Đức Giê-su nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
(Lc 18,42)
Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 1, 11-16. 43-45. 57-60. 65-67
“Dân Israel phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp”.
Trích sách Ma-ca-bê quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, bởi dòng các vua Hy-lạp sinh ra một mầm mống tội lỗi, là Antiôcô Êpiphan, con vua An-ti-ô-cô, trước kia bị bắt làm con tin tại Rô-ma; năm vương quốc Hy-lạp một trăm ba mươi bảy, ông lên ngôi vua.
Thời đó từ Ít-ra-en cũng xuất hiện một số người bất lương mê hoặc được nhiều người, chúng nói rằng: “Này, ta hãy giao ước với các dân ở chung quanh chúng ta, vì từ ngày chúng ta đoạn giao với các dân ấy, chúng ta đã gặp nhiều tai họa”. Họ cho lời nói ấy là đúng. Một số trong dân chúng hối hả đi yết kiến nhà vua và được nhà vua cho phép tuân giữ các luật lệ của dân ngoại. Họ liền xây cất một thao trường ở Giê-ru-sa-lem theo tập quán của dân ngoại; họ tìm cách huỷ bỏ vết tích của phép cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để rồi giao ước với kẻ ngoại. Họ tự bán mình để làm sự dữ.
Vua An-ti-ô-cô ra chiếu chỉ khắp nước truyền cho mọi dân hợp thành một dân và mỗi dân phải bỏ tục lệ riêng mình; tất cả các dân ngoại đều tuân lệnh nhà vua. Nhiều người Ít-ra-en cũng sẵn sàng theo việc phượng tự của nhà vua, họ liền hiến tế cho ngẫu tượng và phế bỏ ngày sabbat.
Ngày rằm tháng Kislêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua An-ti-ô-cô đặt một ngẫu tượng ghê tởm ngay trên bàn thờ dâng của lễ toàn thiêu. Người ta cũng lập nhiều bàn thờ khác trong các thành lân cận của Giu-đa: người ta đốt hương cúng tế trước cửa nhà và ở các công trường. Hễ gặp thấy sách luật nào, họ xé nát và đem đốt đi. Nếu người ta bắt gặp sách giao ước trong nhà người nào hoặc bắt gặp kẻ nào giữ Luật Chúa, thì kẻ ấy sẽ bị xử tử theo đúng chiếu chỉ của nhà vua. Nhưng cũng có nhiều người Ít-ra-en tỏ ra kiên quyết, và nhất định không ăn của gì dơ nhớp; họ thà chết chẳng thà làm cho mình ra ô uế bởi của ăn dơ và phạm đến Giao Ước thánh, và quả thực họ đã chết. Dân Ít-ra-en phải chịu một cơn thịnh nộ khủng khiếp.
Ðáp Ca: Tv 118, 53. 61. 134. 150. 155. 158
Ðáp: Lạy Chúa, xin bảo toàn cho con sống, và con sẽ tuân giữ lời nghiêm huấn của Ngài
Xướng: Con nổi cơn uất hận vì những người tội lỗi, bọn chúng bỏ rơi luật pháp của Ngài.
Xướng: Thừng chão bọn ác nhân đã trói buộc con, nhưng con chẳng lãng quên luật pháp của Ngài.
Xướng: Xin Chúa cứu con khỏi người ta áp bức, để con tuân giữ các huấn lệnh của Ngài. –
Xướng: Những kẻ bách hại con cách độc ác đang tiến lại gần, bọn chúng sống xa pháp luật của Chúa.
Xướng: Ơn cứu độ của Chúa xa bọn ác nhân, vì chúng chẳng lo giữ những thánh chỉ của Ngài.
Xướng: Nhìn thấy những kẻ phản bội mà con chán nản, vì chúng không tuân giữ lời sấm của Ngài.
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 1, 1-4; 2, 1-5a
“Hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ mức nào và hãy hối cải”.
Khởi đầu sách Khải Huyền của Thánh Gio-an Tông đồ.
Mạc khải của Ðức Giê-su Ki-tô mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người các điều sắp xảy ra. Vậy Người đã sai thiên thần loan báo cho tôi tớ người là Gio-an, và Gio-an làm chứng rằng tất cả những gì ông đã thấy là lời của Thiên Chúa và lời chứng của Ðức Giê-su Ki-tô. Phúc cho ai đọc và nghe các lời tiên tri này, cùng tuân giữ những điều đã chép trong đó, vì thời giờ đã gần.
Gio-an kính gởi bảy Giáo đoàn ở Tiểu Á. Nguyện chúc ân sủng và bình an cho anh em do từ Ðấng đang có, đã có và sẽ đến và do từ bảy thần linh đứng trước ngai của Người.
Tôi nghe Chúa phán bảo tôi: “Hãy viết cho thiên thần Giáo đoàn Ê-phê-xô rằng: ‘Ðây là lời của Ðấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Ta biết việc làm của ngươi nổi bật và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể dung kẻ bất lương; ngươi đã thử thách những kẻ tự cho mình là tông đồ, mà kỳ thực thì không phải, nhưng ngươi đã thấu rõ họ là hạng gian dối. Ngươi có lòng kiên nhẫn, ngươi đã chịu đựng vì danh Ta mà không sờn lòng. Nhưng Ta trách ngươi điều này, là ngươi đã bỏ lòng yêu mến thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã sa sút từ mức nào, hãy ăn năn hối cải và làm lại những việc thuở ban đầu’ “.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Ta sẽ cho kẻ thắng trận ăn trái cây sự sống (Kh 2, 7b).
Xướng: Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. – Ðáp.
Xướng: Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa: lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. – Ðáp.
Xướng: Kẻ gian ác không được như vậy: họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. – Ðáp.
Alleluia: Lc 16, 31
Alleluia, alleluia! – Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. – Alleluia.
Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. – Alleluia.
TIN MỪNG: Lc 18,35-43
35 Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36 Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37 Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38 Anh liền kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
39 Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”
40 Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh ta đáp: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.”
42 Đức Giê-su nói: “Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 43 Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
PHẨM GIÁ MỘT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Người mù nói với Đức Giê-su: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” (Lc 18,41)
Suy niệm: Có một số người tàn tật lợi dụng sự khuyết tật của mình để lang thang xin ăn. Tệ hơn nữa, lại có một số người “hoá trang” làm người khuyết tật nhằm đánh động lòng thương xót của người khác, đi ăn xin như một phương thế kiếm tiền béo bở. Người mù thành Giê-ri-cô này ý thức mãnh liệt phẩm giá cao quí của mình: anh ta kêu gào bất chấp sự cản trở của đám đông; anh không có ý xin Chúa chén cơm manh áo qua ngày; anh xin Ngài phục hồi cho anh một chức năng quan trọng: cho anh được sáng mắt, nhờ đó anh có thể sống xứng với nhân phẩm của mình. Lời kêu gào đó không phải là một lời van xin làm hạ phẩm giá con người của anh. Đó là một yêu cầu được hưởng quyền lợi chính đáng của mình. Đứng trước những yêu cầu như thế, Đức Giê-su không bao giờ từ chối. Và Ngài còn làm nhiều hơn điều anh xin: Ngài cho anh được sáng và anh đi theo Ngài mà tôn vinh Thiên Chúa.
Mời Bạn: Đã qua rồi cái thời coi người khuyết tật là đối tượng của việc bố thí, cứu trợ. Cách thể hiện tình bác ái đích thực đối với anh em khuyết tật đó là giúp họ phát huy trọn vẹn phẩm giá của họ, và nhất là để họ cũng trở thành những tông đồ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh qua những tật bệnh nơi chính thân xác mình.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy mời một người khuyết tật mà bạn quen biết, cùng với bạn tham gia vào một công tác tông đồ thích hợp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su đau khổ, xin cho con được phục vụ Chúa nơi những người anh em bệnh hoạn tật nguyền. Và cho con biết rao giảng Chúa chịu đóng đinh nơi những tật bệnh trong thân xác con. Amen.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
“Lạy con vua Đavít, xin thưong xót con”.
Lời van xin của anh mù thành Giêricô hôm nay có thể nói là lời cầu xin tiêu biểu cho toàn thể nhân loại đang lầm than khổ cực, đang bị chìm ngập trong bóng tối của tử thần, đang ngước mắt xin Thiên Chúa thương xót.
Thân phận của người mù thật đáng thương, họ không thể chiêm ngưỡng vũ trụ chung quanh, không thể thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, và nhất là không thể tự nuôi sống mình mà phải nhờ vả vào người khác. Vì thế mà người mù thường sống trong tâm trạng bi quan tuyệt vọng.
Qua phép lạ chữa cho người mù được sáng mắt, Chúa Giêsu không những chữa lành bệnh tật phần xác nhưng nhất là đã trả lại cho anh ánh sáng của cuộc đời. Anh đã tìm lại được niềm vui sống và nghị lực cần thiết để xây dựng tương lai.
Nhưng hơn nữa, qua phép lạ, Chúa Giêsu còn mở đôi mắt đức tin cho anh ta để anh ta nhận biết và đặt trọn niềm tin vào Ngài. Vì sau khi được sáng mắt, anh đã đứng dậy xin đi theo Chúa Giêsu.
Nếu hôm nay Chúa hỏi chúng ta: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?” Chúng ta sẽ trả lời Ngài ra sao? Chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, đó là một ơn lớn. Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù. Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.
Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù, đó là dục vọng của đôi mắt, là thành kiến về người khác. Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà “xin cho con được thấy”.
Giờ đây, mặc lấy tâm tình khiêm tốn của người mù thành Giêricô, chúng ta hãy tha thiết nài xin Đức Kitô mở mắt đức tin cho chúng ta. Xin cho chúng ta nhìn thấy: nhìn thấy Chúa nơi các công trình Chúa đã tạo dựng để biết ngợi khen; nhìn thấy Chúa nơi chính mình để luôn cảm tạ; nhìn thấy Chúa nơi anh em để luôn yêu thương phục vụ; nhìn thấy Chúa nơi chính Chúa để luôn vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CHÚA CHỮA NGƯỜI MÙ TẠI GIÊRICÔ
1.Từ Pêrê đi Giêrusalem, Đức Giêsu phải đi qua Giêricô, một người mù từ mới sinh xin Chúa chữa lành. Ngài đã làm cho anh được sáng mắt. Việc Đức Giêsu làm phép lạ mở mắt người mù này sẽ giúp các môn đệ nhìn thấy rõ và chấp nhận kế hoạch cứu độ của Ngài. Ngoài ra, việc chữa lành người mù này không chỉ là mù loà thể xác, mà còn có ý nói đến tội lỗi, tối tăm trong tâm hồn. Sứ mệnh của Đức Giêsu đến trần gian là giải thoát con người khỏi khổ đau, khỏi nô lệ, tội lỗi. Ngài luôn sẵn sàng chữa lành cho chúng ta, nhưng chúng ta chỉ được lành khi chúng ta tin vào Ngài. Như vậy, niềm tin chính là điều kiện để Chúa tha thứ và ban ơn cho chúng ta.
2.Ý thức thân phận của mình, anh mù đã khiêm tốn cầu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa Vít, xin dủ lòng thương tôi”. Sư mù loà thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù loà: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: “Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thật vậy, toàn dân đều ca ngợi Thiên Chúa”. Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Đức Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: “Ánh sáng của các con phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Đấng ngự trên trời” (Mỗi ngày một tin vui).
3.Hình ảnh người mù trong bài Tin mừng hôm nay đã phản chiếu trung thực thân phận con người trong cuộc lữ hành đức tin. Con người không thể tự cứu mình và cũng không một người nào có thể cứu giúp con người, ngoài Đức Kitô. Đấng Cứu độ duy nhất có thể giải phóng loài người khỏi bóng tối tội lỗi sự chết, và đem con người vào miền ánh sáng của ân sủng và sự sống của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Người, và trung thành bước theo Người trong cuộc hành trình đức tin của mình (Lm. Trần Hữu Thành).
4.Đây đó trên đường, người ta gặp những người mù với một cây gậy chuyên dụng, như một giác quan kỳ lạ giúp họ đi đến nơi họ muốn. Thật đáng thán phục! Có thể nói, cây gậy trợ lực giúp họ dò con đường họ thấy bằng trí nhớ. Cũng vậy, dù không thấy được bằng giác quan, con mắt đức tin giúp Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Trong khi dưới con mắt của đám đông, Đức Giêsu chỉ là một người làng Nazareth, thì người mù thành Giêricô nhận ra chính là con vua Đavít, là Đấng Messia. Bằng “con mắt đức tin”, anh đã thấy điều mà người khác không thấy: thấy Ngài có quyền năng tái tạo những gì đã hư mất; thấy Ngài là Đấng chia sẻ được nỗi thống khổ anh đang chịu, là chỗ dựa cho anh trong lúc mọi người bỏ rơi. Giữa đám đông anh có thể bị lẻ loi vì đức tin của anh, nhưng anh không cô độc, bởi Đấng cứu chữa anh từ nay đồng hành với anh trên mọi nẻo đường, còn anh quyết theo đường Ngài, dù là đường lên Giêrusalem để chịu thương khó (5 phút Lời Chúa).
5.Nhân ngày Giới trẻ thế giới lần thứ ba mươi, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Mọi người chúng ta đều là tội nhân, cần được Chúa thanh luyện. Chúng ta đến với Chúa Giêsu để nhận ra rằng: Người luôn dang rộng vòng tay đợi chờ; đến với Người để gặp gỡ lòng thương xót của Người”.
Trong câu chuyện Tin mừng, anh mù bên vệ đường đã nhận ra sự khốn khổ của mình, và chạy đến cầu cứu Đức Giêsu. Anh đã kêu đến Người, cho dù nhiều người quát mắng, bảo phải im tiếng. Anh tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương của Chúa, anh tin Người sẽ cứu chữa anh. Thế nên, anh được Đức Giêsu dủ lòng thương, cho anh nhìn thấy.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta bị mù vì thiếu cái nhìn thiện cảm đối với tha nhân, và cũng có những lúc chúng ta bị mù, vì không đủ lòng tin vào tình thương và sự quan phòng của Chúa. Như anh mù năm xưa, ta hãy chạy đến với Đức Giêsu, để được Người chữa lành.
Truyện: Đứa con mù từ 20 tháng
Một bà mẹ kể lại cái kinh nghiệm bà đã học được từ đứa con mù lòa của mình như sau:
Tôi có đứa con trai bị mù từ lúc mới sinh. Khi cháu được 20 tháng, lần đầu tiên, tôi đưa cháu đến một siêu thị gần nhà. Với những bước đi chập chững, nó không ngừng bám vào gấu áo của tôi, và cứ vài ba bước nó lại ngừng lại, để lắng nghe những tiếng động chung quanh.
Sáng hôm đó, tôi đã học được nhiều điều. Thật thế, tôi bỗng nhiên nhận ra rằng: từ tiếng chân người đi bộ đến tiếng xe, tất cả các tiếng ồn ào đều khác nhau. Cách 100 thước chúng tôi đã nghe mùi thơm của một tiệm bánh kẹo. Vừa vào tiệm, đứa con đã dừng lại mỉm cười. Tôi mua cho cháu một thanh sôcôla rồi tiếp tục đi đến một cửa hàng khác. Một con chim từ đâu bay đến gần bên chúng tôi. Con tôi dừng lại, như đương thưởng thức tiếng chim hót. Một lúc sau tôi thấy cháu lè lưỡi ra và hút thở làn gió mát từ phương Bắc thổi tới, cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa biết gió từ đâu.
Chúng tôi đi tiếp. Vào cửa tiệm bán cá, con tôi liền ném mẩu sôcôla và đưa tay sờ vào các loại cá.
Trên đường về, con tôi cười vui rộn rã hơn bao giờ hết. Nụ cười của nó nói với tôi rằng hôm ấy là một buổi sáng tuyệt vời của nó, vì nó khám phá được những điều mới mẻ kỳ diệu. Riêng tôi, tôi đã tự hỏi: tôi với con tôi, ai mới thực sự là kẻ mù loà.