I. Mục đích
Việc giải thích Lời Chúa có mục đích giúp các em học sinh hiểu bài Giáo lý. Mục này có hai phần:
– Dẫn giải đoạn Lời Chúa vừa công bố.
– Giải thích câu hỏi thưa.
II. Dẫn giải đoạn Lời Chúa vừa công bố.
1. Đặt câu hỏi.
Giáo lý viên đặt một số câu hỏi đơn giản để giúp các em hiểu và nắm bắt được ý chính của đoạn Lời Chúa vừa công bố và dẫn vào bài học Giáo lý.
Ví dụ: Sách Giáo lý Căn Bản III, Bài 24
Hội Thánh là Thầy và là Mẹ ta.
Lời Chúa: Lc 10, 16.
Dẫn giải Lời Chúa:
– Chúa Giêsu đang nói với ai trong đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe? (Các tông đồ).
– Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ điều gì? (Ngài nói rằng ai nghe lời họ là nghe lời Ngài).
– Trong Hội Thánh, ai là người kế vị các tông đồ?
(Đức Giáo Hoàng kế vị tông đồ trưởng là Thánh Phêrô; các vị Giám mục kế vị các tông đồ khác).
– Tên của Đức Giáo hoàng hiện nay là gì?
– Và tên của Đức Cha Giáo phận chúng ta là gì?
Đức Giáo hoàng đứng đầu Hội Thánh toàn cầu, còn Đức Cha Giáo phận chúng ta đứng đầu Hội Thánh địa phương là Giáo phận chúng ta.
Như thế, đoạn Lời Chúa chúng ta vừa nghe nói với chúng ta là hãy nghe lời Hội Thánh giáo huấn vì nghe lời Hội Thánh là nghe Lời Chúa.
Giờ đây chúng ta sẽ tìm hiểu về vai trò của Hội Thánh.
2. Sử dụng sách “CHÚA NÓI VỚI TRẺ EM“ trong phần dẫn giải Lời Chúa:
Để giúp các em hiểu đoạn Lời Chúa vừa công bố, chúng ta sử dụng sách “CHÚA NÓI VỚI TRẺ EM” vào phần dẫn giải Lời Chúa vì sách này được trình bầy rất đơn sơ và dễ hiểu phù hợp với trình độ của các em. Nếu bài Giáo lý nào có đoạn Lời Chúa tương tự trong sách “CHÚA NÓI VỚI TRẺ EM”, chúng ta sử dụng sách này như sau:
– Dựa vào đoạn Lời Chúa vừa công bố và đoạn sách “Chúa nói với trẻ em” đặt một số câu hỏi giúp các em nhận ra và hiểu ý chính của đoạn Lời Chúa đó.
– Cho các em đọc chung đoạn sách trong sách “Chúa nói với trẻ em”.
– Gợi vài ý dẫn vào bài học Giáo lý.
III. Giải thích câu hỏi – thưa:
A. Lứa tuổi 9-10 tuổi: Các lớp Căn bản I và II.
So với các em ở lứa tuổi khối Sơ Cấp (7-8 tuổi), các em 9 tới 10 tuổi (các lớp Căn bản I và II) tuy đã biết suy nghĩ, lý luận nhưng vẫn còn ở giai đoạn thực tiễn, thực nghiệm. Do đó đối với ở hai lớp Căn bản I và Căn bản II này, chúng ta vẫn theo phương pháp giảng dậy khối Sơ cấp và nâng cao lên một chút.
Các câu hỏi thưa là nội dung của bài Giáo lý. Để giúp các em lứa tuổi 9 tuổi –10 tuổi này hiểu bài Giáo lý, Giáo lý viên áp dụng các phương pháp quy nạp, đặt câu hỏi (phát vấn) và trực quan sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu các phương pháp này.
1. PHƯƠNG PHÁP QUY NẠP.
a. Định nghĩa:
Phương pháp quy nạp là phương pháp lý luận, khởi đầu bằng cách nghiên cứu các trường hợp riêng biệt – kế đến là rút ra kinh nghiệm – sau cùng là đưa ra định luật chung.
Ví dụ:
– Trường hợp riêng biệt: Ông A, Ông B, ông C đã chết.
– Rút ra kinh nghiệm: Ông A, Ông B, Ông C là người.
– Định luật chung: Vậy mọi người đều phải chết.
Như thế phương pháp quy nạp đi từ một vài câu chuyện hay từ các sự kiện cụ thể trong đời sống thực tế tới trừu tượng, từ những trường hợp riêng lẻ tới tổng quát, từ dễ tới khó, từ dưới lên trên.
b. Đức Giêsu đã theo phương pháp quy nạp khi giảng dậy:
Đức Giêsu thuật lại một câu chuyện, một dụ ngôn, rồi từ đó rút ra bài học:
CÂU CHUYỆN → BÀI HỌC
(khởi điểm) (kết luận)
Ví dụ:
– Người Samaritanô tốt lành – Mọi người là anh em (Lc10, 29-37).
– Chuyện người con phung phá – Thiên Chúa đón nhận tội nhân (Lc 15, 11-32).
c. Áp dụng phương pháp quy nạp trong việc dạy Giáo lý
Để áp dụng phương pháp quy nạp vào việc dạy Giáo lý, ta theo 3 bước sau:
– Giới thiệu: Đưa ra một sự kiện, một câu chuyện làm khởi điểm.
– Giải thích: Từ sự kiện, câu chuyện đó rút ra những ý tưởng, những bài học thích hợp.
– Áp dụng: Đem ý tưởng, bài học đó vào đề tài Giáo lý mà mình muốn trình bày.
d. Lưu ý:
Vì phương pháp quy nạp đi từ cái riêng biệt tới cái tổng quát, tới chân lý. Từ việc đưa ra một sự kiện làm khởi điểm, rút ra những ý tưởng và đem ý tưởng đó vào đề tài Giáo lý, nên khi dạy Giáo lý hai lớp Căn bản I và II của khối Căn bản, Giáo lý viên giải thích trước và cho các em đọc câu HỎI THƯA sau. Câu hỏi – thưa là đề tài Giáo lý mà mình muốn trình bày.
Ví dụ:
Sách Giáo lý Căn bản 1, Bài 11: Thiên Chúa sáng tạo nên moi vật mọi loài.
Câu 2: H. Thiên Chúa tạo nên mọi sự bằng cách nào?
– Giải thích:
Mỗi gia đình chúng ta đều có một cái nhà để ở. Người thì có nhà xây, người thì có nhà gỗ. Để làm một căn nhà xây, chúng ta cần tới các vật liệu có sẵn : Gạch, đá, sắt xi măng…Để có một ngôi nhà gỗ chúng ta cần gỗ, đinh…
Thỉnh thoảng chúng ta ăn bánh mì, ăn kẹo… Để có một ổ bánh mì chúng ta cần bột, men. Để có một cái kẹo chúng ta cần tới những vật liệu đã có sẵn : Bột, đường, sữa hương vị… Không ai làm một ngôi nhà hay cái kẹo, cái bánh mà không dùng các vật liệu đã có sẵn.
C òn Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài tạo nên mọi vật, mọi loài mà không dùng vật liệu đã có sẵn. Ngài chỉ phán một lời mọi sự liền có. Như thế Thiên Chúa đã tạo nên mọi loài mọi vật từ hư không.
*Tất cả cùng đọc:
H. Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự bằng cách nào?
T. Thiên Chúa đã dùng lời quyền năng của Ngài mà tạo nên mọi sự từ hư không. Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được như vậy.
2. PHƯƠNG PHÁP ĐẶT CÂU HỎI (Phát vấn).
Khi dùng phương pháp quy nạp vào việc giảng dậy Giáo lý, chúng ta có thể áp dụng ba hình thức sau đây :
- Hình thức thuyết minh:
-Có lợi : Không mất thì giờ.
-Có hại : Trẻ sẽ ở thế thụ động, lớp học buồn tẻ.
- Hình thức phát vấn (đặt câu hỏi).
– Có lợi : Lớp sinh động, trẻ sẽ năng động hơn khi phát biểu.
– Có hại : Dễ mất trật tự.
- Hình hức hỗn hợp: thuyết minh + phát vấn.
– Có lợi: Lớp học sinh động
Để lớp học sinh động, vui tươi, các em dễ hiểu và dễ tiếp thu bài, khi dậy Giáo lý cho các em hai lớp đầu của khối Căn Bản (10t -11t), chúng ta nên sử dụng hình thức phát vấn hoặc hình thức hỗn hợp: Phát vấn + thuyết minh.
Chúng ta sẽ tìm hiểu phương pháp phát vấn dưới đây:
a. Định nghĩa:
Vấn là hỏi. Phát vấn là phương pháp dùng câu hỏi để dẫn dắt người nghe suy nghĩ và từng bước khám phá ra chân lý. Đây là một trong những phương pháp giáo dục được sử dụng rất phổ biến từ xưa tới nay.
b. Sử dụng phương pháp phát vấn trong bài Giáo lý.
Giảng dậy Giáo lý không phải là áp đặt một chiều những giáo điều cứng nhắc vào đầu người học, nhất là người học ở đây lại là trẻ em. Đây là cả một tiến trình mời gọi cùng suy tư, khám phá và cảm nhận chân lý dưới dạng đối thoại. Như vậy, mục đích của việc đặt câu hỏi này không phải là để kiểm tra kiến thức nhưng là khơi gợi từ từ, từng lớp một, sẽ “bóc vỏ” vấn đề cho đến khi đạt được cốt lõi.
Câu hỏi trong phát vấn vì vậy phải có tính gợi ý và tiệm tiến:
– Gợi ý: Có nghĩa là câu hỏi vừa tầm các em, lời giải đáp đã mặc nhiên nằm trong câu hỏi. Nó khác với câu đố, vì câu đố càng khó, càng bí hiểm càng tốt. Câu hỏi gợi ý trái lại tự nó mở đường cho lời đáp.
– Tiệm tiến: Có nghĩa là các câu hỏi đi theo hướng quy nạp : từ dễ đến khó, từ các vòng ngoài xoáy vào cốt lõi vấn đề, nối tiếp nhau cách liên tục và cùng quy hướng về vấn đề đang tìm hiểu. Câu hỏi ngày càng chuyên sâu để thu hẹp vấn đề và trở nên chính xác.
Tóm lại, thay vì hình thức thuyết minh, trực tiếp cung cấp kiến thức, thông tin, giải pháp, chúng ta đặt câu hỏi gợi mở để học sinh tự tìm ra câu trả lời cho một vấn đề. Từ kết quả thu được đó, chúng ta sẽ uốn nắn và hoàn chỉnh. Đó là cốt lõi của phương pháp phát vấn.
Ví dụ: Chúng ta lấy ví dụ ở phần phương pháp quy nạp viết dưới dạng thuyết minh để chuyển sang dạng đặt câu hỏi.
Sách Giáo lý Căn Bản I, Bài 11 : Thiên Chúa sáng tạo nên mọi vật mọi loài.
Câu 2: H. Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự bằng cách nào ?
– Giải thích:
Gia đình các em có một mái nhà để ở không? Nhà gỗ hay nhà xây?
Để xây ngôi nhà các em đang ở, bố mẹ các em phải đi mua những vật liệu nào ?(Cát, đá, sắt, xi măng…).
Như vậy để có ngôi nhà xây các em đang ở các người thợ xây phải dùng đến các vật liệu có sẵn là cát, đá, xi măng, sắt thép…
– Trời đất, trăng sao, vạn vật, con người do ai tạo nên? (Thiên Chúa).
– Để tạo nên mọi sự đó, Thiên Chúa có dùng những vật liệu có sẵn như người thợ xây nhà không? (Không).
– Ngài dựng nên bằng cách nào? (Ngài phán một lời mọi sự liền có và không cần một vật liệu nào có sẵn).
Vậy Thiên Chúa dựng nên mọi vật mọi loài không bằng các vật liệu có sẵn, nghĩa là gì? (Nghĩa là từ hư không).
*Tất cả đọc chung câu2 :
H. Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự bằng cách nào ?
T. Thiên Chúa đã dùng lời quyền năng của Ngài mà tạo nên mọi sự từ hư không. Chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được như vậy.
3. PHƯƠNG PHÁP TRỰC QUAN.
Để hỗ trợ cho việc dậy Giáo lý, làm cho giờ dậy Giáo lý sinh động hơn, dễ hiểu hơn và hiệu quả hơn chúng ta nên áp dụng thêm phương pháp trực quan mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây.
a. Định nghĩa:
Trực quan là phương pháp giảng dậy qua việc cho học sinh tự quan sát sự việc hoặc giáo cụ. Giáo lý viên sẽ dùng phát vấn (đặt câu hỏi) để xây dựng bài học và đúc kết bài học.
Như vậy, phương pháp trực giác là quan sát cụ thể qua giác quan (sờ mó, nếm, ngửi, nghe…) để rồi suy nghĩ, rút kinh nghiệm, đúc kết thành bài học. Châm ngôn của phương pháp trực giác là : VẬT TRƯỚC LỜI SAU.
Phương pháp này đặc biệt thu hút các em học sinh Giáo lý ở lứa tuổi này, vì các em có kinh nghiệm cảm tính (khả giác) và suy nghĩ bằng hình ảnh chứ chưa lĩnh hội được các ý niệm và chưa lý luận cách trừu tượng được.
b. Giá trị của phương pháp trực quan.
– Người xưa nói : “ Trăm nghe không bằng mắt thấy”, ý nói học hiểu bằng quan sát trực tiếp vẫn hơn việc nghe mô tả. Ví dụ: Bản tin qua truyền thanh khó được ghi nhận hơn bản tin trên báo hoặc truyền hình.
– Việc tái hiện các nhân vật, các biến cố xa xưa trong lịch sử hoặc ở những nơi xa xôi trên thế giới sẽ dễ giúp các em cảm nghiệm, hiểu và khơi động tâm tình.
– Việc ngắm nhìn các thực tại trần thế sẽ giúp các em hình dung phần nào các thực tại cao siêu.
c. Đức Giêsu sử dụng phương pháp trực quan để giảng dậy.
Khi đi rao giảng, nhiều lần Đức Giêsu đã sử dụng phương pháp trực quan để giảng dậy.
- Sử dụng sự việc đang diễn ra để giảng dậy:
– Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ (Ga 13, 4-20).
Để diễn tả cái chết của mình, để cử hành trước cái chết của mình, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã cúi mình xuống rửa chân cho các tông đồ. Việc rửa chân này diễn tả Ngài hạ mình xuống trong cái chết nhục nhã trên thập giá để làm cho nhân loại được sạch, để mang ơn cứu độ đến cho loài người.
Để dậy các tông đồ bài học khiêm nhường phục vụ, Chúa Giêsu đã dùng việc Ngài rửa chân cho họ.
– Đồng xu của bà goá nghèo (Mc 12, 41-44).
Chúa Giêsu nói các môn đệ quan sát đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng Đền Thờ. Ngài nói với họ chú ý đến bà goá nghèo đang bỏ hai xu vào thùng tiền.
Ngài dùng hình ảnh đó để dậy các môn đệ bài học về tấm lòng hành đối với Thiên Chúa.
- Sử dụng giáo cụ trực quan để giảng dậy.
– Nộp thuế cho Cêsarê (Mt 22) .
+Giáo cụ : đồng tiền Roma.
+Khai thác giáo cụ : Chúa Giêsu nói với những người hỏi Ngài phải nộp thuế cho ai quan sát và trả lời câu hỏi : “Hình in trên đồng tiền là hình của ai ?”
+Rút ra bài học : Điều gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
– Giáo huấn về phục vụ (Mc 9, 33-37) .
Để dậy các môn đệ sống khiêm nhường, phục vụ khi họ tranh cãi với nhau ai trong họ là người lớn nhất, Đức Giêsu đã dùng một giáo cụ trực quan để giảng dậy.
* Giáo cụ trực quan: một em bé.
* Khai thác giáo cụ: Sau khi dậy các môn đệ muốn làm lớn phải làm người phục vụ mọi người, Ngài dùng giáo cụ trực quan là đặt một em nhỏ vào giữa các môn đệ và nói : “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy, và ai đón tiếp Thầy thì không phải là đón tiếp Thầy nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37) . Chúa Giêsu muốn nói em nhỏ là tượng trưng cho người sứ giả khiêm nhường, người khiêm tốn phục vụ, người đó là người được Thiên Chúa đồng hoá và người ấy là người lớn nhất vì giống Thiên Chúa.
* Rút ra bài học: Hãy sống khiêm nhường phục vụ.
d. Sử dụng phương pháp trực quan trong việc dậy Giáo lý.
- Các sự việc:
– Các sự việc đang xảy ra: Trong Hội Thánh, xã hội, những sự kiện đời sống quanh ta, những việc các em vừa chứng kiến hoặc nghe bàn tán….
– Chương trình đang được phát sóng trên truyền hình: bộ phim đang thu hút các em, tin tức thời sự nóng bỏng.
– Các hoạt cảnh, bài hát, trò chơi.
Giáo lý viên sử dụng các sự việc này để hướng dẫn các em học sinh qua phát vấn, đàm thoại và dẫn đến bài học.
- Các giáo cụ trực quan:
– Bảng: Tập sử dụng bảng cho hiệu quả. Nếu chữ viết bảng chưa đẹp, Giáo lý viên nên luyện tập.
– Vẽ trực tiếp trên bảng: vẽ sơ đồ, vẽ các hình đơn giản để minh hoạ khi giảng bài.
– Bản đồ: Bản đồ Việt Nam (các giáo phận) , bản đồ Đất Thánh, bản gia phả của Chúa Giêsu.
– Tranh ảnh: Chúng ta hiện có rất nhiều tranh ảnh Kinh Thánh, Giáo lý, các ảnh đạo… Giáo lý viên cố gắng tìm kiếm và sử dụng các loại tranh ảnh phù hợp với đề tài Giáo lý để dậy Giáo lý. Chúng ta có thể sử dụng tranh ảnh để : dẫn vào Lời Chúa, giải thích Lời Chúa, làm bài tập Giáo lý.
– Rối vải cầm tay, rối bằng giấy bìa.
– Các vật dụng quanh ta, trong đời sống øhằng ngày như cành hoa, nhánh cây nhỏ, quyển sách, cây đàn…
Tóm lại, trực quan là phương pháp đạt hiệu quả sư phạm cao do tính cụ thể, sống động và nguyên lý thực nghiệm của nó. Tuy nhiên đối việc sử dụng giáo cụ, không nên dùng quá nhiều nhưng cần phối hợp giáo cụ với bài giảng Giáo lý cho nhịp nhàng đúng lúc, đúng đề tài. Đặc biệt các Giáo lý viên luôn ghi nhớ rằng mục tiêu của tiết dậy Giáo lý là gặp gỡ Chúa, hiểu biết, yêu mến và sống theo lời Ngài, nên phương pháp trên chỉ mang ý nghĩa chuyển tải và hỗ trợ, đừng quá lệ thuộc.
B. Lứa tuổi 11-12 tuổi : Các lớp Căn Bản III và IV.
So với các em ở các lớp Căn bản I và II (9-10 tuổi), các em ở các lớp Căn bản III và IV (11-12 tuổi) có óc phán đoán và suy luận khá hơn, khách quan hơn và sâu xa hơn. Vì thế chúng ta sẽ sử dụng phương pháp diễn dịch thay thế phương pháp qui nạp để giải thích bài học Giáo lý cho lứa tuổi này.
Với lợi điểm của phương pháp diễn dịch : lập luận chắc hơn, mở rộng chân lý hơn và đạt tới chiều sâu của chân lý hơn, chúng ta sẽ giúp các em tập suy luận, hiểu biết rộng hơn, sâu hơn chân lý đức tin.
Đồng thời, để cho việc giảng dậy vui tươi, dễ thuyết phục hơn, chúng ta sẽ sử dụng phương pháp này kèm với hai phương pháp hỗ trợ là phương pháp Phát Vấn và Trực Quan mà chúng ta đã trình bầy ở phần trên.
PHƯƠNG PHÁP DIỄN DỊCH.
1. Định nghĩa:
Phương pháp diễn dịch là phương pháp lý luận đi từ định luật, ý niệm tổng quát, cái chung đến từng trường hợp cá biệt rồi rút ra nhận định.
Ví dụ 1:
– Ý niệm tổng quát: Mọi người đều phải chết.
– Trường hợp cá biệt: ông A, ông B, ông C, là người.
– Nhận định: Vậy ông A, ông B, ông C phải chết.
Ví dụ 2:
– Định luật : kim loại đốt nóng thì phồng lên (dãn nở).
– Trường hợp cá biệt : Sắt, đồng, vàng, bạc là kim loại.
– Nhận định : Sắt, đồng, vàng, bạc đốt nóng thì phồng lên.
2. Áp dụng vào Giáo lý:
– Giới thiệu: đưa ra một chân lý, một ý niệm chung.
– Giải thích: đưa ra những trường hợp cá biệt để giải thích.
– Áp dụng: đem giải thích trên vào để giải thích đề tài Giáo lý mình muốn trình bày.
Ví dụ 1: Hiệu quả của việc rước lễ:
– Giới thiệu: Người ta cần để ăn để sống.
– Giải thích:
* Con người có hồn và xác.
* Thân xác bồi dưỡng bằng bữa ăn để lớn lên và phát triển.
– Áp dụng: Linh hồn cũng cần bồi dưỡng, cần sống bằng tiệc Thánh thể.
3. Áp dụng vào việc giải thích câu hỏi thưa trong sách Giáo lý.
Ví dụ : Sách Giáo lý căn bản IV.
Bài 19 : Sống với Chúa Kitô Thánh Thể.
Câu 4. H. Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh, hình rượu thế nào?
* Lưu ý: Chúng ta xem câu Hỏi-Thưa mà chúng ta sẽ giải thích là phần giới thiệu một ý niệm tổng quát.
* Giới thiệu:
H: Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh và hình rượu thế nào?
T: Chính Chúa Kitô phục sinh hiện diện thật sự và trọn vẹn trong hình bánh và hình rượu, cả khi bánh rượu ấy chia ra rất nhỏ thì mỗi phần vẫn có trọn Chúa Kitô là người thật và là Thiên Chúa thật.
* Giải thích:
Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa và đang ở cùng chúng ta cho đến tận thế. Người hiện diện dưới nhiều hình thức : trong Lời Chúa, trong kinh nguyện, trong những người nghèo khổ, trong các bí tích do người thiết lập… Nhất là Người hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể dưới hai hình bánh và rượu.
* Áp dụng:
Trong hai hình Thánh thể có sự hiện diện đích thực, thực sự của Mình và Máu Đức Kitô cùng với thân xác, linh hồn và thần tính của Người, nghĩa là Đức Kitô trọn vẹn.
Sự hiện diện này được gọi là thực sự và trọn vẹn vì đây là cách hiện diện đầy đủ nhất. Nơi đây có Đức Kitô vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, hiện diện trọn vẹn. Ngoài ra, việc bẻ bánh không phân chia Đức Kitô. Trong bất cứ phần nhỏ bé nào cũng có trọn vẹn Chúa Kitô.
4. Cách đọc câu hỏi thưa.
Khi sử dụng phương pháp diễn dịch vào việc giảng dậy Giáo lý, chúng ta cho các em đọc trước câu Hỏi – Thưa và giải thích sau. Lý do là vì như chúng ta đã nói ở trên, câu Hỏi – Thưa được xem như một chân lý, một ý niệm tổng quát.
5. Lợi ích của phương pháp diễn dịch:
Qua ví dụ ở trên chúng ta thấy phương pháp diễn dịch đem lại các lợi ích sau:
– Cách lập luận này vững chắc, có mạch lạc giúp các em tập suy luận, phát triển óc lý luận.
– Mở rộng sự hiểu biết của các em về sự hiện diện của Chúa: Ngoài bí tích Thánh Thể, Chúa còn hiện diện ở trong Lời Chúa, cầu nguyện, người nghèo, Hội Thánh, các bí tích khác …
– Giúp các em hiểu biết sâu xa hơn: Hiện diện thực sự và trọn vẹn là trọn vẹn cả Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
6. Lưu ý:
Tuy đem lại nhiều lợi ích, nhưng phương pháp này có vẻ khô khan, trừu tượng. Do đó, để lớp học và việc giảng dậy của chúng ta sinh động và vui tươi hơn, kích thích sự học tập của các em, chúng ta kết hợp những phương pháp này với phương pháp đặt câu hỏi và dùng các tranh ảnh để giải thích.
Trong trường hợp gặp những bài quá khó và trừu tượng, nếu dùng phương pháp diễn dịch các em khó tiếp thu, chúng ta sử dụng phương pháp quy nạp để thay thế.
Hơn nữa, ngay trong một bài Giáo lý, chúng ta có thể dùng phương pháp diễn dịch cho câu hỏi thưa này và phương pháp quy nạp cho câu hỏi thưa kia vì quá khó và trừu tượng. Mục đích của chúng ta khi dậy Giáo lý là giúp các em hiểu, hiểu rộng, hiểu sâu các chân lý đức tin.
*Sau khi giải thích xong, chúng ta nên đặt vài câu hỏi giúp các em nhớ lại ý chính của câu Hỏi-Thưa.
BÀI TẬP:
1 – Chọn một bài Giáo lý của các lớp Căn bản 1 hoặc 2 và soạn phần giải thích Lời Chúa gồm :
– Dẫn giải Lời Chúa.
– Giải thích câu Hỏi-Thưa.
2 – Chọn một bài Giáo lý của các lớp Căn bản 3 hoặc Căn bản 4 và soạn phần giải thích câu Hỏi-Thưa.