuần tại École Biblique ở Jerusalem. Các anh em sống trong bóng tối của cái chết, cách Gaza bốn mươi phút. Họ vẫn ở đó, nghiên cứu Lời Chúa, giảng dạy và cầu nguyện. Họ vẫn ở lại như một dấu hiệu cho thấy ‘ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối không chế ngự được ánh sáng’ (Ga 1,5). Sự trống rỗng của Maria Mácđala được chữa lành bằng việc được gọi tên – bằng sự hiện diện – và của tông đồ Chúa yêu bằng ánh sáng chiếu rọi trong ngôi mộ trống. Vì vậy, ông là hiện thân cho tất cả những ai tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, khoảng trống hình dạng Chúa trong trái tim chúng ta, như Blaise Pascal đã nói. Tất nhiên là những nhà tư tưởng Kitô giáo, nhưng cũng là tất cả những ai đấu tranh để tìm kiếm ánh sáng trong bóng tối của nỗi đau khổ của chúng ta: các nhà thơ, nghệ sĩ và nhà làm phim từ chối tin rằng bóng tối đã chiến thắng. Đối với việc rao giảng về sự phục sinh của chúng ta, chúng ta cần họ, hãy mở lòng với sự khôn ngoan của họ, như Thánh Thomas Aquinas đối với Aristotle ngoại giáo. Aquinas đã viết rằng tất cả ‘sự thật bất kể ai nói ra, đều đến từ Chúa Thánh Thần’ (omne verum, a quocumque dicatur, est a Spiritu Sancto)[6].
Rồi đến Simon Phêrô. Sự trống rỗng của ông là nặng nề nhất, gánh nặng của sự thất bại. Ông đã chối bỏ người bạn của mình. Chắc chắn ông khao khát những lời chữa lành cuối cùng sẽ được nói ra trên bãi biển.
Vì vậy, sứ vụ mục vụ của chúng ta cũng là ở bên tất cả những ai đang gánh chịu gánh nặng của sự thất bại và tội lỗi và chia sẻ sự tha thứ mà chúng ta đã nhận được, sự khám phá của riêng chúng ta về ân sủng tuyệt vời của người đã ‘cứu một kẻ khốn khổ như tôi. Tôi đã từng bị lạc nhưng giờ tôi đã được tìm thấy, đã mù nhưng giờ tôi đã thấy.’ Sứ mệnh của chúng ta là nêu tên người nhân từ mà chúng ta cũng cần, giống như Phêrô.
Vì vậy, trong cảnh phục sinh đầu tiên này, chúng ta thấy Chúa đáp lại ba hình thức tìm kiếm tương ứng với ba khoảng trống trong cuộc sống của chúng ta: tình yêu dịu dàng tìm kiếm sự hiện diện; tìm kiếm ý nghĩa và ánh sáng và sự tha thứ. Mỗi người tìm kiếm đều cần người kia. Nếu không có Maria, họ sẽ không đến ngôi mộ. Bà tuyên bố rằng Chúa hiện diện. Nếu không có Người Môn Đệ Yêu Dấu, họ sẽ không hiểu được sự trống rỗng của ngôi mộ là Sự Phục Sinh; nếu không có Thánh Phêrô, họ sẽ không hiểu rằng Sự Phục Sinh là chiến thắng của lòng thương xót.
Mỗi người đại diện cho một nhóm người cảm thấy bị loại trừ theo một cách nào đó tại Đại hội kỳ vừa rồi. Maria Mácđala cũng nhắc nhở chúng ta về cách phụ nữ thường bị loại khỏi các vị trí có thẩm quyền chính thức trong Giáo hội. Làm thế nào chúng ta có thể tìm ra một con đường tiến về phía trước, mà công lý và đức tin của chúng ta đòi hỏi? Cuộc tìm kiếm của họ là của chúng ta. Tại Đại hội kỳ vừa rồi, nhiều nhà thần học cũng cảm thấy bị gạt ra ngoài lề. Một số người tự hỏi tại sao họ lại bận tâm đến. Chúng ta không thể đi đến đâu nếu không có họ. Và nhóm phản đối nhất với con đường Thượng hội đồng là các mục tử (pastors), các linh mục giáo xứ, những người đặc biệt chia sẻ vai trò của Thánh Phêrô là mục tử của lòng thương xót. Giáo hội không thể thực sự trở thành Hiệp hành nếu không có họ.
Khi hầu như mọi người đều cảm thấy rằng họ là những người bị loại trừ, thì không nên có sự cạnh tranh để trở thành nạn nhân! Cuộc tìm kiếm Chúa trong bóng tối cần tất cả những nhân chứng này, cũng như Thượng hội đồng cần tất cả những cách chúng ta yêu thương và tìm kiếm Chúa, cũng như chúng ta cần những người tìm kiếm trong thời đại của chúng ta, ngay cả khi họ không chia sẻ đức tin của chúng ta.
Làm sao để điều này có thể tràn vào sứ vụ? Những lời này được cho là của Antoine de St-Exupery. Chúng thậm chí còn hay hơn những gì ông thực sự viết: ‘Nếu bạn muốn đóng một chiếc thuyền, đừng tập hợp những người đàn ông và phụ nữ của mình lại để ra lệnh cho họ, hoặc giải thích từng chi tiết về những gì họ phải làm hoặc nơi tìm thấy mọi thứ…. Nếu bạn muốn đóng một chiếc thuyền, hãy khơi dậy trong trái tim những người đàn ông và phụ nữ của bạn khát khao biển cả!’[7]. Hãy cho mọi người nếm trải sự vô hạn, và họ sẽ tìm ra cách riêng của mình để đóng thuyền và ra khơi vào đại dương bao la.
Mỗi nhân chứng này đều được chạm đến bởi một tình yêu vô hạn. Maria Mácđala được chạm đến bởi một sự dịu dàng vô hạn; Các môn đồ yêu dấu được xúc động bởi cuộc tìm kiếm ý nghĩa vô biên; Phêrô, được thúc đẩy bởi nhu cầu về lòng thương xót vô hạn, tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Nếu chúng ta mở lòng mình ra với nỗi khao khát vô hạn của nhau, chúng ta sẽ khởi hành con thuyền truyền giáo. Chỉ khi cùng nhau, theo lời của thánh Phaolô trong thư Êphêxô, chúng ta mới có thể để ‘đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa’ (3,18,19).
Chiều nay, chúng ta sẽ lại thấy các môn đồ trong bóng tối, trong căn phòng khóa kín.
Chuyển ngữ: GB. Phạm Hoàng Dũng, O.P.
Hình: ANSA
Nguồn: daminhvn.net – 01/10/2024
______
[1] Amos OZ, A Tale of Love and Darkness, Vintage, London, 2005, p.110.
[2] Tomáš HALÍK, Patience with God, Doubleday, New York, 2009, p.9.
[3] Rainer Maria RILKE, Letters to a young Poet, Letter 4, July 16th 1903. Translated by N. D. Herter Norton, W.W. Norton and Company, 1934.
[4] Paul MURRAY OP, “Dominicans and the Key of Knowledge”, A Talk to Dominican Friars Studying in Rome – PUST, Angelicum, 19 February 2023.
[5] Ibid., p.47.
[6] ST, I II, q.109, a.1, ad 1.
[7] “To create a ship is not to weave sails, forge nails or read the stars, but to give a taste of the sea, which is one, and in the light of which nothing is contradictory but community in love.” (A. SAINT-EXUPÉRY, Citadelle, Gallimard, Paris, 1959, p. 687, trans. ours).