“Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại”.
(Mt 18,17)

BÀI ĐỌC I: Ed 33, 7-9
“Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác, thì Ta đòi máu nó bởi tay ngươi”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Đây Chúa phán: “Hỡi con người, Ta đã làm cho ngươi trở nên người lính canh nhà Israel: vậy khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng: ‘Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết’; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi”.

ĐÁP CA: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Đáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng” (x. c. 8).

1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! – Đáp.

2) Hãy tiến liên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. – Đáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 13, 8-10
“Yêu thương là chu toàn cả lề luật”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Đó là: “Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham”, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: “Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình”. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.

TIN MỪNG Mt 18, 15-20
5 “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế. 18 “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy. 19 “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa

NHỮNG ĐIỀU KHÓ NÓI

“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.” (Mt 18,15)

Suy niệm: Không gì khó nói hơn việc đi sửa lỗi người khác. Vì nhiều lý do. Trước hết, lý do bản thân: tôi cũng chẳng hay ho gì mà dám lên mặt dạy đời. Và bao nhiêu lý do khác. Nếu cùng là người trong nhà với tôi: bụt nhà không thiêng. Nếu không phải là người nhà với mình: thôi thì đèn nhà ai nhà nấy rạng. Bao giờ người ta cũng có lý do để né tránh vấn đề gai góc này. Chắc phải ‘uống mật gấu’ mới đủ dũng khí để “sửa lỗi cho người khác” bởi chưng, cục tự ái của mỗi người chẳng khác nào trái bom hẹn giờ không biết lúc nào sẽ nổ tung lên.
Trên đây, Chúa Giê-su đưa ra quy tắc vàng: muốn sửa lỗi cho nhau, phải được thúc đẩy bởi tình bác ái, phải tôn trọng danh dự của nhau và nhắm đến lợi ích đích thực của người anh em. Việc đi gặp riêng “một mình anh với nó thôi” tạo điều kiện cho một cuộc đối thoại ôn hoà, tôn trọng lẫn nhau và giúp nhau nhận ra thánh ý Chúa.

Mời Bạn: Bạn có nghĩ rằng 99% thất bại trong việc sửa lỗi phát sinh do việc nóng nảy, thiếu tế nhị, thiếu tôn trọng nhau? Về phần mình, khi được người khác sửa lỗi, bạn đã phản ứng thế nào?

Chia sẻ: Học hỏi cách Chúa Giê-su sửa lỗi:
– cho người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,1-11)
– cho Phê-rô (x. Ga 13,6-11.36-38; Lc 22,31-34.54-61; Ga 21,15-23).

Sống Lời Chúa: Suy niệm nhiều lần những đoạn Tin Mừng trên.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết noi gương Chúa, ghét tội nhưng thương người có tội, biết sẵn sàng hy sinh đền thay tội lỗi cho anh em mỗi khi con muốn sửa lỗi cho nhau.

B/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

ĐỨC TIN CẦN PHẢI TRẢ GIÁ

Qua lời Tổng Nguyện của Tuần XXIII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Thiên Chúa đã cứu chuộc và đã nhận chúng ta làm nghĩa tử, nghĩa là, Người đã làm cho chúng ta được tự do và được hưởng gia nghiệp của Người. Điều kiện để được hưởng ơn cứu độ của Người là tin vào Đức Kitô, Con Một của Người.

Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã hòa giải thế gian với Người, và sai chúng ta đi công bố lời hòa giải đó, như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay. Công bố lời hòa giải thật không dễ dàng chút nào, nó đòi buộc chúng ta phải có một đức tin vững mạnh, dám đương đầu với những thử thách cam go. Lời hòa giải thật khó công bố, nhưng, chúng ta cũng phải thực hiện và với ước mong, như vịnh gia, trong Thánh Vịnh 94 của bài Đáp Ca hôm nay: Ước gì hôm nay, các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng.

Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Giêrêmia đã công bố cho vua Xítkigiahu biết: Phải chịu thảm bại trước, rồi mới được cứu thoát sau. Chính vì không tin lời công bố này, mà Xítkigiahu đã chết trong lúc bị lưu đày. Thật vậy, chính trong những cơn gian nan, khốn quẫn, những lúc lo âu, những lúc chịu đòn vọt, tù tội, chúng ta mới cho thấy niềm tin của chúng ta đặt nơi Chúa, bởi vì, tất cả những ai muốn làm đẹp lòng Chúa, đều phải trải qua nhiều nỗi gian truân, mà vẫn một mực trung thành với Người. Điều này Chúa cũng cảnh báo cho ngôn sứ Êdêkien trong bài đọc một của Thánh Lễ: nếu ông sợ không dám lên tiếng cảnh báo đứa gian ác, thì nợ máu của nó, Chúa sẽ đòi ông. Lên tiếng nói lời cảnh báo những kẻ bất lương, sẽ có nguy cơ rước họa vào thân, như trong trường hợp của ông Gioan Tẩy Giả, chỉ những ai chấp nhận trả giá cho niềm tin của mình vào Chúa, mới dám thực hiện điều Chúa truyền dạy.

Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Lêô Cả nói về đức khôn ngoan Kitô giáo qua việc diễn giải các mối phúc, điều mà thế gian sẽ cho là ngu dại và điên rồ. Tuy nhiên, điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, thì Chúa lại thi thố trước mặt phàm nhân, cho những ai đặt niềm tin tưởng và tìm nương náu nơi Người.

Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cho thấy: cái giá phải trả cho đức tin vào Đức Kitô là thực thi giới luật yêu thương, yêu thương thì không làm hại người đồng loại, thấy điều có hại cho tha nhân thì phải giúp họ tránh, đó là yêu thương, yêu thương là chu toàn Lề Luật.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải lên tiếng khi chứng kiến những người xung quanh chúng ta phạm tội, và Người cũng đã dạy cho chúng ta thực hiện công việc này theo từng bước một. Cuối cùng, nếu không được, thì hãy xem đương sự như là người tội lỗi, người thu thuế. Tuy nhiên, đây không phải giới hạn cuối cùng, vô phương cứu chữa, chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giêsu đã đối xử thế nào với những người tội lỗi, và những thu thuế mà rút ra bài học. Nếu chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, thì không có gì là không thể, bởi vì, ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ, và rồi, xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, cũng sẽ ban cho.

Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã hòa giải thế gian với Người, và sai chúng ta đi công bố lời hòa giải đó. Động lực đầu tiên thúc đẩy chúng ta thực hiện lệnh truyền này chính là tình yêu của Ðức Giêsu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Chính tình yêu cứu độ này đã thúc bách chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu. Muốn hưởng ơn cứu độ, chúng ta phải tin vào Đức Kitô. Đức tin thì cần phải được tinh luyện qua những thử thách, khi đối mặt với những khó khăn, có người sẽ bỏ cuộc, ngã lòng, bổn phận của những người vững mạnh là tiếp sức, sửa dạy để những ai đang lầm lạc biết quay về nẻo chính đường ngay, khi làm như thế, chúng ta phải chấp nhận trả giá như các ngôn sứ, như chính Đức Giêsu, Đấng đến để cứu chữa những gì đã hư mất và đã chấp nhận thí mạng để làm trung gian hòa giải chúng ta với Thiên Chúa.

C/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay nêu bật một chủ đề chung: yêu thương đồng loại.
Ed 33: 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ của mình bên cạnh những người đồng hương lưu đày như ông tại Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên); ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em của mình.
Rm 13: 8-10
Thánh Phao-lô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18: 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mát-thêu trích dẫn lời Đức Giê-su mời gọi các Ki-tô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải lạc mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách khác nhau với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33: 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so bao vây Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất, vào năm 598-597, tiếp đó một phần dân cư bị lưu đày, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en ở trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những người đồng hương lưu đày cho đến khi ông qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa trách nhiệm ngôn sứ vừa nghĩa vụ tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và nghĩa vụ tư tế hợp nhất bất khả phân ly ở nơi ông. Khung cảnh là làng Tel-Avi (nghĩa là “đồi lúa mì”) bên bờ sông Cơ-va không xa kinh thành Ba-by-lon, ở đó vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày.
Từ những biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Trước đây, các ngôn sứ đã kêu gọi vua, các bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế án phạt đã xảy đến trên toàn cõi vương quốc. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ‎ý nghĩa của những lời Đức Chúa kêu gọi mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Kiểu xưng hô: “Hỡi con người” là đặc ngữ Do thái, có nghĩa đơn giản là “một con người”“một cá nhân”. Ở đây, danh xưng: “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Đặc ngữ nầy thường xuất hiện trong các sấm ngôn của Ê-dê-ki-en với một nét nghĩa tiêu cực: “ngươi chỉ là một phàm nhân” không hơn không kém.
Mỗi lần Thiên Chúa giao phó cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đều đặt ông vào vị thế của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Qua đặc ngữ này, vị ngôn sứ nêu bật sứ điệp cao vời khôn ví của Thiên Chúa gởi đến cho ông và thân phận phàm nhân thấp kém của ông, người được diễm phúc đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa.
2. “Người canh gác”:
Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa đích thân tuyên bố: “Ta đã đặt ngươi là người canh gác cho nhà Ít-ra-en”. Những hình ảnh: “người canh gác”“người canh thức”“truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để mô tả sứ vụ ngôn sứ của dân Ít-ra-en. Như một phàm nhân, ông được Thiên Chúa giao phó trách nhiệm làm người canh gác cho những người đồng hương lưu đày như ông. Sứ vụ ngôn sứ của ông được mô tả cách đơn giản như sau: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết”.
Xa hơn một chút, ở cuối chương 33 này, chính Ê-dê-ki-en gợi lên hình thức thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình trong những cuộc trò chuyện của mình với những đồng hương lưu đày: “Phần ngươi, hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Trong bầu khí chuyện trò thân tình này, qua những cuộc tiếp xúc gần gũi giữa người với người mà vị ngôn sứ có thể gởi đến cho từng người những lời cảnh báo huynh đệ.
3.Trách nhiệm cá nhân:
 Chết chính là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Ngài là nguồn mạch của mọi thiện hảo đối với dân Ít-ra-en. Đó là cách nói quen thuộc của Cựu Ước để trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa, người ấy phải bổn phận giúp anh em mình được sáng tỏ: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: ‘Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết’, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Vả lại, ông là vị ngôn sứ vĩ đại đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, số phận của mỗi người không bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải để trở thành người công chính. Đây cũng là những lời Đức Giê-su khuyên các môn đệ của Ngài về việc sửa lỗi cho anh em mình trong Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh Phao-lô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người tín hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù tất cả những nghĩa vụ nầy phải chu toàn, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
 “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”: Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ, nhưng không nói rõ bổn phận yêu thương đồng loại; yêu thương đồng loại được sách Lê-vi công bố và thánh Phao-lô cũng trích dẫn: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18).
Theo Cựu Ước, “đồng loại” trước hết những người thuộc cùng chủng tộc. Đức Giê-su đã mở rộng tầm mức của huấn lệnh yêu thương đến tất cả mọi thành phần cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng luật mới Đức Ái Ki-tô giáo cũng đòi buộc nữa. Sở dĩ thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất, huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa, vì lời khuyên của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ, vì lẽ huấn lệnh yêu thương đồng loại bất khả tách rời huấn lệnh yêu mến Thiên Chúa. Chính từ yêu mến Thiên Chúa mà yêu thương đồng loại được khơi nguồn. Nếu yêu thương đồng loại vô giới hạn là do mẫu gương của tình yêu Thiên Chúa đối với con người vô cùng. Ở đây, thánh nhân nhấn mạnh tình tương thân tương ái, đó là “chu toàn lề luật”.
TIN MỪNG (Mt 18: 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp lại những huấn lệnh mà Đức Giê-su đã truyền đạt cho các môn đệ của Ngài, họ là hoa trái đầu mùa của Giáo Hội Ngài. Diễn từ nầy cũng được gọi “diễn từ về Giáo Hội”.
Việc sửa lỗi cho nhau mà Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài thực hành đã được nhắm đến trong luật Mô-sê: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.” (Lv 19: 17). Câu trích dẫn nầy đi gần sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực thi truyền thống tốt đẹp nầy. Đức Giê-su phục hồi truyền thống nầy trong tinh thần yêu thương khi Ngài đề nghị bốn cấp độ trong việc sửa lỗi cho anh em mình:
1.Trong chỗ riêng tư kín đáo (18: 15)
Cấp độ thứ nhất quy chiếu đến những tội riêng tư hay ẩn kín. Ở đây, việc sửa lỗi phải được tiến hành trong chốn riêng tư, “một mình anh với nó mà thôi”, để tránh lỗi phạm của người anh em được mọi người biết, nhờ đó không làm thương tổn đương sự và cũng tạo dịp thuận tiện dễ dàng hơn cho đương sự thay đổi cách sống của mình.
2.Với một hay hai người khôn ngoan (18: 16)
Nếu việc sửa lỗi trong chốn riêng tư không đem lại kết quả như mong đợi, cấp độ thứ hai được tiến hành: tìm gặp một hay hai người bạn, những người có ảnh hưởng hơn trên đương sự. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan, nhưng thấu tình đạt lý. Cả hai đều được tháp nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu nên cả hai đều được liên kết với nhau vào những quy tắc mà Đức Giê-su đã ban cho cộng đoàn.
3.Trước Cộng Đoàn (18: 17-18)
Nếu đương sự không chấp nhận việc sửa lỗi, cấp độ thứ ba được tiến hành: người nầy bị xét xử theo hình thức pháp lý bằng cách quy chiếu đến uy quyền của Hội Thánh. Chỉ lúc đó, người này mới bị loại trừ, bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, nghĩa là người ấy bị vạ tuyệt thông, bị tách ra khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh. Ở đây, Đức Giê-su dùng thuật ngữ “Hội Thánh” theo nghĩa một cơ cấu xã hội, một cộng đồng hiện thực, hữu hình và khắn khít, phụ thuộc trực tiếp vào Người và nhóm Mười Hai cùng các vị kế vị của các ngài, họ có quyền tài phán mà chính Đức Giê-su xác nhận: “Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”.
4.Viễn cảnh Hội Thánh (18: 19-20)
Theo văn mạch của việc sửa lỗi anh em trong đức ái huynh đệ này, nếu như việc sửa lỗi anh em ở cấp độ thứ ba không đạt đến kết quả và người ấy bị khai trừ khỏi cộng đồng; tuy nhiên, công việc không được dừng lại ở đó, người anh em này vẫn ở trong tâm trí của cộng đoàn và đặc biệt trong lời cầu nguyện chung: “Thầy bảo thật anh em: Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho”. Tính hiệu quả của lời cầu nguyện chung này được bảo đảm chắc chắn vì Con Thiên Chúa làm người gần gũi với con người hơn bao giờ hết: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”. Nhờ lời cầu nguyện chân thành, tác động ân sủng của Chúa biến đổi người anh em mình, để người anh em ấy nhận ra lỗi lầm mà thay đổi đời sống và được gia nhận trở lại với cộng đoàn. Cộng đoàn Ki-tô hữu luôn luôn là cộng đoàn rộng mở đón người anh em lầm đường lạc lối.
Chúng ta phải ghi khắc trong tâm trí mình rằng Đức Giê-su tha thiết quy tụ mọi người, bất kỳ là ai thuộc chủng tộc nào, chung quanh Ngài để làm thành một cộng đoàn tín hữu chan chứa tình huynh đệ. Cách sống này ngược lại với thái độ dửng dưng “sống chết mặc bây”, chỉ biết sống cho riêng mình mà không quan tâm đến đời sống cộng đồng, một trong những đặc tính của người Ki-tô hữu (x. Mt 18: 15). Mặt khác, Đức Giê-su không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải giám sát nhau và phân loại nhau theo bậc thang giá trị luân lý. Các cấp độ mà Ngài đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức ái. Việc sửa lỗi anh em chỉ mang lại kết quả nếu phát xuất từ đức ái chân thành.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta một hướng dẫn đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (18: 14). Đây là bổn phận chăm lo anh chị em mình về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một anh chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cứu vớt một anh chị em đang sa vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình cứu độ của Đức Giê-su. Chúng ta không chỉ chịu trách nhiệm về bản thân mình mà còn phải chịu trách nhiệm về nhau, như lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật” (Rm 13: 8).

D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

VIỆC SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN

A.DẪN NHẬP

Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập toàn không? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế, vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng: “Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đoàn. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.

Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đoàn, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi?

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước: từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.

B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+Bài đọc 1: Ez 33,7-9

Ezéchiel được chọn làm tiên tri. Vai trò của tiên tri là phải tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri có trách nhiệm mang đến cho loài người sứ điệp của Chúa và để báo cho con người sự nguy hiểm, nếu họ không tuân lệnh Chúa. Nếu tiên tri nói với kẻ gian ác mà nó không nghe, thì nó phải chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu tiên tri không chịu vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Như vậy, tiên tri được coi như người lính gác phải luôn thức tỉnh, để nhắc nhở kẻ có tội để họ khỏi phải hư đi.

+Bài đọc 2: Rm 43,8-10

Thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma nhắc lại lời Chúa Giêsu trả lời cho người biệt phái muốn biết điều răn nào trọng nhất: điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là mến Chúa trên hết và điều răn thứ hai cũng giống như vậy là thương yêu anh em như chính mình. Tất cả những giới răn chỉ gồm lại trong một điều: thương yêu người anh em. Thánh Phaolô tóm tắt lại: Yêu thương là chu toàn cả lề luật.

+Bài Tin mừng: Mt 18,15-20

Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến mối tương quan giữa mọi người trong cộng đoàn. Một trong những mối tương quan đó là sửa lỗi cho nhau. Khi một người phạm lỗi thì đều liên quan đến cộng đoàn. Vì vậy, với tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải sửa lỗi cho họ trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Diễn tiến việc sửa lỗi này là tiệm tiến, phải đi từ kín đáo đến công khai:

– Riêng ngươi với nó: giữa hai người.

– Đem theo một hay hai người làm chứng.

– Kể nó như người ngoại hay thu thuế.

Tuy nhiên, thánh Mátthêu ghi tiếp sau đoạn này (Mt 18,21-35) là có lỗi giữa hai cá nhân với nhau. Trong trường hợp này thì giải pháp hay nhất là tha thứ.

Mục đích của việc sửa lỗi này không phải nhằm lên án người có tội mà là thức tỉnh họ, giúp họ trở về với cộng đoàn. Cả hai trường hợp cần có sự cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, nhất là việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn.

C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA: 

HÃY SỬA LỖI CHO NHAU

I.MỌI NGƯỜI ĐỀU SAI LỖI

1.Lời khẳng định

Người ta thường nói: “Nhân vô thập toàn”: Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi. Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói: “Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.

Thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10). Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự: “Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).

2.Từ chối nhận lỗi

 Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi, bởi vì tính tự ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy. Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên tổ. Ông bà Nguyên tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói:

– Lỗi là do bà ấy.

Hỏi bà, bà nói:

– Lỗi là do con rắn ấy.

Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.

Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng!

Truyện: Không nhận lỗi

Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết: “Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâuthì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.

Ông đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz:

Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói: “Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai”.

 Capone đã tự tuyên bố: “Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.

Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả: “Ta là ân nhân của thiên hạ” (Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).

II.NHU CẦU PHẢI SỬA LỖI

Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đoàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.

Trong cách sửa lỗi người ta hay nói: “Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi” (Tục ngữ). Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này?

* Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.

Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đày biệt xứ hoặc tử hình như pháp luật vẫn làm.

* Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trương của nhà giáo dục người Pháp, ông Jean Jacques Rousseau.

Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo (Lm. Vũ Khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)

Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị:

– Tế nhị về phía người được sửa lỗi.

– Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.

Người ta thường nói: “Thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng” (Tục ngữ). Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình, nhưng dù sao cũng phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình. Kinh nghiệm cho hay: người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại, vì nhớ đến lời Chúa phán: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt anh đã”.

Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên, thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa.

 Chúa khuyên chúng ta phải sửa lỗi cho nhau, vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau:

 * Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.

 * Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ích kỷ.

III.PHẢI SỬA LỖI NHƯ THẾ NÀO?

Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước:

Bước 1Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em, mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.

Một cuộc hòa giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.

Bước 2: Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2. Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1).

Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.

Bước 3: Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo hội: trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.

Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng: người tội lỗi tự loại mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).

IV THÁI ĐỘ KHI SỬA LỖI

Ông Henry Ford nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Nói cách khác, sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy? Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này:

1.Yêu thương

    Hãy bày tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn: đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.

Truyện: Đức Giám mục đi kinh lý

 Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án: “Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.

Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo: “Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám mục mới nói: “Bây giờ anh chị em phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa, vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.

2.Kính trọng

Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi. Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.

Truyện: Án Tử căn ngăn vua

Vua Cảnh Công nước Tề, có một con ngựa quí, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:

– Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?

Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:

– Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.

Án Tử nói rằng:

– Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.

Vua nói:

– Phải.

Án Tử kể tội rằng: “Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quí của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa, mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm ngó (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục…”.

Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng:

– Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân (Ng. Văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29).

3.Cầu nguyện

Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.

Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục. Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội. Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.

Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích sự hoà giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hoà giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.

 Lạy Chúa, biết nhìn nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng: sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.

Ôi! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.

Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ hãi nữa (L. Terphagnon).