Thánh Giáo hoàng Phaolô VI
1. CUỘC ĐỜI
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính thánh Giáo Hoàng Phaolô VI vị thánh của thời đại. Có nhiều người trong chúng ta được sống dưới triều đại của Ngài. Vì là một vị thánh của thời đại nên chúng ta có quá nhiều điều để nói về Ngài. Tuy nhiên trong giới hạn của một bài suy niệm. chúng ta chỉ dừng lại ở những điểm nổi bật nhất.
+ Thánh Giáo hoàng Phaolô VI (tiếng Latinh: Paulus PP. VI; tiếng Ý: Paolo VI, tên khai sinh: Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini là giáo hoàng thứ 262 của Giáo hội Công giáo Rôma từ năm 1963 đến 1978. Tiếp theo sự thành công của người tiền nhiệm – giáo hoàng Gioan XXIII trong Công đồng Vatican II, ngài quyết định tiếp tục công đồng này. Ngài tìm cách cải thiện mối quan hệ giữa Công giáo với các giáo hội Kitô giáo khác như Chính Thống giáo, Anh giáo và Tin Lành.
Ngài đã tích cực chủ tọa ba khóa họp cuối cùng của Công đồng Vatican II, nỗ lực phục vụ công lý hòa bình và cổ vũ việc đại kết. Kỳ họp II (từ 29-9 đến 4-12-1963).Ngài đơn giản hóa nghi thức Giáo hoàng và thiết lập tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục để cùng chia sẻ trách nhiệm chung trong việc điều hành Giáo hội toàn cầu. Ngài cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên thực hiện các cuộc công du đến các nước khác để loan báo Tin Mừng Đức Kitô. Ngài còn đầu tư kinh phí để xây dựng Nervi Hall nổi tiếng dành cho việc tiếp kiến Giáo hoàng tại Roma.
Sau khi qua đời Ngài được Giáo hoàng Phanxicô tôn phong lên hàng chân phước vào ngày 19 tháng 10 năm 2014. Ngày 7 tháng 3 năm 2018, Giáo hoàng Phanxicô chuẩn y công nhận phép lạ thứ hai của ngài, việc phong thánh đã được xác nhận. Theo hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cố Giáo hoàng Phaolô VI sẽ được phong thánh vào ngày cuối cùng của Thượng Hội đồng Giám mục về Thanh niên vào cuối tháng 10 năm 2018. Giáo hoàng Phaolô VI chính thức được tuyên thánh vào ngày 14 tháng 10 năm 2018.
2. SỰ NGHIỆP
Sự nghiệp quan trọng và lẫy lừng nhất của thánh Phaolô VI là tiếp nối và đưa Công Đồng Vaticano II tới hoàn thành một cách tốt đẹp.
Nhân tiện có lẽ chúng ta cũng nên nhìn lại một cách khái quát biến cố Công Đồng Vaticanô II để chúng ta hiểu được ảnh hưởng của Công Đồng này quan trọng như thế nào đối với Giáo Hội chúng ta hôm nay.
- Những lý do triệu tập Công đồng
Công đồng Vatican II là sáng kiến độc đáo của Đức Gioan XXIII do một ơn linh hứng đặc biệt, khi ngài tham dự lễ bế mạc Tuần lễ Hợp nhất Kitô hữu vào ngày 25-1-1959, tại đền Thánh Phaolô Ngoại Thành. Với tên gọi Vatican II, Công đồng thật sự muốn tiếp tục những vấn đề còn đang bàn luận dang dở của Công đồng Vatican I, vì Công đồng này phải kết thúc đột ngột vào năm 1870, khi Giáo phận Roma bị sát nhập vào vương quốc Ý.
- Công cuộc chuẩn bị
Công đồng được chuẩn bị trong thời gian hơn 3 năm, từ 7-1959 đến 11-1962. Tất cả các tham dự viên đều được hỏi ý kiến, các đại học Công giáo được thăm dò về các vấn đề có thể đưa ra ở Công đồng với 2.109 bản trả lời, gồm 8.972 đề nghị. 12 Uỷ ban dự bị và 3 văn phòng làm việc không ngừng trong suốt một năm và góp về Uỷ ban Trung ương, do chính Đức Giáo hoàng làm Chủ tịch, 70 lược đồ lớn, được in thành 19 cuốn sách, gồm 2.060 trang.
- Kỳ họp đầu tiên (từ 11-10 đến 8-12-1962: khoá I).
Có tất cả 2.904 nghị phụ được mời tham dự. Trừ các vị già yếu, bệnh tật và các vị ở một số nước không được phép đi, 2.449 vị có mặt, đại diện cho 134 nước trên thế giới.
Các nghị phụ bầu ra 10 Uỷ ban Công đồng từ 12 Uỷ ban dự bị trước đây có các vị hồng y trong giai đoạn chuẩn bị làm chủ tịch. Cộng thêm Hội đồng Chủ tịch Điều hành và 3 Văn phòng. Ngôn ngữ chính thức là tiếng La Tinh. Ai muốn phát biểu cần ghi danh trước ở Hội đồng Chủ tịch và nộp một bản viết. Thời gian phát biểu không quá 10 phút. Các nghị phụ phải có mặt trong các phiên họp chung hay khoáng đại. Các biểu quyết bằng phiếu được kiểm soát bằng thiết bị điện tử. Phải có 2/3 số phiếu thì các quyết định của Công đồng mới có giá trị.
Trong kỳ họp này, các nghị phụ làm việc theo 7 lược đồ đề nghị. Ngày 4-11 lược đồ đầu tiên về Phụng Vụ được chấp thuận với 2.162 phiếu thuận, 46 phiếu chống. Các lược đồ khác như: về nguồn mạc khải, về phương tiện truyền thông xã hội, về sự hợp nhất các Kitô hữu, về Giáo Hội được bàn luận. Cuối kỳ họp, số lược đồ tăng tới 73 và Đức Thánh cha quyết định rút lại còn 20 lược đồ tập trung. Các nghị phụ có 9 tháng để đúc kết các lược đồ và soạn thảo công việc cho kỳ họp tới. Cũng trong thời gian này, Đức Gioan XXIII qua đời. Đức Hồng y Montini lên thay, lấy danh hiệu là Phaolô VI.
- Kỳ họp thứ 2 (từ ngày 29-9 đến 4-12-1963: khoá II và III)
Đức Thánh cha Phaolô VI đổi mới và cụ thể hóa chương trình làm việc của Công đồng. Trong kỳ họp này, các nghị phụ tập trung cho lược đồ về Giáo Hội, Giám mục, giáo dân, sự hợp nhất, nhiều điểm vẫn chưa giải quyết. Ngày 4-12-1963, Đức Phaolô VI công bố “Hiến chế về Phụng vụ (PV) thánh” Sacrosanctum Concilium (Thánh Công đồng Chung) và sắc lệnh về các Phương tiện Truyền thông Xã hội Inter mirifica (Giữa những sự kỳ diệu).
- Kỳ họp thứ ba (từ ngày 14-9 đến 21-11-1964: khoá IV và V)
Nhờ cải tiến cách phát biểu trong các phiên họp trước, công việc tiến hành nhanh hơn. Các nghị phụ bàn luận tiếp lược đồ Giáo Hội về tính cách cánh chung và vai trò của Đức Trinh Nữ Maria, về nhiệm vụ mục vụ của Giám mục, về tự do tôn giáo, về mạc khải, về tông đồ giáo dân, về linh mục, về các Giáo hội Công giáo Đông Phương, về giáo dục Kitô giáo, và nhất là về lược đồ 13, lược đồ sau này trở thành Hiến chế Mục vụ (MV) về Giáo Hội trong thế giới ngày nay.
Trong buổi lễ bế mạc ngày 21-11-1964, Đức Phaolô VI đã công bố 3 văn kiện: Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (GH) Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), Sắc lệnh về các Giáo hội Công giáo Đông Phương (ĐP) Orientalium Ecclesiarum (các Giáo hội Đông Phương) và Sắc lệnh về Hợp nhất (HN) Unitatis redintegratio (Tái lập sự hợp nhất). Ngài chính thức tuyên bố Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và loan báo kỳ họp tới sẽ kết thúc Công đồng.
- Kỳ họp thứ tư (từ ngày 14-9 đến 8-12-1965: khoá VI-X)
Trong bài diễn văn khai mạc kỳ họp, Đức Phaolô VI loan báo quyết định thành lập Thượng Hội đồng Giám mục. Đây là một bước tiến đáng kể trong việc canh tân Giáo Hội. Các nghị phụ bàn nhiều đến lược đồ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay và các lược đồ đang còn dang dở cần được tu chỉnh.
Ngày 28-10-1965, Đức Phaolô VI chính thức công bố 5 văn kiện đã được các nghị phụ chấp thuận:
- Sắc lệnh về nhiệm vụ Giám mục (GM) Dominus Christus (Chúa Kitô).
- Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi đời sống dòng tu (DT) Perfectae Caritatis (Đức ái hoàn hảo).
- Sắc lệnh về Đào tạo Linh mục (ĐT) Optatam totius
- Tuyên ngôn về Giáo dục (GD) Kitô giáo Gravissimum educationis (Vai trò rất quan trọng của giáo dục).
- Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (NK), Nostra Aetate (Thời đại chúng ta)
Ngày 8-11-1965, Đức Phaolô VI công bố hai văn kiện mới:
- Hiến chế Tín lý về Mạc khải (MK) của Thiên Chúa Dei Verbum (Lời Thiên Chúa).
- Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân (TĐ) Apostolicam Actuositatem (Hoạt động tông đồ).
Ngày 7-12-1965, trong khóa họp IX, Đức Phaolô VI công bố 4 văn kiện cuối cùng là những văn kiện đã phải nhiều lần tranh cãi, sửa đổi, bổ sung:
- Tuyên ngôn về Tự do (TD) Tôn giáo Dignitatis Humanae (Phẩm giá con người).
- Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo (TG) của Giáo Hội Ad Gentes (Đến với muôn dân).
- Sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục (LM) Presbyterorum Ordinis (Chức vụ Linh mục).
- Hiến chế Mục vụ (MV) về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng).
Trong khóa họp này, có một số sự kiện mang ý nghĩa đại kết đáng ghi nhớ. Ngày 4-12, Đức Thánh cha họp với các quan sát viên ngoài Công giáo tại đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành và cùng dự chung một nghi lễ cầu nguyện cho sự hợp nhất. Ngày 7-12-1965, Đức Phaolô VI ở Roma và Đức Thượng Phụ Athenagoras ở Istanbul đã cùng một lúc xóa bỏ án tuyệt thông lẫn nhau, chấm dứt cuộc ly khai từ năm 1054. Đây là một trong những sự kiện nói lên thành quả tốt đẹp và giá trị nhất của Công đồng. Bộ Thánh vụ được đổi tên thành Bộ Giáo lý Đức tin.
Khoá X ngày 8-12-1965, Công đồng đã tổ chức nghi thức bế mạc long trọng tại quảng trường Thánh Phêrô. Công đồng gửi sứ điệp bế mạc đến nhiều thành phần nhân loại trên toàn thế giới.(Internet)