“Một ngày sa-bát kia,
Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa:
họ cố dò xét Người”.
(Lc 14,1)
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 9, 1-5
“Tôi đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20
Ðáp: Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa!
Xướng: Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. – Ðáp.
Xướng: Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. – Ðáp.
Xướng: Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. – Ðáp.
Bài Ðọc I: (Năm II) Pl 1, 1-11
“Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Kitô”.
Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Phaolô và Timôthêu, tôi tớ của Ðức Giêsu Kitô, kính gửi tất cả các thánh trong Ðức Giêsu Kitô ở thành Philípphê, cùng với các chủ tịch giáo đoàn và các phụ tá. Nguyện chúc ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô, ở cùng anh em!
Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa của tôi mỗi khi nhớ tới anh em, trong mọi kinh nguyện mà tôi hân hoan cầu xin cho anh em, vì anh em đã góp phần rao giảng Tin Mừng ngay từ ngày đầu tiên cho tới bây giờ.
Tôi tin tưởng điều này là Ðấng đã khởi sự trong anh em công việc tốt lành đó, sẽ làm hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô. Mà tôi tưởng nghĩ về mọi người anh em như thế thì chính đáng: vì tôi tích để anh em trong lòng tôi, dù khi tôi mang xiềng xích, dù lúc tôi biện hộ hay củng cố Tin Mừng, mọi người anh em đều thông phần vào sự vui mừng của tôi. Thực, có Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: Tôi trìu mến tất cả anh em trong lòng Ðức Giêsu Kitô là dường nào. Ðiều tôi khẩn nguyện là lòng yêu mến của anh em mỗi ngày một thêm chan chứa hơn, trong sự thông biết và mọi sự suy hiểu, để anh em biết xác định những điều tốt lành hơn, hầu giữ mình trong sạch và không gì đáng trách trong ngày của Ðức Kitô, dư đầy hoa quả công chính, nhờ Ðức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).
Xướng: Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!
Xướng: Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.
Xướng: Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Ngài, cho tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Ngài thấy công cuộc quyền năng của Ngài, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. – Alleluia.
TIN MỪNG: Lc 14, 1-6
1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. 2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng.
3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” 4 Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5 Rồi Người nói với họ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” 6 Và họ không thể đáp lại những lời đó.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
NHÂN PHẨM CAO QUÝ
“Ai trong các ông có con trai hay con bò sa xuống giếng, mà lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” (Lc 14,5)
Suy niệm: Dùng hình ảnh đứa con trai hoặc con bò của ai đó rớt xuống giếng trong ngày sa-bát, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh tới tính cách khẩn cấp cuộc việc cứu nạn. Vì sự thân thiết với đứa con ruột rà, vì giá trị vô song của mạng người hay vì tầm quan trọng của một món tài sản lớn mà người ta được phép làm công việc cứu hộ dù là trong ngày sa-bát. Thế mà những người Pha-ri-sêu lại ném cái nhìn hằn học cho Chúa Giê-su như thể Ngài là “kẻ phá bĩnh” lề luật vì đã chữa lành cho người phù thũng trong ngày sa-bát. Thật chua xót! Phẩm giá con người bị hạ thấp đến độ không còn được kính trọng, thậm chí không giá trị bằng một con vật! Và càng chua xót hơn, khi người ta nại đến lề luật, nại đến Thiên Chúa để biện minh cho thái độ đó.
Mời Bạn: Đối với Thiên Chúa, con người luôn luôn có giá trị tuyệt đối. Con người không chỉ cao quý hơn muôn vật vì được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, mà con người còn được cứu độ và được nhận làm nghĩa tử của Ngài. Quả thế, dù Thiên Chúa đã hoàn thành công việc sáng tạo và “ngày thứ Bảy, Ngài nghỉ ngơi” (x. St 2,2), nhưng “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta” (Kinh Tin Kính), Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế, chịu chết để phục hồi cho con người phẩm giá làm con cái Thiên Chúa. Vậy bạn là ai mà dám coi thường giá trị một con người? Bạn nghĩ gì về những hình thức mà phẩm giá con người ngày nay đang bị chà đạp?
Sống Lời Chúa: Yêu thương kính trọng với người khác qua cách cư xử thân ái và lời nói có lễ có tình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CHÚA CHỮA NGƯỜI BỊ BỆNH PHÙ THŨNG
1.Giữa Đức Giêsu và người luật sĩ cũng như biệt phái luôn có sự căng thẳng khẩn trương, họ chỉ tìm cách soi mói, bắt bẻ để kết án Ngài. Đức Giêsu đã chữa bệnh trong ngày Sabat. Họ không biết cảm thông với người xấu số. Họ dựa vào luật Thiên Chúa để lên án trách móc người khác. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy rằng: luật lệ được đặt ra là để phục vụ lợi ích của con người. Khi Đức Giêsu hỏi họ ngày Sabbat có được phép chữa bệnh không thì họ không trả lời được.
2.Tin mừng cho biết, có 7 lần Đức Giêsu chữa bệnh ngày Sabát, riêng Luca kể lại 4 lần và bị các người biệt phái kết án. Hôm nay Đức Giêsu chữa cho người bị bệnh phù thũng, và Ngài khởi đầu bằng câu hỏi: “Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?” tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: “Trong ngày Sabat ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?” Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Đức Giêsu. Lý do những luật sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Đức Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón tay mà lay thử.
3.Một lần nữa, trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp cử chỉ quen thuộc của Đức Giêsu. Ngài vượt qua mọi rào cản trong cuộc sống để tìm đến với những người tàn tật và bất cứ ai đang gặp đau khổ trong thể xác hay tâm hồn. Những người biệt phái và luật sĩ đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào, để đẩy con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Đức Giêsu đến quy tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp đổ mọi thứ rào cản của cuộc sống. Có mặt trong những bữa tiệc linh đình của những người biệt phái giàu sang, Ngài cũng không ngần ngại ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những người bị xã hội gán cho nhãn hiệu là hạng người bất chính, ngay cả những cô gái điếm (Mỗi ngày một tin vui).
4.Các luật sĩ và biệt phái là những người có thể hiểu được hành động của Chúa, nhưng vì nô lệ cho những luật lệ do chính họ đặt ra, nên họ không thể trả lời câu hỏi của Chúa: “Có được phép chữa bệnh trong ngày hưu lễ hay không?” Trong Tin mừng Mátthêu, Đức Giêsu đã quả quyết giáo lý của Ngài: “Con người được phép làm điều thiện trong ngày hưu lễ, đó là định luật của yêu thương. Thực hiện tình yêu thương, phục vụ tha nhân không bao giờ là điều nghịch lại luật Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã bận tâm lo lắng đến lề luật được tuân giữ, nhưng họ lại quên tinh thần của lề luật là tình yêu thương.
5.Hai chú gấu con thấy một miếng pho mát lớn, nhưng không biết cách chia thành hai phần đều nhau. Một con cáo già đi tới và tự nguyện làm trong tài để chia. Nó có ý bẻ miếng phó mát thành hai phần không đều nhau, rồi cắn miếng to một cái, miếng to thành miếng nhỏ. Nó liên cắn miếng kia một cái, miếng nhỏ lại thành miếng to. Hai miếng pho mát vẫn không bằng nhau. Cứ thế, nó hết cắn miếng này rồi miếng kia cho tới lúc hai miếng phó mát chỉ còn là hai mẩu bé xíu. Lúc ấy, nó mới chia thành hai phần bằng nhau và đưa cho hai chú gấu.
Con cáo già đã ngụy trang hành động xấu xa của mình bằng một nghĩa cử cao đẹp. Nhóm biệt phái cũng vậy. Họ có lối sống thiếu bác ái và giả hình, nhưng lại che đậy bằng việc giữ luật ngày Sabat hết sức nghiêm ngặt.
Theo luật ngày Sabat, Đức Giêsu không được chữa bệnh trong ngày đó. Thế nhưng, vì tình thương, Ngài đã chữa lành bệnh cho một người mắc bệnh phù thũng. Qua đó, Ngài muốn dạy những kẻ giữ luật hình thức rằng: nếu không có bác ái, thì mọi việc làm, kể cả việc tuân giữ lề luật, sẽ trở thành sự giả hình và gian dối (Học viện Đa Minh).
6.Chúng ta cần có một trái tim biết yêu thương, để biết rung động trước khổ đau của người khác. Khi chúng ta không có một trái tim, thì chúng ta sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, mà nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác.
Truyện: Một cái nhìn khô cứng
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị toà án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ một cử chỉ hối hận nào, mà hắn còn tuyên bố: – Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel.
Chính thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan toà đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai màu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho con người hiện nay.