Điều 208
Nhờ được tái sinh trong Đức Ki-tô, tất cả mọi Ki-tô hữu đều thực sự bình đẳng với nhau về phẩm giá và về hành động, nhờ đó họ cùng cộng tác vào việc xây dựng Thân Mình Đức Ki-tô, tùy theo hoàn cảnh và nhiệm vụ riêng của mình.
Điều 209
§1. Các Ki-tô hữu có nghĩa vụ phải luôn luôn duy trì sự hiệp thông với Giáo Hội, ngay trong cách hành động của mình.
§2. Các Ki-tô hữu phải ân cần chu toàn các bổn phận đối với Giáo Hội toàn cầu cũng như đối với Giáo Hội địa phương mà họ trực thuộc chiếu theo những quy định của luật.
Điều 210
Tất cả mọi Ki-tô hữu, tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người, phải cố gắng sống thánh thiện và cổ vũ cho Giáo Hội được phát triển và được thánh hóa không ngừng.
Điều 211
Tất cả mọi Ki-tô hữu có bổn phận và có quyền hoạt động để cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền đạt tới toàn thể nhân loại trong mọi thời và mọi nơi.
Điều 212
§1. Ý thức trách nhiệm của mình, với lòng vâng phục Ki-tô Giáo, các Ki-tô hữu phải tuân theo những điều mà các vị Chủ Chăn có chức thánh, là những người đại diện Đức Ki-tô, công bố với tư cách là những thầy dạy đức tin hoặc ấn định với tư cách là những người lãnh đạo Giáo Hội.
§2. Các Ki-tô hữu có trọn quyền bày tỏ cho các vị Chủ Chăn của Giáo Hội biết những nhu cầu của họ, nhất là những nhu cầu thiêng liêng, và những nguyện vọng của họ.
§3. Tùy theo kiến thức, thẩm quyền và uy tín bản thân, các Ki-tô hữu có quyền, và đôi khi có cả bổn phận phải bày tỏ cho các vị Chủ Chăn có chức thánh biết ý kiến của họ liên quan tới lợi ích của Giáo Hội, họ cũng có quyền bộc lộ ý kiến của họ cho các Ki-tô hữu khác, miễn là bảo vệ được sự toàn vẹn của tín lý và luân lý, cũng như lòng kính trọng các vị chủ chăn, và phải lưu ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân.
Điều 213
Các Ki-tô hữu có quyền được lãnh nhận từ các vị Chủ Chăn có chức thánh sự giúp đỡ do các ơn thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là Lời Chúa và các bí tích.
Điều 214
Các Ki-tô hữu có quyền thờ phượng Thiên Chúa theo những quy định của lễ nghi riêng đã được các vị Chủ Chăn hợp pháp của Giáo Hội chuẩn y và có quyền theo một hình thức của đời sống thiêng liêng phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội.
Điều 215
Các Ki-tô hữu có trọn quyền thành lập và điều hành các hiệp hội nhằm mục đích từ thiện hoặc đạo đức, hoặc nhằm cổ vũ ơn gọi Ki-tô Giáo trong thế giới, họ cũng được trọn quyền tự do hội họp để cùng nhau theo đuổi các mục đích đó.
Điều 216
Vì được tham dự vào sứ mạng của Giáo Hội, tất cả mọi Ki-tô hữu có quyền cổ vũ và nâng đỡ hoạt động tông đồ, kế cả bằng những sáng kiến riêng, tùy theo bậc sống và hoàn cảnh của mỗi người; tuy nhiên, không một sáng kiến nào được mệnh danh là Công Giáo nếu không được sự đồng ý của nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội.
Điều 217
Vì được bí tích Rửa Tội mời gọi sống phù hợp với giáo huấn Phúc Âm, các Ki-tô hữu có quyền được hấp thụ nền giáo dục Ki-tô Giáo, nhờ đó, họ được đào tạo thích đáng để đạt tới sự trưởng thành nhân bản, đồng thời, để biết và sống mầu nhiệm cứu độ.
Điều 218
Những chuyên viên về các thánh khoa được hưởng sự tự do chính đáng để nghiên cứu và trình bày ý kiến cách thận trọng trong các lĩnh vực chuyên môn của mình, nhưng vẫn phải giữ lòng vâng phục phải có đối với huấn quyền của Giáo Hội.
Điều 219
Tất cả mọi Ki-tô hữu có quyền tự do lựa chọn bậc sống mà không phải chịu bất kỳ một sự cưỡng bách nào.
Điều 220
Không ai được làm tổn thương đến thanh danh của người khác một cách bất hợp pháp, và cũng không được xâm phạm đến quyền giữ bí mật riêng tư của họ.
Điều 221
§1. Các Ki-tô hữu có quyền đòi hỏi cách hợp pháp những quyền lợi mà họ được hưởng trong Giáo Hội và có quyền bênh vực những quyền lợi đó trước tòa án Giáo Hội có thẩm quyền, chiếu theo quy tắc của luật.
§2. Nếu bị nhà chức trách có thẩm quyền triệu ra tòa, các Ki-tô hữu cũng có quyền được xử theo những quy định của luật pháp, và những quy định này phải được áp dụng cách hợp tình hợp lý.
§3. Các Ki-tô hữu chỉ bị thụ án phạt theo giáo luật chiếu theo quy tắc của luật.
Điều 222
§1. Các Ki-tô hữu có nghĩa vụ trợ cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội, để Giáo Hội sẵn có những gì cần thiết cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cho những công việc tông đồ và bác ái, và cho việc nuôi sống các thừa tác viên cách xứng đáng.
§2. Họ cũng có nghĩa vụ cổ vũ công bằng xã hội và dùng hoa lợi riêng của mình để giúp đỡ những người nghèo khó, theo lệnh truyền của Chúa.
Điều 223
§1. Khi hành sử các quyền của mình, với tính cách cá nhân hay tập hợp thành những hiệp hội, các Ki-tô hữu phải xét đến lợi ích chung của Giáo Hội cũng như quyền lợi của người khác, và những bổn phận của họ đối với tha nhân.
§2. Vì lợi ích chung, nhà chức trách Giáo Hội quy định việc thi hành các quyền riêng cho các Ki-tô hữu.