TÓM LƯỢC TẤT CẢ CÁC ĐOẠN TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ
(xuanbichvietnam.net) Tháng Năm 6th, 2018.
TÓM LƯỢC TẤT CẢ CÁC ĐOẠN
oOo
TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ (GAUDETE ET EXSULTATE)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
Lm. Lê Công Đức
DẪN NHẬP (#1-2)
Đức thánh cha chọn câu lời Chúa “Hãy vui mừng hoan hỉ” (Mt 5,12) để đặt ‘tên’ cho Tông huấn về “lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay” này. Theo đó, Đức thánh cha nêu bật rằng sự thánh thiện phản ảnh Các Mối Phúc, sự thánh thiện là Niềm Vui, và sự thánh thiện là Ơn Gọi Nền Tảng (#1). Điều Đức thánh cha nhắm đến qua Tông huấn này, đó là đặt lời mời gọi nên thánh vào bối cảnh thực tiễn thời đại hôm nay (#2).
CHƯƠNG 1 (#3-34): LỜI MỜI GỌI NÊN THÁNH – CÁC THÁNH KHÍCH LỆ VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚNG TA
“Một đám mây chứng nhân”, tức nhiều người đáp trả tiếng gọi ấy – điều này khích lệ chúng ta (#3). Trong mối hiệp thông, các thánh nâng đỡ chúng ta: “Được vây quanh và được dẫn dắt bởi các bạn của Thiên Chúa, … tôi không phải một mình mang vác điều mà một mình tôi không thể nào mang vác nổi. Tất cả các thánh của Thiên Chúa vẫn có đó để bảo vệ, nâng đỡ và bồng ẵm tôi” (#4). Các thánh được tuyên thánh dựa vào việc các ngài bắt chước Đức Kitô (#5). Nhưng còn vô số thánh gần gũi hơn nhiều… đó là:
Các thánh ở kế bên ta (#6-9)
Ta không thể nên thánh cách tách rời, mà phải thuộc về một dân, với mạng lưới các mối tương quan liên vị (#6). Theo đó, biết bao con người vô danh trong dân Thiên Chúa đang nên thánh qua việc kiên trung sống các bổn phận đời thường (#7). Chính những con người vô danh ấy làm nên lịch sử mà không sử sách nào đề cập về họ, dù vậy ta mắc nợ họ về những bước ngoặt quyết định trong đời sống mình (#8). Hơn thế nữa, sự thánh thiện vượt cả vành đai Giáo hội Công giáo (#9).
Chúa kêu gọi (#10-13)
Đức thánh cha muốn nhấn mạnh tính cá vị của tiếng gọi nên thánh, mỗi người mỗi cách (#10). Ai trong chúng ta cũng có con đường nên thánh dành cho mình, không sao chép vị thánh nào (#11). Đặc biệt, ‘thiên khiếu phụ nữ’ được nhìn thấy nơi những phong cách thánh thiện đầy nữ tính (#12). Mỗi chúng ta được thôi thúc dấn thân đảm nhận cái kế hoạch dành cho riêng mình từ đời đời (#13).
Cả bạn nữa cũng thế (#14-18)
Nên thánh không phải rút khỏi công việc để chuyên chăm cầu nguyện, mà ở chỗ sống yêu thương và làm chứng trong mọi việc mình làm (#14). Điều đó là có thể, dù bạn yếu đuối; và nó đặt nền trên ơn Phép Rửa, trên sự dẫn dắt của Thánh Thần, trong lòng Giáo hội với các phương tiện cần thiết cho bạn (#15). Sự thánh thiện ấy nơi bạn sẽ lớn lên xuyên qua các cử chỉ nhỏ nhoi (#16). Đôi khi ta cần hoán cải cách ngoạn mục; nhiều khi khác ta chỉ cần làm những gì mình vốn làm với một cách thế hoàn hảo hơn, như chứng từ của cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (#17). Ta làm thế không dựa sức mình, mà dựa vào tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa, tức sự sống mới mà Đức Kitô Phục sinh thông ban cho ta, ngay trong sự yếu đuối của con người (#18).
Sứ mạng của bạn trong Đức Kitô (#19-24)
Sứ mạng là nẻo đường nên thánh; mỗi vị thánh là một sứ mạng, do Thiên Chúa vạch định để thể hiện khía cạnh nào đó của Tin Mừng tại một thời khắc lịch sử cụ thể (#19). Sứ mạng ấy, tựu trung là sự thánh thiện, nằm ở việc kinh nghiệm mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô trong đời sống mình. Ta sống những gì Người sống, và Người sống những điều ấy trong ta (#20). Thật vậy, mức độ thánh thiện của ta được xác định bởi mức độ mà Đức Kitô chiếm lĩnh được nơi ta (#21). Không phải mọi chi tiết nơi một vị thánh đều hoàn hảo; điều cần là chiêm ngắm toàn thể đời sống các ngài vốn phản ảnh Đức Giêsu Kitô ngày càng hơn (#22). Toàn thể đời sống của bạn là một sứ mạng; hãy phân định để mọi quyết định bạn đưa ra đều thuộc về sứ mạng ấy (#23). Đời bạn là một thông điệp của Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn ngỏ với thế giới; để Chúa Thánh Thần biến đổi mình, đời bạn sẽ hoàn thành (#24).
Hoạt động có năng lực thánh hóa (#25-31)
Sứ mạng riêng của bạn không thể tách khỏi triều đại Thiên Chúa – “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” (Mt 6,33); không thể nên thánh nếu không cống hiến cho công cuộc ấy (#25). Bạn cần biết chiêm niệm ngay giữa hoạt động, và nên thánh bằng việc thi hành sứ mạng riêng mình một cách quảng đại và có trách nhiệm (#26). Đừng quên rằng đời sống không có một sứ mạng, mà là một sứ mạng (#27). Bất cứ gì được bạn làm do bức xúc, kiêu ngạo, hay để gây ấn tượng cho người khác thì không dẫn tới sự thánh thiện. Hãy liệu sao cho mọi sự ta làm đều thấm đẫm Tin Mừng và làm ta nên giống Đức Giêsu Kitô hơn (#28). Dĩ nhiên, cần có những khoảnh khắc thinh lặng trước Thiên Chúa, nhất là trong nhịp sống xô bồ gấp rút ngày nay (#29). Rất cần cảnh giác đối với việc lấp đầy thời gian rảnh bằng những thiết bị giải trí phù du, gây uể oải lười biếng đối với sứ mạng và việc quan tâm phục vụ tha nhân (#30). Ta cần một tinh thần thánh thiện, để mọi giây phút đời mình (cầu nguyện hay làm việc) đều là một bước nên thánh (#31).
Sống động hơn, nhân bản hơn (#32-34)
Nên thánh là trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, nhờ đó bạn hoàn thành bản ngã sâu xa nhất và đạt phẩm giá cao cả của mình (#32). Hãy nhớ rằng càng nên thánh, Kitô hữu càng sinh hoa trái nhiều cho thế giới (#33). Và thánh thiện không hề làm bạn ít là người hơn; nó là sự gặp gỡ giữa sự yếu đuối của con người và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa (#34).
CHƯƠNG 2 (#35-62): HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN
Đức thánh cha chỉ ra hai lạc thuyết, ngộ đạo và pêlagiô thuyết, như những não trạng cản trở con đường thánh thiện hôm nay (#35).
Ngộ đạo thuyết hiện đại (#36-46)
Đó là một đức tin hoàn toàn chủ quan, chỉ dựa vào kinh nghiệm, ý tưởng … và bị cầm tù trong chính các tư tưởng và cảm nghĩ của mình (#36). Nhưng sự hoàn thiện không tùy ở kiến thức sở đắc mà ở chiều sâu đức ái. Vấn đề của ngộ đạo là chỉ đánh đu với những khái niệm trừu tượng mà không đụng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân (#37). Ngộ đạo thuyết có vẻ sôi nổi bề mặt, nhưng trong thâm tâm thì không được đánh động sâu xa; dù thế, nó vẫn có một sức hấp dẫn đầy dối gạt (#38). Không phải là chủ nghĩa duy lý, nhưng ngộ đạo thường giảm trừ giáo huấn của Đức Giêsu đến chỉ còn những lập luận khắc nghiệt và lạnh lùng nhằm tìm cách thống trị mọi sự (#39). Ngộ đạo thuyết tự bản chất tìm cách làm chủ mầu nhiệm (#40). Nhưng ai có câu trả lời cho mọi vấn đề, người ấy không ở trên con đường đúng đắn; ai muốn mọi sự đều rõ ràng và chắc chắn, người ấy đang nghĩ mình kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa (#41). Cần nhớ rằng ta không thể biết Thiên Chúa không ở đâu, bởi Ngài vẫn hiện diện ngay cả nơi những người có vẻ hoàn toàn hư hỏng (#42). Ta không thể cho rằng cách mình hiểu sự thật nào đó sẽ trao cho mình cái quyền giám sát nghiêm ngặt trên đời sống người khác. Trong Giáo hội vẫn tồn tại nhiều cách khác nhau để diễn dịch nhiều khía cạnh của giáo lý và đời sống Kitô giáo. Đừng thay Thiên Chúa ba ngôi vị và nhập thể bằng một Đơn Nhất Tính tối cao (#43). Giáo thuyết không phải là một hệ thống đóng kín, vì thế cần tôn trọng nguyên lý nhập thể (#44). Thánh Gioan Phaolô II cảnh báo những người trong Giáo hội vốn học cao hiểu rộng đừng cảm thấy rằng mình ở đẳng cấp cao hơn các tín hữu khác (#45). Thánh Bônaventura chỉ ra rằng khôn ngoan Kitô giáo đích thực không bao giờ tách rời khỏi lòng thương xót đối với người thân cận (#46).
Thuyết Pêlagiô hiện đại (#47-62)
Ngộ đạo thuyết mở ra một lạc thuyết khác, như một biến dạng của chính nó (#47). Thay vì gán sức mạnh cho trí năng, giờ đây người ta gán cho ý chí, và cũng không có chỗ cho mầu nhiệm và ân sủng (#48). Người ta có thể nói về ân sủng của Thiên Chúa, nhưng rốt cục chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình, và ân sủng chỉ là cái bổ sung vào (#49). Việc thiếu chân thành nhìn nhận những giới hạn của mình sẽ không cho phép ân sủng hoạt động hữu hiệu trong chúng ta (#50). Để sống hoàn hảo như Thiên Chúa kêu gọi, ta cần sống khiêm nhường trong sự hiện diện của Thiên Chúa (#51). Giáo hội không ngừng dạy rằng chúng ta được công chính hóa không phải bởi những việc làm của mình, nhưng là bởi ân sủng thần linh (#52). Công đồng Orange xác nhận rằng ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng là ân sủng của Thánh Thần. Còn Công đồng Trentô thì xác quyết: Nếu do ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm nữa, nếu chẳng vậy, thì ân sủng đâu còn là ân sủng nữa (#53). Điều cơ bản ở đây, đó là con người chẳng có quyền đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ gì… Khi họ nhận ân sủng, thì ân sủng nhận được ấy không phải do họ xứng đáng (#54). Chính sự sống và sự tự do của chúng ta cũng thiết yếu là một quà tặng (#55). Tiên vàn chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa, dâng hiến chính mình cho Ngài, ký thác các khả năng và các nỗ lực của mình… để ân huệ nhưng không của Thiên Chúa có thể lớn lên trong ta (#56). Ghi nhận rằng tân thuyết pêlagiô có thể bộc lộ trong nhiều dạng: nỗi ám ảnh về lề luật, sự bận tâm về những thuận lợi chính trị và xã hội, sự chi li quá về phụng vụ, giáo lý và thanh thế của Giáo hội… mà không quan tâm để mình được Chúa Thánh Thần dẫn dắt (#57). Việc gán tầm quan trọng quá đáng cho những qui tắc, những tập tục hay cách làm nào đó có thể là dạng tinh vi của chủ thuyết pêlagiô, vì người ta xem đời sống ân sủng là thứ yếu so với một số cấu trúc nhân loại (#58). Nếu ta tin rằng mọi sự lệ thuộc vào cố gắng của con người, theo các qui tắc và các cơ cấu của Giáo hội, thì chúng ta sẽ vô tình làm cho Tin Mừng trở nên phức tạp, tôn giáo sẽ trở nên gánh nặng đày đọa (#59). Để tránh tình trạng trên, cần tìm kiếm điều cốt yếu, đó là đức ái (#60). Tin Mừng cho thấy ở giữa một rừng qui tắc và huấn lệnh, Chúa Giêsu vạch rõ hai khuôn mặt: Chúa Cha và tha nhân – và đó là hai của cải không biến mất (#61). Đáng lưu ý rằng hai hình thức mới nói trên của ngộ đạo và thuyết pêlagiô là những thứ đè nén Giáo hội và ngăn chặn Giáo hội tiến lên trên đường thánh thiện (#62).
CHƯƠNG 3 (#63-109): TRONG ÁNH SÁNG CỦA TÔN SƯ
Các Mối Phúc cho thấy chân dung vị Tôn Sư, và chúng ta được mời gọi phản chiếu chân dung này trong đời sống hằng ngày (#63). ‘Hạnh phúc’ hay ‘được chúc phúc’ đồng nghĩa với ‘thánh thiện’. Nghĩa là, ai trung thành với Thiên Chúa và lời của Ngài, qua việc trao hiến chính mình, thì được hạnh phúc đích thực (#64).
Lội ngược dòng (#65-94)
Thực hành Các Mối Phúc luôn luôn là lội ngược dòng; ta cần sức mạnh của Thánh Thần để vượt qua sự yếu hèn, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo (#65). Hãy cho phép những lời của Chúa Giêsu (Các Mối Phúc) làm xáo trộn chúng ta (#66).
– “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”: Trước hết, cần rà soát tận sâu thẳm để thấy đâu là ‘sự an toàn’ của mình (#67). Của cải, cuối cùng, chẳng bảo đảm được gì. Nó thường lừa ta và ta hụt mất kho tàng lớn lao nhất (#68). Sự khó nghèo thiêng liêng gắn với “bình tâm thánh thiện” vốn giúp ta có sự tự do nội tâm, không nghiêng chiều về những thứ mình vốn nghiêng chiều (#69). Không chỉ trong tinh thần, mà Thánh Luca còn nhấn mạnh sự khó nghèo cụ thể bằng đời sống khổ hạnh và giản dị (#70).
Nghèo khó trong tâm hồn, đó là thánh thiện!
– “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp”: Thế giới luôn đầy xung đột, bất hòa và thù địch, với ý chí thống trị của người này trên kẻ khác… Nhưng Chúa Giêsu đề ra con đường hiền hòa (#71). Theo Thánh Têrêsa Lisieux, đức ái trọn hảo hệ tại việc đón nhận những sai lỗi của kẻ khác, và không bị vấp ngã vì những lỗi ấy (#72). Hiền hòa là một hoa trái của Thánh Thần, vì thế cần học hiền hòa trong mọi hòan cảnh (#73). Ghi nhận rằng hiền lành là cách diễn tả sự nghèo khó bên trong của những ai đặt tin tưởng vào một mình Thiên Chúa; từ anawim mang cả hai nghĩa đó (nghèo khó và hiền lành) (#74).
Cư xử với sự hiền lành và khiêm nhường, đó là thánh thiện.
– “Phúc cho ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an”: Thế giới không muốn than khóc, nó tìm cách che lấp những hoàn cảnh đau thương, nhưng thập giá thì không bao giờ vắng bóng (#75). Người biết “khóc với kẻ khóc” là người chạm đến những chiều sâu của đời sống và tìm thấy hạnh phúc chân thực (#76).
Biết khóc than với tha nhân, đó là thánh thiện.
– “Phúc cho những ai đói khát công lý, vì họ sẽ được thỏa lòng”: Công lý sẽ đến cho những người mong mỏi công lý và sự chính trực. Chúng ta có thể cộng tác để hiện thực hóa điều này, dù có thể ta không luôn luôn nhìn thấy kết quả (#77). Lưu ý rằng nền công lý mà Đức Giêsu mang lại thì khác với công lý của thế gian (#78). Người sống trong công lý là người công chính trong các quyết định của mình, được diễn tả nơi việc tìm kiếm công lý cho người nghèo và những người yếu thế (#79).
Đói khát sự công chính, đó là thánh thiện.
“Phúc cho ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương”: Lòng thương xót có hai phương diện – quan tâm và tha thứ. Trong mọi sự, hãy làm cho người khác những gì bạn muốn họ làm cho mình (đặc biệt khi các phán quyết luân lý ít chắc chắn và việc quyết định trở thành khó khăn) (#80). Trao hiến và tha thứ, đó có nghĩa là tái sản xuất trong đời sống một mức bé nhỏ của sự hoàn hảo nơi Thiên Chúa (#81). Chúng ta cần nghĩ về mình như một đoàn quân của những người được tha thứ (#82).
Biết nhìn và hành động với lòng thương xót, đó là thánh thiện.
– “Phúc cho những ai có trái tim trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”: Đây là Mối Phúc về tâm hồn đơn sơ, thuần khiết và không uế nhiễm… không chấp nhận bất cứ gì làm yếu nhược hay gây nguy hiểm cho tình yêu trong trái tim. Đây là trái tim mới mà Thiên Chúa muốn ban cho ta (#83). Chúa Cha, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, nhìn thấy rõ tất cả những gì không trong sáng và không chân thành, cái gì chỉ là phô trương bên ngoài (#84). Mối Phúc này nhắc rằng Chúa mong muốn nhìn thấy một quyết tâm dấn thân cho anh chị em mình phát xuất từ trái tim của ta, vì giả như bố thí tất cả mà không có đức ái thì cũng chẳng ích gì (#85). Một trái tim yêu mến Thiên Chúa và tha nhân cách chân thành là một trái tim trong sạch, nó sẽ nhìn thấy Thiên Chúa (#86).
Giữ một trái tim tự do khỏi tất cả những gì làm ô nhiễm tình yêu, đó là thánh thiện.
– “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”: Mối Phúc này trước hết cảnh giác rằng chúng ta có thể là nguyên nhân của xung đột, hiểu lầm, và trở thành kẻ thù của hòa bình (#87). Người môn đệ của Chúa Giêsu đi tới đâu cũng phải nói “Bình an cho nhà này”. Trong cộng đoàn, chúng ta ‘hãy theo đuổi những gì đem lại bình an’ (#88). Sự bình an này đón nhận tất cả những người kỳ cục nhất, và đây không chỉ là một sự đồng thuận trên giấy tờ, cũng không phải là phớt lơ những xung đột thực tế. Xây dựng hòa bình là một nghệ thuật đòi phải có sự bình tâm, sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo (#89).
Gieo rắc sự bình an khắp xung quanh mình, đó là thánh thiện.
– “Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ”: Lội ngược dòng, đó là ta đang thách thức xã hội, dẫn đến bị bách hại vì nghiêm túc dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, nếu không muốn xoãng xĩnh vật vờ thì đừng mơ một đời sống dễ dãi (#90). Để sống Tin Mừng, chúng ta không thể kỳ vọng mọi sự sẽ dễ dàng, vì sự ham hố quyền lực và những lợi ích thế gian thường cản lối chúng ta (#91). Nhưng thập giá vẫn là nguồn tăng triển và thánh hóa chúng ta (#92). Và cần phân biệt, ta đang nói đến sự bách hại không tránh được, chứ không phải sự bách hại mà ta tự gây ra cho mình qua việc ngược đãi người khác (#93). Bách hại ngày nay có thể tinh tế hơn trong quá khứ, như vu khống, lừa dối, chế giễu (#94).
Chấp nhận sống con đường của Tin Mừng hằng ngày, dù có thể phải trả giá, đó là thánh thiện.
Tiêu chuẩn lớn (#95-109)
Mt 25,31-46 cung cấp một tiêu chuẩn rõ ràng theo đó chúng ta được phán xét (#95). “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; ta khát, các ngươi đã cho uống…”, đây không chỉ là một lời mời gọi sống đức ái, đây còn là một trang Kitô học rọi sáng trên mầu nhiệm Đức Kitô, cho thấy chính trái tim của Đức Kitô, mà vị thánh nào cũng tìm cách bắt chước (#96). Ta cần đón nhận những đòi hỏi của Chúa Giêsu mà không đặt bất cứ điều kiện nào, kẻo làm suy giảm tính quyết liệt của chúng. Lòng thương xót, tức tiêu chuẩn nói trên, là trái tim đang đập của Tin Mừng (#97). Chúng ta hãy nhìn một người có vẻ chẳng ra gì và thấy nơi người ấy phẩm giá giống như mình, là hình ảnh Thiên Chúa, được Chúa yêu thương và cứu độ (#98). Đối với các Kitô hữu, điều này gắn liền với một sự rầy rà lành mạnh và thường xuyên. Ví như việc giúp một người thôi cũng là đã đủ, đáng cho mọi nỗ lực của tôi, nhưng… thật ra vẫn chưa đủ, vì tôi còn phải góp phần biến đổi xã hội nữa (#99).
Nhiều Kitô hữu sai lầm khi tách rời những đòi hỏi ‘dấn thân thương xót’ của Tin Mừng khỏi mối tương quan cá vị của họ với Chúa, và như thế Kitô giáo trở thành một tổ chức phi chính phủ, không có đặc tính thần bí vốn quá rõ ràng của nó (#100). Một sai lầm ý thức hệ khác là nghi ngờ sự dấn thân xã hội, tương đối hóa nó, như thể có những điều khác quan trọng hơn… Chúng ta bảo vệ sự sống của các thai nhi, nhưng cũng phải bảo vệ sự sống của những con người đã được sinh ra đời mà bị túng cực, bỏ rơi, thua thiệt (#101). Về những người di dân, chẳng hạn, thái độ duy nhất đúng đắn của các Kitô hữu phải là đặt mình trong hoàn cảnh của họ, để đối xử với họ bằng tất cả sự ân cần quan tâm (#102). Ân cần đối với khách ngoại kiều, đó là giáo huấn mà chính Thiên Chúa nhấn mạnh ngay từ trong Cựu Ước (#103).
Việc cầu nguyện và thờ phượng được Thiên Chúa vui lòng khi nó thúc đẩy ta quên mình để sống quảng đại, quan tâm tới anh chị em (#104). Cách tốt nhất để phân định xem việc cầu nguyện của chúng ta có chân thực hay không, đó là xét xem mức độ mà đời sống của chúng ta được biến đổi trong ánh sáng của lòng thương xót (#105). Những việc bên ngoài nào cho thấy rõ nhất tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa? Thánh Tôma trả lời rằng đó là những việc làm của lòng thương xót đối với tha nhân (#106). Ai thực sự khao khát nên thánh thì sẽ chuyên chăm thực thi các công việc của lòng thương xót, và không quá quan tâm chính mình (#107). Chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa tiêu thụ cho thấy sự suy đồi của chúng ta, thật vậy, mải mê tìm lạc thú cho mình, ta khó cảm nhận và thể hiện quan tâm thực sự đối với những người túng quẫn (#108).
Chứng tá thuyết phục của các thánh được thể hiện trong đời sống các ngài, được định hình bởi Các Mối Phúc và tiêu chuẩn phán xét tối hậu (#109).
CHƯƠNG 4 (#110-157): NHỮNG DẤU HIỆU CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Cần nêu ở đây vài dấu hiệu hay thái độ tâm linh trong cái khung Các Mối Phúc và tiêu chuẩn phán xét tối hậu nói trên, như một số khía cạnh nên thánh có ý nghĩa đặc biệt (#110). Sau đây là năm cách diễn tả hùng hồn về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, trong bối cảnh hôm nay (#111).
Kiên trì, nhẫn nại, hiền hòa (#112-121)
Dấu hiệu lớn thứ nhất là đặt nền vững chắc nơi Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta (#112). Ta không lấy ác báo ác, không trả thù, không để sự dữ thao túng mình, nhưng vượt thắng sự dữ bằng sự thiện – đây không phải dấu hiệu của yếu nhược mà thực sự là sức mạnh (#113). Ta cần chiến đấu chống lại khuynh hướng hung hăng và ích kỷ nơi mình, nhờ chiếc neo cầu nguyện (#114). Và cần cảnh giác với mạng lưới ngôn ngữ bạo lực trên internet, những bôi nhọ, vu khống… (#115). Sức mạnh nội tâm sẽ giữ chúng ta khỏi bị lôi cuốn bởi bạo lực tràn lan hôm nay. Các thánh không mất giờ phàn nàn điểm yếu của người khác, các ngài không đối xử nghiệt ngã với người khác (#116). Thái độ khinh mạn, muốn khống chế, luôn ‘dạy bảo’ người khác, đó cũng là một dạng tinh vi của bạo lực (#117). Trong khi đó, lòng khiêm nhường có thể bắt rễ trong trái tim xuyên qua sự hạ mình. Các tông đồ, sau khi bị sỉ nhục, đã hân hoan vì thấy mình được xứng đáng chịu nhục mạ vì danh Đức Giêsu (#118). Ta cũng cần biết hạ mình trong những ứng xử hằng ngày, chứ không chỉ khi gặp chuyện lớn… Nhưng điều này không có nghĩa là nhu nhược trước bạo quyền bất công (#119). Hạ mình như thế không bao giờ dễ chịu, nhưng đó là một cách để bắt chước Đức Giêsu và lớn lên trong kết hợp với Người (#120). Và để hành động theo cách ấy, ta cần có một trái tim đầy ắp bình an của Đức Kitô (#121).
Niềm vui và khiếu hài hước (#122-128)
Các thánh không rầu rĩ, rụt rè, chua chát, u uất, cũng không thê thảm… nhưng các ngài vui tươi và đầy khiếu hài hước lành mạnh – vì hoa trái thiết yếu của đức ái là niềm vui (#122). Các ngôn sứ đã loan báo về thời của Chúa Giêsu, tức thời chúng ta đây, như một mạc khải của niềm vui (#123). Tin Mừng đầy những niềm vui, những mời gọi và bảo đảm về niềm vui (Lc 1,47; 10,21; 13,17; Cv 8,8; Ga 16,20.22; 15,11) (#124). Hẳn rằng những thời khắc khó khăn có thể xảy đến, với thập giá… nhưng không gì có thể phá hủy niềm vui siêu nhiên vốn mang lại sự an toàn sâu xa, niềm hy vọng vững chắc nơi ta (#125). Và niềm vui của Kitô hữu thường đi kèm một cảm thức hài hước; cần nhớ rằng buồn phiền có thể là dấu hiệu của thái độ vô ơn (#126). Thiên Chúa muốn chúng ta có thái độ tích cực, biết ơn và thoải mái, biết cảm nhận niềm vui (#127). Đây không phải niềm vui của nền văn hóa tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa ngày nay, vì lạc thú chóng qua không phải là niềm vui. Đây là niềm vui sống trong hiệp thông, trong tình huynh đệ (#128).
Dũng cảm và say mê (#129-139)
Thánh thiện cũng là ‘parrhésia’, tức lòng dũng cảm. Chúa Giêsu bảo “Đừng sợ!” (#129). Một trở ngại đối với việc loan báo Tin Mừng là thiếu lòng hăng say (cũng là ‘parrhésia’). Thánh Phaolô nói: Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng (#130). Tin Mừng cho thấy lòng trắc ẩn sâu xa của Đức Giêsu chạm tới những người khác, Người không lưỡng lự, nhút nhát hay ngượng ngùng. Vì thế, lòng dũng cảm và sự can đảm của người tông đồ là một phần thiết yếu của sứ mạng (#131). ‘Parrhésia’ là một ấn tích của Chúa Thánh Thần, nó xác nhận tính chân thực của lời chúng ta rao giảng (#132). Chúng ta cần sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần để không bị tê liệt do sợ hãi hay do thận trọng quá mức, để ta không trở thành quen sống trong phạm vi an toàn (#133). Ta thường bị cám dỗ, như Giôna, tìm chỗ trú an toàn; chỗ trú ấy có thể mang nhiều tên… Ta thường đề kháng việc rời bỏ một cách thế làm việc quen thuộc và dễ dãi (#134). Nhưng Thiên Chúa là sự mới mẻ vĩnh cửu. Ngài không ngừng thúc đẩy ta bắt đầu lại, vượt quá những gì quen thuộc, đi tới những vùng ngoại biên và xa hơn nữa. Nếu dám đi tới, ta sẽ gặp Ngài ở đó (#135). Ta cần mở trái tim mình cho Chúa Giêsu, Đấng đang đứng gõ cửa… để đi ra, thoát khỏi tình trạng qui ngã thiu thối của chúng ta (#136). Cần cảnh giác với tính tự mãn, nó thường lôi cuốn ta để ta cho phép mọi sự cứ như vậy, hay cứ như những kẻ khác quyết định nó phải vậy (#137). Trong thực tế, rất nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đang dấn thân rao giảng và phục vụ tha nhân; họ thường phải liều mạng sống, hay hy sinh sự dễ chịu trong đời sống… Họ làm ta ngạc nhiên, áy náy, thúc bách ta dứt bỏ một tình trạng xoàng xĩnh và buồn tẻ (#138). Ta cần xin ơn Chúa để không ngần ngừ khi Chúa Thánh Thần mời gọi mình bước tới, để có được sự can đảm của các tông đồ mà chia sẻ Tin Mừng Chúa Phục sinh (#139).
Trong cộng đoàn (#140-146)
Sống xa cách người khác, ta sẽ thật khó chống lại các thứ cám dỗ xác thịt, ma quỉ, thế gian (#140). Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác; điều này được thấy nơi một số cộng đoàn thánh thiện (#141). Mỗi cộng đoàn được mời gọi kiến tạo một không gian để kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong đó (#142). Tuy nhiên, những kinh nghiệm thần bí đặc biệt không thường xảy ra và không phải là điều quan trọng nhất; trái lại, đời sống chung được hình thành bởi những điều nhỏ nhặt thường ngày, như gia đình Nadaret, như đời sống mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ và với dân chúng (#143). Tin Mừng cho thấy chính Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ chú ý đến các chi tiết nhỏ nhặt (#144). Có những lúc mà giữa các chi tiết nhỏ nhặt kia chúng ta nhận được những kinh nghiệm đầy an ủi nhờ ơn Chúa (#145). Cuối cùng, tương phản với chủ nghĩa cá nhân có khuynh hướng cô lập chúng ta, nẻo đường thánh thiện làm ta nên một, như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu (#146).
Trong cầu nguyện liên lỉ (#147-157)
Các thánh được nhận diện bởi tinh thần cầu nguyện và khát khao hiệp thông với Thiên Chúa. Không có sự thánh thiện nếu không có cầu nguyện (#147). Ta có thể ở lại trong sự hiện diện của Thiên Chúa bằng thái độ cầu nguyện (#148). Nhưng cũng cần những khoảnh khắc chỉ dành cho Thiên Chúa thôi, tức việc cầu nguyện thực thụ trong thinh lặng (#149). Trong sự thinh lặng đó, nhờ Thánh Thần, ta có thể phân định những nẻo đường thánh thiện mà Chúa mời gọi mình (#150). Việc chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy đã bị tan vỡ hay đã hư hỏng do tội lỗi. Khi thấy khó khăn việc để cho Chúa chữa lành và biến đổi mình, bạn hãy đi vào trong trái tim của Chúa, đi vào trong các vết thương của Người, đó là chỗ của lòng thương xót thần linh (#151). Việc cầu nguyện không tách người ta ra khỏi đời sống thực tế (#152). Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện luôn được đánh dấu bởi hồi tưởng, được đan kết với các ký ức. Ta hồi tưởng Lời Chúa, đời sống của mình, của những người khác, của Giáo hội… (#153). Những lời cầu nguyện khẩn nài, thỉnh cầu, chuyển cầu đều có giá trị riêng (#154). Tôn thờ cũng là thái độ cầu nguyện (#155). Việc đọc lời Chúa giúp ta dừng lại và lắng nghe tiếng nói của Tôn Sư (#156). Cử hành Thánh Thể và hiệp thông Thánh Thể là sự tôn thờ và cầu nguyện tuyệt hảo (#157).
CHƯƠNG 5 (#158-177): CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH
Đời sống Kitô hữu là một trận chiến, cần sức mạnh và can đảm (#158).
Chiến đấu và tỉnh thức (#159-165)
Đây không chỉ là cuộc chiến đấu với thế gian, xác thịt, mà còn là cuộc chiến chống lại ma quỉ (#159). Để nhìn nhận ma quỉ có thực và có mặt giữa chúng ta, ta cần có một nhận hiểu siêu nhiên. Chúa Giêsu dạy ta cầu xin Chúa Cha “cứu chúng con khỏi sự dữ”, đó là Người nói đến thần dữ (#160). Ma quỉ không phải là thần thoại, và nó không cần ám chúng ta, nó đầu độc chúng ta với nọc độc hận thù, u uất, tham lam, đồi bại (#161). Lời Chúa mời gọi chúng ta đứng vững trước những mưu chước của ma quỉ; không chiến đấu, chúng ta sẽ làm mồi cho sự thất bại và xoàng xĩnh (#162). Sự tiến triển trong đời sống thiêng liêng và sự lớn lên trong tình yêu sẽ là đối trọng tốt nhất chống lại ma quỉ (#163). Ta cần biết giữ ngọn đèn cháy sáng và tránh xa mọi điều xấu, dưới bất cứ hình thức nào (#164). Hãy nhớ rằng sự hư hỏng tâm linh thì tệ hại hơn cả sự sa ngã của một tội nhân, vì đó là một dạng mù quáng mà người ta cảm thấy thỏa mãn và yên ổn (#165).
Phân định (#166-175)
Cần phân định để nhận ra điều gì đến từ Thánh Thần và điều gì đến từ tinh thần thế gian, tinh thần ma quỉ. Chính khả năng phân định này là một ân ban (#166). Ơn phân định càng cần hôm nay, trong một thế giới có quá nhiều mời mọc và quá nhiều sự ‘đội lốt’ có tính đánh lừa (#167). Phân định để không vồ vập mọi cái mới, cũng không đề kháng sự đổi mới được Thánh Thần thúc đẩy (#168). Phân định cần thiết không chỉ trong những thời khắc đặc biệt, mà cần mọi nơi mọi lúc; vì thế cần thực hành “khảo sát lương tâm” thường xuyên (#169). Việc phân định thiêng liêng được hỗ trợ bởi sự hiểu biết các khoa học nhân văn, nhưng siêu vượt các khoa học ấy. Nó liên quan nhiều hơn là thiện ích đời này của tôi, sự mãn nguyện của tôi vì đạt được cái gì đó hữu ích, hay thậm chí niềm khao khát bình an trong tâm trí của tôi. Nó không đòi những khả năng đặc biệt, vì Chúa Cha sẵn sàng mặc khải chính Ngài cho những kẻ bé mọn (#170). Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách, nhưng rõ ràng việc thinh lặng cầu nguyện thâm sâu rất cần để phân định (#171).
Nhưng ngay cả trong cầu nguyện, việc phân định cũng phải phát xuất từ thái độ sẵn sàng lắng nghe – lắng nghe Chúa, lắng nghe người khác, lắng nghe chính thực tại vốn luôn thách đố chúng ta bằng những cách mới mẻ (#172). Thái độ lắng nghe ấy gắn với tinh thần vâng phục đối với Tin Mừng xét như tiêu chuẩn tối hậu (#173). Một điều kiện thiết yếu nữa để phân định, đó là nhận hiểu sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và sự sắp xếp của Ngài, chứ không bao giờ là sự sắp xếp của chúng ta, và thuận theo ý Chúa thì gắn liền với thập giá, hy sinh (#174). Trong phân định, việc khảo sát đời sống của chúng ta không có ‘vùng cấm’; trong tất cả các khía cạnh của đời sống, chúng ta đều có thể lớn lên và dâng hiến một cái gì đó quí hơn cho Thiên Chúa (#175).
KẾT (#176-177)
Đức Maria là vị thánh giữa các thánh. Mẹ sống Các Mối Phúc của Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. mẹ dạy ta con đường nên thánh. Mẹ nâng đỡ ta khi sa ngã. Hãy thưa với Mẹ: “Ave Maria” (#176).
Hy vọng Tông huấn này hữu ích cho toàn thể Giáo hội, làm mới lại khát vọng nên thánh… nhờ đó, chúng ta cảm nhận niềm hạnh phúc mà thế gian này không tước mất được khỏi chúng ta (#177).