Chủ đề : Chúa đón nhận lời cầu nguyện khiêm nhường của người nghèo khổ
– Bài đọc I : Lời cầu nguyện của kẻ nghèo khổ
– Đáp ca : Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
– Tin Mừng : Chúa không màng lời cầu nguyện kiêu căng của người biệt phái, nhưng ưa thích lời cầu nguyện khiêm tốn của người thu thuế.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện : Chúa nhậm lời cầu nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
II. Gợi ý sám hối
– Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
– Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
– Như người thu thuế, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 35,12-14.16-18)
“Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn”. Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh : Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối ; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.
2. Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
3. Tin Mừng (Lc 18,9-14)
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống :
– Người biệt phái : anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”) ; thứ hai là anh cũng không yêu Chúa : anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
– Người thu thuế : anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
4. Bài đọc II (2 Tm 4,6-8.16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết :
– Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.
– Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
– Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Tội và thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế : hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v.v. Tuy nhiên tất cả đều là. tội của người khác ! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là “Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con”
Thực ra người biệt phái cũng có tội : tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác. Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán người biệt phái vì : a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội ; b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác ; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình ; d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người thu thuế vì : a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình ; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao ? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
“Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh” (Yiddish).
2. Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội do thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha : theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5…
Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng : nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên : “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 (“Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa”). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu “Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói : “Ta nói cho các ông biết : người này khi trở về thì đã nên công chính rồi”.
3. Lòng trí hướng về ai ?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt phái hướng về ai ?
– Trước hết là hướng về người khác : “Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”
– Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình : “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”
– Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua !
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa : “Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái : khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
4. Ai là người công chính ?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công : Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở : “Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?” Khi tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói :
– Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa :
– Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng :
– Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !
*
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, saün sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám do rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Đức Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn : “Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi”.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông “tạ ơn Chúa” nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo “cái tôi” bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa ; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa ; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này : “Vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia” (Lc, 8,11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không ; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14).
*
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”, năm C)
5. Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ : tội lỗi mà đến nhà thờ làm chi ? Chỉ là giả hình ! Nhà thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không ! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không !
Chúng ta đến nhà thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. (Flor McCarthy)
V. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
VI. Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa.
Lm. Carolo Hồ Bặc Xái