NỮ TU HELEN ALFORD, OP: GIÁO HỘI CÓ THỂ MỞ RỘNG TẦM NHÌN VỀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
Isabella H. de Carvalho
Hôm mồng 1. 4. 2023, Đức giáo hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm nữ tu Helen Alford, OP, làm chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội. Được Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994, Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội nhằm góp phần phong phú thêm sự tham gia của Tòa Thánh vào những vấn đề liên quan đến học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, luật, khoa học chính trị và xã hội học.
Với bằng Tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học Cambridge, Vương quốc Anh, Sơ Alford cũng là một chuyên gia về kinh tế và đạo đức kinh doanh và đã từng giảng dạy tại Hoa Kỳ. Từ năm 2021, Sơ Alford là Trưởng khoa Khoa học Xã hội tại Đại học Giáo hoàng St. Thomas Aquinas- Angelicum- ở Roma, Sơ cũng đã từng giữ vị trí này từ năm 2001 đến 2013.
Trong tư cách là người đứng đầu Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội, Sơ Alford sẽ phải thúc đẩy suy tư về những tiến bộ công nghệ mà thế giới hiện đang trải nghiệm và cho thấy rằng Giáo hội có thể đưa ra một tầm nhìn cho cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra.
Dưới đây là nội dung buổi trao đổi Sơ Alford dành cho trang mạng Aleleia về trách vụ mới này.
(Hình: Pontifical University of St. Thomas Aquinas – ANGELICUM)
Trong một thế giới tục hóa, nơi mà có lẽ học thuyết xã hội Công giáo có thể không được quan tâm, làm thế nào để Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội, và nói chung là Giáo hội, tạo cho mình một không gian riêng?
Nhiều người có cảm thức rằng Giáo hội không phải là một nhân tố chính, nhưng nếu ở ngay tại Roma, tôi nghĩ bạn sẽ có một góc nhìn khác. Các tổ chức quốc tế, chẳng hạn như Liên hiệp quốc hoặc Liên minh châu Âu, khá cởi mở và đó không phải là một điều gì mới mẻ. Khi Đức Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan Tâm Đến Vấn Đề Xã Hội) vào năm 1987, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một cuộc hội thảo về thông điệp này tại New York. Ngay sau đó vào năm 1990, bản báo cáo đầu tiên về phát triển con người được công bố và tôi nghĩ rằng Thông điệp này đã có một số tác động. Các quốc gia bắt đầu tự đánh giá mình dựa trên chỉ số phát triển con người, thay vì chỉ dựa trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Không lâu sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Thông điệp Laudato Si năm 2015, thì hai Hiệp ước lớn: Hiệp định Paris về biến đổi Khí hậu, và Các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hiệp Quốc được ký kết và có hiệu lực. Mọi người đều thừa nhận là Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô là một yếu tố quan trọng trong các Hiệp ước đó.
Tôi có thể nói rằng Giáo hội có tầm quan trọng và ảnh hưởng trong một số cách thức và lĩnh vực chứ không phải là trong mọi cách thức và lĩnh vực. Đây là một trạng thái bình thường đối với Giáo hội; chúng ta đưa ra lời kêu gọi thì sẽ có một số người quan tâm còn một số khác thì không.
Theo Sơ, đâu là những chủ đề quan trọng nhất mà hiện nay Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội phải hướng đến?
Nguồn số một của chúng tôi là Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi cần hỗ trợ ngài và các chủ đề ngài muốn thực hiện. Tôi chưa có cơ hội trao đổi với Đức Thánh Cha, nhưng qua văn phong và tác vụ của ngài, chúng tôi biết ngài thường quan tâm đến điều gì.
Tôi có thể nói rằng đó chính là cuộc khủng hoảng kép: xã hội và môi trường, vốn là trọng tâm của Thông điệp Laudato Sì‘. Một khía cạnh khác là cảm thức đưa chiều kích cộng đồng của chúng ta trở lại trung tâm của tư tưởng và hành động của chúng ta, vốn là ý tưởng của Thông điệp Fratelli Tutti. Chúng ta không chỉ là những cá nhân đạt được mục tiêu của riêng mình, mà hơn thế, về cơ bản, chúng ta đang cùng nhau xây dựng xã hội.
Tôi thích nghĩ về điều đó khi chúng ta cố gắng thúc đẩy lãnh vực của công ích chống lại xã hội vứt bỏ. Chúng ta biết rằng chúng ta có thể hành động để thay đổi các hệ thống xã hội và chúng ta có thể cùng nhau làm việc cho một thế giới công bằng hơn. Để thực hiện điều này, chúng ta cũng phải rao giảng Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong thế giới. Đó là sự tiếp nối của việc Nhập thể, một sự chia sẻ đức tin của chúng ta một cách thực tế.
Hiện nay trí tuệ nhân tạo là một chủ đề rất thịnh hành. Hình ảnh Đức Thánh Cha Phanxicô trong chiếc áo khoác thời trang đã lan truyền khắp thế giới. Tuy nhiên, đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Giáo hội phân tích sự phát triển của công nghệ này như thế nào?
Sự phát triển công nghệ nằm trong tay chúng ta. Công nghệ không giống như khoa học, là thứ mà chúng ta khám phá, vì khoa học là về các nguyên tắc của trật tự tự nhiên. Công nghệ giống như văn hóa, là thứ chúng ta tạo ra.
Do đó, có hai quỹ đạo chính của sự phát triển công nghệ. Trước hết là thứ mà chúng ta trải nghiệm hiện nay như là thứ chiếm ưu thế và thứ mà một số người gọi là kỹ thuật trung tâm hoặc kỹ thuật đơn sắc. Điều này tập trung vào việc lấy máy móc làm trung tâm, và xã hội phải tự thích nghi với kỹ thuật, đó là những gì chúng ta đang thấy với trí tuệ nhân tạo. Một nhóm người nhất định được hưởng lợi từ kiểu phát triển này và phần còn lại của xã hội buộc phải tự thay đổi để phù hợp.
Tuy nhiên, có một hình thức phát triển công nghệ khác mà chúng ta có thể gọi là lấy con người hay cuộc sống làm trung tâm. Điều này tập trung vào việc làm cho một lối sống cụ thể trở nên hiệu quả, phong phú và trọn vẹn hơn chứ không phải về việc nhóm này thống trị nhóm khác. Một ví dụ về điều này là trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng công nghiệp — hai loại máy kéo sợi khác nhau đã được phát triển. Chiếc đầu tiên vào những năm 1770 bởi một thợ kéo sợi lành nghề và chiếc thứ hai vào những năm 1830 bởi các kỹ sư chuyên nghiệp do những chủ sở hữu máy dệt, vốn là các nhà tư bản lớn, uỷ nhiệm. Hai cỗ máy ban đầu có năng suất ngang nhau nhưng có sự khác biệt rất lớn về cách chúng ảnh hưởng đến những người vận hành chúng. Cuối cùng, cái thứ hai, có thể được vận hành bởi bất kỳ ai, đã nhận được đầu tư.
Với trí tuệ nhân tạo, chúng ta đang đối phó một vấn đề được tạo ra bởi vì loại phát triển công nghệ thứ nhất đã đi trước không phải là loại lấy con người làm trung tâm, điều này hoàn toàn có thể xảy ra ở cấp độ cấu trúc. Vấn đề là chưa có khoản đầu tư nào vào chọn lựa thứ hai này. Phát triển công nghệ có thể tốt. Chúng ta có thể làm tốt hơn nữa với trí tuệ nhân tạo và các công nghệ khác mà chúng ta có để chúng có thể hỗ trợ cuộc sống và con người cách tốt nhất có thể.
Một lá thư gần đây cũng đã xuất hiện, có chữ ký của Elon Musk, cùng với những người khác, kêu gọi tạm dừng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo. Giáo hội và cụ thể là Hàn lâm viện có thể đáp ứng những mối quan tâm về chủ đề này như thế nào?
Nhiều cuộc đối thoại đang diễn ra. Chẳng hạn, Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống đã phát hành một tài liệu vào năm 2020 có tên là Lời kêu gọi Roma về đạo đức Trí tuệ nhân tạo (Rome Call for AI Ethics), được các tập đoàn lớn như Microsoft ký kết. Năm nay họ kêu gọi các tôn giáo khác ký tên để cố gắng tạo cho Lời kêu gọi này một chiều kích liên tôn.
Tại Vatican, có những cuộc đối thoại khác với các chuyên gia, chẳng hạn như Bộ Văn hóa và Giáo dục có một Khoa chuyên về Văn hóa Kỹ thuật số. Cũng đã có những nhân vật quan trọng mang tính lịch sử hiện diện trong Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện. Có một nhóm năng động xuyên suốt của Tòa thánh đang nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của trí tuệ nhân tạo.
Một trong những điều mấu chốt Giáo hội có thể làm là mang đến cho mọi người một tầm nhìn khác. Nếu mọi người có thể nhìn thế giới khác đi, họ có thể thay đổi các tham số để thiết kế công nghệ theo cách khác. Giáo hội có thể mở rộng tâm trí của mọi người.
Theo một cách nào đó, và cũng là điều mà Tin Mừng đã luôn luôn thực hiện: mang lại cho mọi người cảm thức rằng có một thế giới khác. Cuối cùng, chúng ta biết rằng sẽ có một thế giới chung cuộc khác, nhưng chúng ta muốn cho thấy rằng ngay cả trong thế giới hiện tại, mọi thứ có thể trở nên tốt đẹp hơn nhờ sự hiện diện của ân sủng, của giáo huấn của Đức Kitô, của cộng đoàn đức tin và hơn thế nữa.
Liệu công việc và tầm nhìn này có được những người điều hành các công ty công nghệ quan tâm chăng?
Tôi nghĩ những người cấp cao trong các tổ chức công nghệ này trân trọng những gì chúng ta thực hiện. Họ nhận ra rằng họ cần một tầm nhìn khác. Họ có thể không nhất thiết phải biết làm như thế nào để áp dụng tầm nhìn này vào thực hành nhưng họ có thể bắt đầu nghĩ về nó.
Cuối cùng, chính các kỹ sư phải là những người đưa điều này vào thực hành nhưng nếu họ không có cảm hứng để cố gắng làm điều đó thì họ sẽ không làm; Đấy là lãnh vực chúng ta cần vào cuộc. Nếu Mark Zuckerberg và những người đồng cấp của ông yêu cầu các kỹ sư của họ tạo ra một giao diện vừa tạo ra lợi nhuận cho công ty của họ, vừa nâng cao phẩm giá con người thì điều đó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, đây không phải là mục tiêu mà những công nhân này được giao và nhiều người trong số họ hiện đang rời bỏ các công ty này vì họ không thích những gì họ làm và những gì họ nhìn thấy.
Những người khác sống với sự căng thẳng trong thâm tâm khi họ tiếp tục làm việc trong các lĩnh vực này, mặc dù họ thấy những tác động tiêu cực, chẳng hạn như mạng xã hội gây ra cho con cái họ. Có những động lực mạnh mẽ trong hệ thống kinh tế của chúng ta để nhiều người tiếp tục làm việc trong thế giới công nghệ. Để đối phó với điều đó, chúng ta cần ân sủng, lời cầu nguyện và sự trợ giúp thiêng liêng và chúng tôi cũng đề cập đến điều đó trong Hàn lâm viện Tòa Thánh.
Hàn lâm viện tập trung nhiều lưu tâm vào việc phát triển ý tưởng về một nền kinh tế huynh đệ, vào phúc lợi của con người. Làm sao để trí tuệ nhân tạo phù hợp với tầm nhìn kinh tế này?
Chúng ta có thể có một trí tuệ nhân tạo tập trung vào việc làm cho kỹ năng của con người trở nên hiệu quả hơn, giống như hệ thống máy kéo sợi đã làm vào cuối những năm 1700. Chúng ta có một số dạng AI đã làm được điều đó, chẳng hạn như các hệ thống chuyên gia đang giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh hiệu quả hơn.
Bất cứ nơi nào bạn cần thu thập nhiều thông tin để giúp bạn đưa ra kết quả tốt nhất có thể, hệ thống AI đều rất tuyệt vời vì chúng có thể làm điều đó với chi phí thấp và nhanh hơn. Giống như hơi nước nâng những thứ mà cơ bắp của chúng ta hoặc ngựa không thể làm được, AI có thể giúp chúng ta tăng quy mô và năng lực của mình hiệu quả hơn.
Nhiều người lo ngại rằng các công cụ trí tuệ nhân tạo tiên tiến có thể thay thế một số loại công việc – những chatbot này đã xuất hiện có thể tái tạo, ví dụ như các bài báo hoặc hợp đồng truyền thông rất chính xác. Sơ nghĩ gì về những tác động đối với việc làm, văn hóa và đạo đức nghề nghiệp với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo?
Tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào một công nghệ lớn xuất hiện, nó sẽ làm mất hiệu lực một số việc làm nhưng lại tạo ra những công việc khác. Trước hết là hơi nước, sau đó là điện, rồi Công nghệ thông tin (IT), giờ đây có lẽ trí tuệ nhân tạo mang tầm ảnh hưởng khác sẽ có tác động rất lớn trên diện rộng. Người ta luôn lo lắng khi một công nghệ mới xuất hiện.
Đúng là hiện nay các nghiên cứu đã đưa ra những dự báo khá bi quan về những công việc sẽ bị ảnh hưởng bởi AI. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta có thể định hướng lại sự phát triển này để nó hỗ trợ sự phát triển của con người và để trọng tâm là làm cho kỹ năng của con người trở nên hiệu quả hơn thay vì giảm bớt kỹ năng từ công việc.
Điểm mấu chốt là chúng ta có những lựa chọn, chúng ta không bị bắt buộc chỉ phát triển công nghệ theo một cách nhất định mang lại lợi ích cho một nhóm người nhất định. Chúng ta cần có sự tự tin để nêu lên vấn đề. Các tiêu chí phải là sự phát triển công nghệ đang làm gì để hỗ trợ cuộc sống và sự tốt đẹp của toàn thể tạo vật. Nếu tiêu chí là “hãy kiếm càng nhiều tiền càng tốt, bất kể người khác phải trả giá như thế nào”, thì điều đó trong quá khứ đã có xu hướng gây ra nhiều thiệt hại và chắc chắn sẽ lại xảy ra như vậy một lần nữa. Đây là tư duy kỹ trị mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cập đến.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: aleteia.org (15. 4. 2023)
WHĐGM (17.04.2023)