• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật XXIV Thường Niên, Năm A

Ngày Đăng: 17/09/2023
Trong Mùa Thường Niên

“Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng:
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ?”
(Mt 18,21)

BÀI ĐỌC I: Hc 27, 33 – 28, 9 (Hl 27, 30 – 28, 7)
“Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha”.

Trích sách Huấn Ca.

Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm, người có tội đều mắc cả hai. Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù, và Chúa nghiêm trị tội lỗi nó. Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao ?Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao ? Nó là xác thịt mà tích lòng thịnh nộ, thì dám xin Chúa tha thứ làm sao ?Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó ?

Ngươi hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù: hãy nhớ đến sự hư nát và sự chết, hãy trung thành với các giới răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.

ĐÁP CA: Tv 102, 1-2. 3-4. 9-10. 11-12
Đáp: Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân (c. 8).

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. – Đáp.

2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. – Đáp.

3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. – Đáp.

4) Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân hậu Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Rm 14, 7-9
“Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa; nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Đức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết.

TIN MỪNG: Mt 18, 21-35

21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không ?” 22 Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” 23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”

SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa

THA THỨ ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA

“Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.” (Mt 18,35)

Suy niệm: Ma-hat-ma Gan-đi nói: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh”. Đúng nhất phải nói rằng: “Tha thứ là phẩm tính của Thiên Chúa.” Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho điều đó. Ông chủ tha cho tên đầy tớ món nợ khổng lồ ngay tức khắc và vô điều kiện chỉ vì ông chạnh lòng thương trước lời van nài của y.
Tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa là món nợ vô cùng lớn mà chúng ta hoàn toàn không có khả năng chi trả. Dù vậy, Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta chỉ với một điều kiện là chúng ta cũng tha thứ cho anh em mình.

Mời Bạn: Thiên Chúa tha thứ vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Chúng ta phải tha thứ cho nhau bởi vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót và tha thứ. Càng cảm nhận mình được Chúa xót thương và tha thứ nhiều, chúng ta càng thấy mình có nghĩa vụ cũng phải tha thứ cho anh em nhiều, “không chỉ bảy lần mà là bảy mươi lần bảy”. Khi cư xử như thế chúng ta không sợ phải thiệt thòi vì Chúa dạy: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy, đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em” (Lc 6,38).

Sống Lời Chúa: Bạn có còn giận ghét ai vì bị họ xúc phạm? Hãy tha thứ bằng cách bỏ đi thái độ hờn giận, và thay vào đó là những cử chỉ, lời nói vui tươi và thân ái.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con niềm tin vào lòng thương xót Chúa, để chúng con dám trở về hoà giải với Chúa mỗi khi yếu đuối lỗi lầm. Và cho chúng con một trái tim yêu thương quảng đại, để chúng con luôn tha thứ cho nhau như Chúa tha thứ cho chúng con.

B/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

THỜ PHƯỢNG VÀ YÊU MẾN

Qua Lời Tổng Nguyện của Tuần XXIV Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Ðấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.

Chúng ta càng tận tình thờ phượng Chúa, chúng ta sẽ càng cảm thấy được rõ ràng tình yêu thương của Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là Đấng đáng chúng ta tôn thờ, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Êdêkien đã nhìn thấy trên cái gì tựa như cái ngai có cái gì trông như hình dáng một con người, và ông nghe có tiếng hò la vang dội từ trên cao: Chúc tụng Đức Chúa vinh hiển trong nơi thánh của Người. Ngôn sứ cũng tiên báo mọi dân tộc sẽ nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa sẽ ngự khắp mọi nơi, chứ không chỉ ngự trong Đền Thờ hay trên núi Xinai. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh cho thấy tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua hình ảnh người mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình: Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho chiên nằm nghỉ. Người dẫn chiên trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Thánh nhân cũng khiển trách những mục tử chỉ muốn nghe người ta gọi mình là mục tử, mà không muốn chu toàn nhiệm vụ mục tử của mình.

Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền, chứ không như đứa đầy tớ khiếp sợ ông chủ hà khắc, bởi vì, như lời của vịnh gia trong Thánh Vịnh 102 của bài Đáp Ca hôm nay: Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa tha cho ta muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ta. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.

Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Người sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho ta, vì thế, Người cũng muốn chúng ta bắt chước Người luôn yêu thương và tha thứ cho những ai xúc phạm đến chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Huấn Ca đã kêu gọi: Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha. Bởi vì, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển mọi loài, nên Người có quyền trên tất cả, chúng ta chỉ là thụ tạo bé nhỏ của Người, chúng ta phải tùy thuộc vào Người, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã mạnh dạn khẳng quyết: Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. Sống, chết đã không thuộc quyền của chúng ta, thì phán xét và kết án lại càng không phải là quyền của chúng ta, vậy sao chúng ta lại có thể giữ mãi lòng thù hận, quyết không tha thứ cho một ai đó, không tha thứ cho người khác, là chúng ta đang cầm giữ chính mình trong những giận hờn ích kỷ. Đang khi đó, Chúa luôn mời gọi chúng ta phải yêu thương nhau như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.

Yêu thương như Thầy, nghĩa là, cũng phải tha thứ như Thầy. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã mời gọi phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha thứ luôn mãi, không thôi: như hương thơm tiết ra từ cây “hương mộc” cho cả chiếc rìu chặt nó, lòng bao dung tha thứ cũng tuôn chảy từ Thánh Tâm rực cháy lửa tình yêu cho cả những kẻ đóng đinh Đấng là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển mọi loài, cho nên, thờ phượng Chúa thật là phải đạo và chính đáng, nhưng, như lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samaria: không còn thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay núi kia, mà là, trong Thần Khí và Sự Thật, nhất là, thánh Phaolô đã khẳng quyết: chúng ta là Đền Thờ của Thiên Chúa (x. 1Cr 3,16). Do đó, càng thờ phượng Thiên Chúa nơi chúng ta, chúng ta sẽ càng nghiệm thấy tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho chúng ta, vì thế, tha thứ không chỉ dừng lại ở việc tha thứ cho tha nhân, nhưng còn là tha thứ cho chính mình, và cũng vậy, tha thứ cho chính mình lại trở thành tiền đề để tha thứ cho tha nhân.

Nếu không biết tha thứ cho chính mình, làm sao chúng ta có thể tha thứ cho người khác. Nhiều xung đột với người khác là phản ảnh của những xung đột trong chính nội tâm chúng ta, do việc chúng ta đã không chấp nhận những khiếm khuyết đó nơi chính mình. Nếu chúng ta không tha thứ cho chính mình, thì chúng ta sẽ bắt người khác phải trả giá cho sự bất hòa bên trong chúng ta. Thời điểm lên án mình, chúng ta cũng đang lên án toàn thế giới. Nếu hiệu hữu trong chúng ta đã bị lên án, thì làm sao chúng ta có thể chấp nhận hiện hữu ở xa chúng ta, trong những người khác.

Tha thứ cho chính mình: chỉ lên án tội, chứ không lên án mình, tội nằm trong hành vi của chúng ta, chứ không phải trong hữu thể chúng ta. Chúng ta có những hành vi sai, vì chúng ta không nhận biết, không tỉnh thức. Nỗ lực của chúng ta là hãy làm cho mình thức tỉnh.

Thay vì chúng ta kết án tha nhân, chúng ta hãy làm cho họ thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh là bắt đầu biến đổi, hoàn toàn thức tỉnh là chúng ta đạt tới chính Chúa. Chúng ta hoạt động trong mê ngủ, nên phạm nhiều sai lỗi và xúc phạm lẫn nhau. Nhìn lại chính mình với những bất toàn, thiếu sót, chúng ta phải biết chấp nhận và tha thứ cho chính mình, khi đó, chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác. Thiên Chúa là Cha hằng luôn yêu thương tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng phải biết yêu thương tha thứ cho chính mình, càng cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của Chúa dành cho chúng ta cách nhưng không, chúng ta sẽ càng dễ dàng yêu thương và tha thứ cho tha nhân cách vô điều kiện, không tính toán so đo.

C/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông

SỰ THA THỨ

BÀI ĐỌC I (Hc 27: 30-28: 1-7)

Trào lưu Khôn Ngoan nở rộ trong toàn thể miền Cận Đông xưa: Ai-cập, Su-me, Ba-by-lon… Sách Huấn Ca là một trong năm tác phẩm thuộc trào lưu Khôn Ngoan Cựu Ước: Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan và Huấn Ca.

Tác giả của sách Huấn Ca là ông Si-rác sống vào cuối thể kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Là bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem và bậc hiền nhân, ông đã viết lại những lời khuyên “đối nhân xử thế” của mình vào khoảng năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau, cháu nội của ông đã dịch tác phẩm của ông sang tiếng Hy-lạp và xuất bản.

Sự khôn ngoan, thành quả của trầm tư và kinh nghiệm, là gia sản chung của toàn thể nhân loại. Nhưng sống vào thời kỳ Do thái giáo bị đe dọa bởi văn hóa Hy lạp, nhà hiền triết Do thái ôm ấp một hoài bảo: chấn hưng những giá trị luân lý Do thái giáo. Theo ông, sự khôn ngoan Do thái vượt lên trên sự khôn ngoan Hy lạp, vì sự khôn ngoan Do thái có Thiên Chúa làm khuôn mẫu và Luật của Ngài làm chuẩn mực sống.

Sách Huấn Ca là loại sách kim chỉ nam chứa đựng nhiều lời khuyên cho cuộc sống thường ngày. Sách đề cập đến mọi đề tài. Đoạn trích dẫn hôm nay đề cập đến việc báo thù và tha thứ.

1.Cách hành xử của kẻ gian ác:

Nhà hiền triết nhắm trước tiên đến thái độ của kẻ gian ác:

“Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài”.

Nếu ai cố chấp trong sự oán hờn và giận dữ, người ấy rồi sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa:

“Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Đức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng ly”.

Đây là điều mà chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo, gieo gió gặp bão”.

Theo Cựu Ước, quan niệm “thưởng phạt ở đời sau” chỉ xuất hiện sau nầy, vì thế kẻ gian ác sẽ chuốc lấy hậu quả của điều ác mà nó gây ra ngay tại đời nầy.

2.Đức hạnh của người công chính:

Ngược lại với thái độ của kẻ gian ác, nhà hiền triết phác họa đức hạnh của người công chính:

“Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha”.

Sự tha thứ được sách Lê-vi diễn tả rõ ràng: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em… Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình ngươi” (Lv 19: 17-18).

Nhà hiền triết nêu lên lý do tại sao phải tha thứ:

“Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà dám xin Đức Chúa chữa lành!
Nó chẳng biết thương người đồng loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình”.

Đó chính xác cũng là lời nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6: 12)

“Hãy nghĩ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù”.

Đây là đề tài chủ đạo của nhà hiền triết. Người công chính phải thoát khỏi mọi ưu tư hằng ngày để nghĩ đến số phận của mình là một ngày kia sẽ từ giả cõi thế, đây không cốt là nghĩ đến phần thưởng của cuộc sống mai sau. Vào thời Si-rác, Ít-ra-en chưa biết đến phần thưởng mai hậu nầy (chỉ xuất hiện muộn thời). Cho dù người công chính không thể biết được khi nào những án phạt sẽ giáng xuống trên bọn ác nhân – vì Đức Chúa sẽ báo thù – thì phải trung thành với những huấn lệnh và nghĩ đến Giao-ước:

“Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi”.

Thái độ nầy thật sự cao thượng dù chân trời bị giới hạn chỉ vào việc thưởng phạt trần thế và kinh nghiệm cho thấy những phần thưởng nầy khó đáp trả sự mong chờ của người công chính. Nhưng người có niềm tin phải hành động xuất phát từ lòng yêu mến Thiên Chúa và Luật của Ngài. Không phải chính lòng trung thành với Giao Ước đảm bảo sự quan phòng của Thiên Chúa trên dân Ít-ra-en và mỗi thành viên đó sao? Nền luân l‎ý nầy thật cao thượng chuẩn bị trực tiếp cho lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng.

BÀI ĐỌC II (Rm 14: 7-9)

 Đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, nếu tách ra khỏi mạch văn của nó, chúng ta khó nắm bắt được ý nghĩa những lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô.

Trong chương 14 thư gởi tín hữu Rô-ma nầy, thánh Phao-lô bàn đến những mối liên hệ giữa những người Ki-tô hữu trong lòng cộng đoàn. Thánh nhân gợi lên nhiều quan điểm khác nhau trong thái độ thường ngày, giữa những người mà thánh nhân gọi là “những người yếu” và những người thánh nhân gọi là “những kẻ mạnh”.

Thánh nhân đề cập cách chi tiết: những người không ăn kiêng và những người ăn kiêng, những người sống khổ hạnh và những người bài bác khổ hạnh, vân vân. Từ đó thánh nhân kết luận cuộc sống hòa hợp của cộng đoàn phải căn cứ trên sự tự do của mỗi người trong sự kính trọng kẻ khác.

Ở nơi lời dạy của thánh nhân, tự do chứ không cá nhân chủ nghĩa, vì “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Đức Ki-tô, mà có chết cũng là chết cho Người”, bởi vì “Đức Kitô đã không sống cũng không chết cho chính mình, nhưng cho chúng ta”. Mọi dị biệt phải bị xóa nhòa trước mối liên hệ căn bản: hiệp nhất mọi thành phần của cộng đoàn: Tất cả chúng ta đều thuộc về Đức Ki-tô.

Khởi đi từ những chi tiết nhỏ nhặt cụ thể đến một quan điểm thần học, đó là nét đặc trưng của thánh Phao-lô thường hằng trong các thư của thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 18: 21-35)

Sau khi đã căn dặn đức ái huynh đệ trong việc sửa lỗi cho nhau và đã cảnh báo mỗi thành viên trong cộng đoàn phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau (Chúa Nhật XXIII), Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài còn đi xa hơn nữa: cho đến việc tha thứ vô điều kiện và luôn mãi đối với những kẻ xúc phạm mình.

1.Cuộc chuyện trò thân mật giữa Thầy và trò (18: 21-22):

Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu làm nổi bật nhân vật Phê-rô, thậm chí ngay cả trước khi thánh nhân được tấn phong làm thủ lãnh của nhóm Mười Hai và của Giáo Hội trong tương lai như thánh Phê-rô trong bão tố, thánh Phê-rô ở Xê-sa-rê, thánh Phê-rô trong biến cố Biến Hình.

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy, chính thánh Phê-rô lên tiếng hỏi thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mầy lần?”. Thánh nhân vừa hỏi, nhưng đồng thời cũng nhanh miệng đưa ra một đề nghị: “Có phải bảy lần không?”. Khi đề nghị bảy lần, thánh Phê-rô nghĩ là mình quá rộng lượng từ tâm lắm rồi, bởi vì theo truyền thống Do thái việc tha thứ cho anh em mình chỉ dừng lại ở con số ba lần. Kinh sư Hanina dạy rằng: “Ai xin người lân cận mình tha thứ, không được xin quá ba lần”, còn kinh sư Jehuna thì dạy: “Nếu một người phạm tội một lần, hãy tha thứ; hai lần hãy tha thứ; ba lần cũng hãy tha thứ cho người ấy; nhưng lần thứ tư thì không tha thứ nữa!”. Đối với văn hóa Việt Nam, “Sự bất quá tam”. Hơn nữa, “con số bảy” được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả mức độ trả thù tận mức : “Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” (St 4: 15). Ngoài ra ông La-méc, hậu duệ của Ca-in, đã huênh hoang tự đắc với các bà vợ của mình:

“Ca-in sẽ được trả thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy.” (St 4: 25).

Khi trả lời cho thánh Phê-rô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”, Đức Giê-su thay thế sự trả thù vô cùng tận của La-méc bằng sự tha thứ vô giới hạn.

2.Dụ ngôn (18: 23-24)

Để minh họa tư tưởng của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn mà chỉ mình thánh Mát-thêu thuật lại. Khi so sánh với bài đọc thứ nhất trong đó hiền triết Si-rác dạy rằng phần thưởng cho việc tha thứ chỉ vuông tròn trong hạnh phúc trần thế, Đức Giê-su nhắm đến việc tha thứ đem lại phần thưởng trong Vương Quốc Nước Trời. Lời khai mào nầy loan báo rằng Đức Giê-su sắp ban chìa khóa mở cửa Vương Quốc nầy.

Dụ ngôn là một bi kịch gồm ba hoạt cảnh.

2.1-Hoạt cảnh thứ nhất:

Đức Vua (ám chỉ đến Thiên Chúa), được giới thiệu ngay từ đầu, đòi hỏi bầy tôi thanh toán sổ sách. Phần cuối của dụ ngôn sẽ cho thấy việc thanh toán sổ sách không là điều cốt yếu mà dụ ngôn nhắm tới.

Đức Vua đích thân triệu tập người đầy tớ mắc nợ Vua mười ngàn nén vàng. Đây là một món nợ quá lớn đến mức tự sức mình chúng ta không thể nào có thể trả nổi. Với một món nợ quá lớn mà một người nô lệ không thể nào mắc nợ được, vì thế các nhà chú giải hiểu rằng người đầy tớ trong dụ ngôn nầy là một vị quan, bởi vì trong nền văn hóa Đông Phương, các quan được gọi là tôi bộc của Vua.

Vì không thể trả nổi, người đầy tớ bị Đức Vua ra lệnh thi hành án phạt: “Bán y, cùng tất cả vợ con, tài sản, mà trả nợ”. Quả thật, sự liên đới của mọi thành viên trong gia đình trải rộng cho đến món nợ mà người chủ gia đình mắc phải. Bấy giờ tên đầy tớ sấp mình xuống van xin: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết”. Đức vua liền chạnh lòng thương (đây cũng là động từ mà các Tin Mừng dùng để diễn tả tấm lòng xót thương của Đức Giê-su trước những đau khổ của con người), tha hết món nợ cho y: hình ảnh của ơn cứu độ nhưng không.

2.2-Hoạt cảnh thứ hai:

Hoạt cảnh thứ hai được xây dựng trên một sự tương phản với hoạt cảnh thứ nhất. Tên đầy tớ được Vua tha bổng lại hành xử đối với một trong những bạn đồng liêu của mình, người nầy mắc nợ y một trăm bạc, một món tiền không đáng là bao so với món nợ của y đối với Đức Vua. Y chẳng thèm để ý đến lời van xin của bạn mình: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”, chính xác là những lời mà trước đây y đã van xin Đức Vua. Cách hành xử của y đối với bạn của y: liền túm lấy, bóp cổ và tống anh bạn mình vào tù mà không một chút động lòng xót thương, khác xa với cách hành xử của Đức Vua đối với y.

Người đầy tớ nầy không ngờ rằng có một mối quan hệ hỗ thương giữa thái độ của y đối với bạn đồng môn của mình và thái độ của Đức Vua đối với y. Khi từ chối lòng xót thương của y đối với bạn mình, y huỷ bỏ lòng xót thương mà y được hưởng từ Đức Vua.

2.3-Hoạt cảnh thứ ba:

Đức Vua thay đổi thái độ hoàn toàn đối với y: Ngài nổi cơn thịnh nộ giao người đầy tớ không có lòng xót thương cho l‎ý hình hành hạ cho đến ngày y trả hết nợ. Chính ở đây để lộ cách thức tính sổ của Đức Vua. Ngài phán xử mỗi người không căn cứ trên việc tính toán chi ly của món nợ, nhưng trên khả năng yêu thương và tha thứ của mỗi người đối với anh em đồng loại của mình.

3.Bài học (18: 25):

Từ dụ ngôn, Đức Giê-su rút ra một bài học quan trọng trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với chúng ta: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Bài học nầy làm chúng ta nhớ đến điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa tha thứ trong kinh Lạy Cha: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6: 14-15).

Phía sau dụ ngôn nầy, chính cuộc sống của Đức Giê-su bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đem đến những phương thế đổi mới tấm lòng của con người, ngõ hầu họ có khả năng yêu thương và tha thứ cho nhau.

D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

HÃY THA THỨ CHO NGƯỜI KHÁC

A.DẪN NHẬP                                               

  Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.

  Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói: “Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hoà với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.

  Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác, thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Hc 27,30-28.7 – Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ:

 – Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.

 – Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.

 – Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.

 – Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.

 – Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.

+ Bài đọc 2: Rm 14,7-9

  Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Rôma hay phê bình chỉ trích nhau, vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề, ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu… Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo. Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định: Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài có ý khuyên: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.

+ Bài Tin mừng: Mt 18,21-35

  Ông Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu: khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần ? Có đến 7 lần không ? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ “quá tam ba bận” thôi.

  Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.

  Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ, nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.

  Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em. vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em, thì Thiên Chúa mới tha cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thứ.

C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA:

THA THỨ THÌ ĐƯỢC THỨ THA

I.THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THA THỨ

1.Trong Cựu ước

  Chính lúc đối diện với tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa huỷ diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giàu ân sủng và trung tín… dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt…”

  Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng: “Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).

  Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bày tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao ? Làm sao vị hôn thê bất trung với giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ, khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm ? (Gr 3,1-5) Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích huỷ diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23), để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài, vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.

  Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).

2.Trong Tân ước

  Chúa Giêsu đến không phải phá huỷ lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói: “Các ngươi có nghe lời truyền rằng: hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng: hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời: vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất lương”(Mt 5,43-45).

  Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều. Nên Chúa Giêsu đã phán: “Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ, mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói: “Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi” (Mt 6,14)

II.CON NGƯỜI PHẢI THA THỨ

1.Thực hiện lời Chúa dạy

  Người ta thường nói: “Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.

  Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không ?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7” (Mt 18,21-22; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22; Lc 17,4).

  Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu chuyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.

  Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.

  Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi quá trầm trọng, nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.

  Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.

  Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố “Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ (R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Mátthêu, tập 2, tr 78).

2.Người đời và sự tha thứ

  Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý của Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:

 * Nhận xét của nhân gian

  Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân: “Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên”: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.

  Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị sỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xảy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Socrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng:

Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.

 * Chủ trương của hiền nhân quân tử

  Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.

 . Nhà Nho dạy thế nào ? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết: “Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu: “Dĩ đức báo oán”.

 . Ông Gandhi nói: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động, để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.

 . Ông Tertullien nói: “Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không ? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.

 . Hiền triết Marc Aurèle nói: “Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.

 . Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Bằng cớ là nhà ông có một chiếc đèn khá quí, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn quí đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.

Truyện: Hoàng đế Trung Hoa trả thù

  Một hoàng đế Trung Hoa nói: “Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.

  Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.

  Họ tâu vua:

 – Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.

  Hoàng đế trả lời:

 – Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).

 * Cách trả thù hay nhất

  Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trả thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên, chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.

  Ông Swift nói: “Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.

  Hiền triết Marc Aurèle nói: “Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này: đừng giống họ”.

  Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.

  Mạnh Tử nói: “Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.

Truyện: Trọng danh dự

  Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.

  Le Tasse nghiêm trang trả lời:

 – Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi (Hoàng Xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200).

  Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta: “Anh muốn vui sướng trong chốc lát: cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.

III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI THA THỨ

  Với tất cả những tư tưởng được trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện.

  Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hoà là kẻ biết tha thứ cho nhau, để tạo bầu không khí hòa thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện:

 . Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15; Mc 11,25; Lc 11,4).

 . Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24); Mc 11,25).

  Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi, và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói: “Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ” (Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã.

  Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã, rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng: không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên ngoài, bằng một hành động cụ thể.

  Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể ? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài, vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.

  Văn hào Goethe đã nói: “Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.

  Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói: “Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.

  Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không: “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mích với nhau, thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.

Truyện: Hoàng đế Othon tha thứ

  Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.

  Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính tòa Quellimbourg. Đến phần phụng vụ Lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã tha chết cho ngươi, mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần ? Có phải 7 lần chăng ?” Chúa đáp: “Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.

  Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavière nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).

ShareTweet

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Thứ Ba, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Ba, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Hai, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Hai, Tuần VIII, Thường Niên, Năm C

Thứ Bảy, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Bảy, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Sáu, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Sáu, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Năm, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Năm, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Tư, Tuần VII, Thường Niên

Thứ Tư, Tuần VII, Thường Niên

Bài Viết Mới

Robert Francis Prevost – Tiểu sử của vị Tân Giáo Hoàng Lêô XIV

HĐGMVN-Thông báo về Đức Tân GH Lêô XIV

Robert Francis Prevost – Tiểu sử của vị Tân Giáo Hoàng Lêô XIV

Robert Francis Prevost – Tiểu sử của vị Tân Giáo Hoàng Lêô XIV

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Ủy Ban Thánh Nhạc: Hội Thảo Thánh Nhạc Lần Thứ 54

Ủy Ban Thánh Nhạc: Hội Thảo Thánh Nhạc Lần Thứ 54

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Năm Tuần III Phục Sinh

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Năm Tuần III Phục Sinh

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 09 Nguyễn Thái Học – Tp. Đà Lạt – Lâm Đồng – Việt Nam
– Điện thoại: 0918.525.019
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
  • Phụng Vụ
  • Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi