THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ THỨ XV
GIỚI TRẺ, ĐỨC TIN VÀ VIỆC PHÂN ĐỊNH ƠN GỌI
TÀI LIỆU KẾT THÚC
Ngày 27 tháng 10 năm 2018, Thành phố Vatican (giaoly.org/vn)
MỤC LỤC
Biến cố Thượng Hội Đồng mà chúng tôi đã trải qua. 2
Tài liệu kết thúc của Hội đồng Thượng Hội Đồng. 2
MỞ ĐẦU – Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên đường Emmau. 3
PHẦN I – “NGƯỜI CÙNG ĐI VỚI HỌ”. 3
Chương I – Một Hội Thánh lắng nghe. 4
Nghe và nhìn thấy với sự thông cảm. 4
Những người trẻ muốn được lắng nghe. 4
Việc lắng nghe trong Hội Thánh. 4
Việc lắng nghe của các mục tử và giáo dân có trình độ. 5
Sự đa dạng về bối cảnh và văn hóa. 5
Việc loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội. 5
Việc thực dân hoá nền văn hóa. 6
Một thoáng nhìn về Hội Thánh ngày nay. 6
Cam kết giáo dục của Hội Thánh. 6
Gánh nặng của việc quản lý hành chính. 7
Sự gia nhập vào đời sống Kitô hữu. 7
Việc đào luyện các chủng sinh và những người được thánh hiến. 8
Chương II – Ba chiều kích quan trọng. 8
Sự mới lạ của thế giới kỹ thuật số. 8
Người di cư như mô thức của thời đại chúng ta. 9
Bạo lực và những người dễ bị tổn thương. 9
Những câu chuyện chia tay và gặp gỡ. 9
Vai trò tiên tri của Hội Thánh. 10
Nhận ra và đáp lại tất cả các loại lạm dụng. 10
Nói lên sự thật và cầu xin sự tha thứ. 10
Lòng biết ơn và sự khích lệ. 10
Chương III – Căn tính và các mối liên hệ. 11
Các mối liên hệ gia đình và giữa các thế hệ. 11
Gia đình, điểm quy chiếu đặc quyền. 11
Tầm quan trọng của việc làm mẹ và làm cha. 11
Các mối liên hệ giữa các thế hệ. 11
Giới trẻ và cội rễ văn hóa. 12
Tình bằng hữu và các mối liên hệ giữa những người giống nhau. 12
Những thay đổi đang xảy ra. 12
Việc tiếp nhận các giáo huấn luân lý của Hội Thánh. 13
Những thắc mắc của người trẻ. 13
Các hình thức dễ bị tổn thương. 13
Việc đẩy ra ngoài lề và sự bất ổn xã hội 14
Tài nguyên của những người dễ bị tổn thương. 14
Chương IV – Là những người trẻ hôm nay. 15
Các khía cạnh của nền văn hóa giới trẻ ngày nay. 15
Việc dấn thân và tham gia xã hội 15
Nghệ thuật, âm nhạc và thể thao. 15
Các bối cảnh tôn giáo khác nhau. 16
Mong ước một phụng vụ sống động. 17
Sự tham gia và nhân vật chính. 17
Các người trẻ muốn trở thành những nhân vật chính. 17
Những lý do của sự xa cách. 17
Các phụ nữ trong Hội Thánh. 18
Sứ vụ của những người trẻ với những người trẻ đồng trang lứa. 18
Ước muốn một cộng đồng Hội Thánh chân thật và thân tình hơn. 18
Hành động của Chúa Thánh Thần. 19
Chúa Thánh Thần trẻ trung hoá Hội Thánh. 19
Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu. 20
Một cảm ngiệm đích thực về Thiên Chúa. 20
Chương I – Hồng ân tuổi trẻ. 20
Chúa Giêsu trẻ ở giữa những người trẻ. 20
Các đặc tính của tuổi trẻ. 21
Mối quan tâm lành mạnh của những người trẻ. 21
Những người trẻ bị tổn thương. 22
Cuộc sống dưới dấu chỉ của sứ vụ. 22
Một phương pháp sư phạm có khả năng thách đố. 23
Ý nghĩa thực sự của quyền bính. 23
Mối dây liên kết với gia đình. 23
Tự do bị thương tích và được cứu chuộc. 24
Chương II – Mầu nhiệm của ơn gọi 25
Ơn gọi, cuộc hành trình và khám phá. 25
Để có một nền văn hóa ơn gọi 26
Đức tin, ơn gọi và việc làm môn đệ. 27
Ơn gọi và sứ vụ của Hội Thánh. 27
Sự đa dạng của các đặc sủng. 28
Chương III – Sứ vụ đồng hành. 29
Các môi trường và các vai trò. 30
Hỗ trợ việc hội nhập vào xã hội 30
Đồng hành cộng đồng, theo nhóm và cá nhân. 30
Việc đồng hành cộng đồng và theo nhóm.. 31
Đồng hành tâm linh cá nhân. 31
Việc đồng hành và Bí Tích Hòa Giải 31
Đồng hành trong việc đào luyện thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến. 32
Việc đồng hành có chất lượng. 33
Chân dung của người bạn đồng hành. 33
Tầm quan trọng của việc đào tạo. 33
Chương IV – Nghệ thuật phân định. 34
Hội Thánh, môi trường của sự phân định. 34
Một chòm sao quan trọng trong sự đa dạng của các truyền thống tâm linh. 34
Tham chiếu liên tục Lời Chúa và Hội Thánh. 34
Lương tâm trong việc phân định. 35
Thiên Chúa nói với con tim.. 35
Ý tưởng Kitô giáo về lương tâm.. 35
Việc thực hành sự phân định. 36
Những chuẩn bị của con tim.. 36
PHẦN III – “NGAY LÚC ẤY, HỌ RA ĐI”. 37
Một biểu tượng cho việc phục sinh. 37
Hành trình với những người trẻ. 37
Mong muốn tiếp cận tất cả những người trẻ. 38
Hoán cải tâm linh, mục vụ và truyền giáo. 38
Chương I – Tính truyền giáo kiểu hội đồng của Hội Thánh. 39
Một động năng có tính cấu thành. 39
Người trẻ mời chúng ta cùng đi 39
Tiến trình của Thượng Hội Đồng tiếp tục. 39
Hình thức hội đồng của Hội Thánh. 40
Một Hội Thánh có sự tham gia và đồng trách nhiệm.. 40
Tiến trình phân định cộng đồng. 41
Hướng về các vùng ngoại vi của thế giới 42
Chương II – Cùng nhau hành trình hàng ngày. 42
Từ các cấu trúc đến các liên hệ. 42
Từ uỷ quyền đến tham gia trực tiếp. 42
Những cấu trúc cởi mở và dễ hiểu. 43
Một bức tranh được ghép bằng nhiều khuôn mặt 43
Lời Công Bố Ban Đầu (Kerygma) và việc dạy giáo lý. 44
Tính trung tâm của phụng vụ. 44
Sự quảng đại của diakonia (việc phục vụ) 45
Mục vụ giới trẻ trong một quan điểm ơn gọi 45
Hội Thánh, một ngôi nhà cho giới trẻ. 45
Nhiệt tình theo ơn gọi của việc mục vụ. 46
Một mục vụ ơn gọi cho những người trẻ. 46
Mối liên hệ hiệu quả giữa các biến cố và cuộc sống hàng ngày. 47
Trung tâm thanh thiếu niên. 47
Chương III – Một động lực truyền giáo mới 47
Sứ vụ trong môi trường kỹ thuật số. 48
Việc di dân: hãy phá xập những bức tường và xây những cây cầu. 48
Phụ nữ trong Hội Thánh theo kiểu hội đồng. 49
Phái tính: một lời rõ ràng, tự do, xác thực. 49
Kinh tế, chính trị, công việc, ngôi nhà chung. 50
Trong các bối cảnh liên văn hóa và liên tôn. 50
Những người trẻ cho việc đối thoại đại kết 51
Chương IV – Đào tạo toàn diện. 51
Tính cụ thể, phức tạp và đầy đủ. 51
Giáo dục, trường học và đại học. 51
Việc chuẩn bị các nhà đào tạo mới 52
Việc đào tạo các môn đệ truyền giáo. 52
Một thời gian để đồng hành và phân định. 53
Việc đào tạo các chủng sinh và những người được thánh hiến. 53
Đánh thức thế giới bằng sự thánh thiện. 55
Được thúc đẩy bởi sự thánh thiện của những người trẻ. 55
Chương I. Một Hội Thánh lắng nghe.
Chương II. Ba chiều kích quan trọng.
Chương III. Căn tính và các mối liên hệ.
Chương IV. Là những người trẻ hôm nay.
Chương II. Mầu nhiệm của ơn gọi.
Chương IV. Nghệ thuật phân định.
Chương I. Truyền giáo kiểu hội đồng của Hội Thánh
Chương II. Cùng hành trình hàng ngày.
Chương III. Một đông lực truyền giáo mới.
Biến cố Thượng Hội Đồng mà chúng tôi đã trải qua
1. “Trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên tất cả xác phàm, con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng” (Công vụ 2:17, x. Gioen 3:1). Đây là kinh nghiệm mà chúng tôi đã có trong Thượng Hội Đồng này, cùng đi và lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Ngài đã làm cho chúng tôi ngạc nhiên bởi sự phong phú của các hồng ân của Ngài, Ngài đã cho chúng tôi can đảm và sức mạnh để đem hy vọng đến cho thế giới.
Chúng tôi đã cùng đi, với Đấng kế vị Thành Phêrô, người đã củng cố chúng tôi trong đức tin và làm tươi mát chúng tôi trong nhiệt tình truyền giáo. Mặc dù đến từ nhiều hoàn cảnh rất khác nhau về quan điểm văn hóa và Hội Thánh, chúng tôi cảm thấy, ngay từ đầu, một sự hòa hợp tinh thần, một ước mong đối thoại và một sự cảm thông thật sự. Chúng tôi đã cùng nhau làm việc, chia sẻ những gì quan trọng nhất đối với chúng tôi, chia sẻ những quan tâm của chúng tôi và không che đây những khó khăn của chúng tôi. Nhiều can thiệp đã gợi lên trong chúng tôi cảm xúc và lòng trắc ẩn Tin Mừng: chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi hợp thành một thân thể, là thân thể chịu đau khổ và vui mừng. Chúng tôi muốn chia sẻ với mọi người kinh nghiệm về ân sủng mà chúng tôi đã cảm nghiệm và truyền lại cho các Hội Thánh của chúng tôi và cho thế giới niềm vui Tin Mừng.
Sự hiện diện của những người trẻ là một điều mới lạ: qua các em, tiếng nói của cả một thế hệ vang lên tại Thượng Hội Đồng. Trong khi đi cùng với họ, những khách hành hương viếng mộ Thánh Phêrô, chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự gần gũi, tạo điều kiện để biến Hội Thánh thành một không gian để đối thoại và một chứng từ hấp dẫn về tình huynh đệ. Sức mạnh của cảm nghiệm này vượt trên sự mệt mỏi và yếu đuối. Chúa tiếp tục lập lại: “Đừng sợ, Thầy ở cùng các con.”
2. Những đóng góp của các Giám Mục và sự góp ý của các mục tử, tu sĩ, giáo dân, chuyên gia, các nhà giáo dục và nhiều người khác đã giúp ích lớn lao cho chúng tôi. Ngay từ đầu, những người trẻ đã tham gia vào tiến trình của Thượng Hội Đồng: bảng câu hỏi trên mạng, nhiều đóng góp cá nhân và đặc biệt là Cuộc họp tiền Thượng Hội Đồng là dấu chỉ hùng hồn. Sự đóng góp của các em rất cần thiết, như trong câu chuyện về các con cá và bánh: Chúa Giêsu đã có thể thực hiện được phép lạ này nhờ vào sự sẵn sàng của một cậu bé đã đại lượng dâng hiến những gì mình có (xem Ga 6: 8-11).
Tất cả các đóng góp đã được tóm tắt trong Tài liệu làm việc, tạo thành cơ sở vững chắc của các cuộc bàn luận trong các tuần của Thượng Hội đồng. Giờ đây Tài liệu kết thúc gom góp kết quả của tiến trình này và sự hồi sinh hướng tới tương lai: nó diễn tả những gì mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhận ra, giải thích và lựa chọn dưới ánh sáng Lời Chúa.
Tài liệu kết thúc của Hội đồng Thượng Hội Đồng
3. Điều quan trọng là phải làm rõ sự liên hệ giữa Tài liệu làm việc và Tài liệu kết thúc. Tài liệu thứ nhất đại diện cho khung sườn tham chiếu của việc kết hợp và sự tổng hợp đạt được trong hai năm lắng nghe; tài liệu thứ hai là thành quả của sự phân định được thực hiện và tổng kết các chủ đề mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đặc biệt hăng say và tận tâm chú ý đến. Do đó, chúng tôi nhận ra sự đa dạng và bổ túc cho nhau của văn hai bản này.
Tài liệu này được đệ trình lên cho Đức Thánh Cha (x. Phanxicô, Episcopalis Communio, số 18, Chỉ thị, Điều 35 § 5) và toàn thể Hội Thánh như thành quả của Thượng Hội Đồng này. Vì hành trình của Thượng Hội Đồng chưa chấm dứt và bao gồm một giai đoạn đem ra thực hành (x. Episcopalis Communio, số 19-21), Tài liệu kết thúc là một kế hoạch hướng dẫn các bước tiếp theo mà Hội Thánh được mời gọi thực hiện.
* Trong tài liệu này, thuật ngữ “Thượng Hội Đồng” dùng để chỉ toàn bộ quá trình của Thượng Hội Đồng đang diễn ra hoặc Phiên họp Khoáng Đại, diễn ra từ ngày 3 đến 28 tháng 10 năm 2018.
Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ trên đường Emmau
4. Chúng tôi đã nhận ra trong cảnh các môn đệ trên đường Emmau (x. Lk 24:13-35) một bản văn mẫu để hiểu sứ vụ của Hội Thánh trong mối liên hệ với các thế hệ trẻ. Trang này diễn tả đúng những gì mà chúng tôi đã cảm nghiệm ở Thượng Hội Đồng và những gì chúng tôi muốn các Hội Thánh địa phương của chúng ta có thể sống trong mối liên hệ với giới trẻ. Chúa Giêsu đi cùng hai môn đệ là những người chưa hiểu ý nghĩa của những gì đã xảy ra và họ đang rời bỏ Giêrusalem và cộng đồng. Để trở nên bạn đồng hành với họ, Người đã cùng đi với họ trên đường. Người đã hỏi họ và kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện của họ về biến cố đã xảy ra để giúp họ nhận ra những gì họ đang trải qua. Rồi, Người công bố Lời Chúa cho họ một cách thân mật và đầy sinh lực, giải thích biến cố mà họ đã sống dưới ánh sáng của Thánh Kinh. Người chấp nhận lời mời của họ và ngừng lại với họ khi màn đêm buông xuống: Người đã bước vào đêm đen của họ. Khi nghe Người, lòng họ rạo rực và tinh thần họ bừng sáng; lúc bẻ bánh, mắt họ mở ra. Chính họ là những người chọn đi con đường ngược lại, để trở về với cộng đồng và chia sẻ với cộng đồng kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh mà không chút chần chừ.
Cũng như Tài liệu làm việc, Tài liệu kết thúc được chia thành ba phần nhấn mạnh đến cảnh này. Phần thứ nhất nhan đề “Người cùng đi với họ” (Lc 24:15) và tìm cách làm sáng tỏ những gì mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhận ra từ bối cảnh mà trong đó những người trẻ được đưa vào, bằng cách làm nổi bật những điểm tốt và những thách đố. Phần thứ hai, “Mắt họ mở ra” (Lc 24:31), để giải thích và cung cấp một số chìa khoá căn bản để đọc các chủ đề của Thượng Hội Đồng. Phần thứ ba, tên là “Họ lập tức trở về” (Lc 24:33), đề ra các lựa chọn cho một cuộc hoán cải tâm linh, mục vụ và truyền giáo.
5. “Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ.” (Lc 24: 13-15).
Trong đoạn văn này, thánh ký chụp hình nhu cầu tìm kiếm ý nghĩa cho các biến cố mà hai người khách hành hương đã trải qua. Ngài nhấn mạnh đến thái độ của Chúa Giêsu, Đấng nhập cuộc với họ. Đấng Phục Sinh mong ước được cùng đi với mỗi người trẻ, đón nhận những kỳ vọng của em, thậm chí cả những thất vọng và hy vọng của em, ngay cả những gì không thích hợp. Chúa Giêsu cùng đi, lắng nghe và chia sẻ.
Chương I: Một Hội Thánh lắng nghe
Nghe và nhìn thấy với sự thông cảm- Giá trị của lắng nghe
6. Lắng nghe là một cuộc gặp gỡ của tự do, đòi hỏi lòng khiêm tốn, kiên nhẫn, sẵn sàng để hiểu và cam kết quyết tâm khai triển các câu trả lời một cách mới mẻ. Việc lắng nghe biến đổi tâm hồn những người sống nó, đặc biệt là khi người ta đặt mình vào một thái độ nội tâm hài hòa và ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần. Vì vậy, nó không chỉ là vấn đề thu thập tin tức hay một chiến lược để đạt được mục đích, mà là hình thức mà trong đó Chính Thiên Chúa tiếp xúc với dân của Ngài. Thật vậy, Thiên Chúa thấy sự khốn khổ của dân Ngài và Ngài đã lắng nghe lời kêu than của họ, Ngài đã động lòng và xuống để giải thoát họ (x. Xh 3: 7-8). Do đó, Hội Thánh, qua sự lắng nghe, bước vào chuyển động của Thiên Chúa, là Đấng trong Chúa Con, đã đến để gặp gỡ mỗi con người.
Những người trẻ muốn được lắng nghe
7. Những người trẻ liên tục được mời gọi để có những lựa chọn hướng dẫn đời sống của các em; các em bày tỏ ước mong được lắng nghe, được nhìn nhận, được đồng hành. Nhiều em nhận ra rằng tiếng nói của mình không được coi là đáng quan tâm hoặc hữu ích trong vòng xã hội và Hội Thánh. Trong một số trường hợp, người ta ít chú ý đến tiếng kêu than của các em, đặc biệt là của các em nghèo nhất và bị bóc lột nhiều nhất, và rất ít người lớn sẵn sàng và có thể lắng nghe các em.
Việc lắng nghe trong Hội Thánh
8. Hội Thánh không thiếu các sáng kiến và kinh nghiệm tổng hợp mà qua đó những người trẻ có thể cảm nghiệm được sự chào đón, lắng nghe và làm cho tiếng nói của các em được nghe. Tuy nhiên, Thượng Hội Đồng công nhận rằng cộng đồng Hội Thánh không phải lúc nào cũng làm rõ thái độ mà Đấng Phục Sinh đã dành cho các môn đệ trên đường Emmau, trước khi soi sáng cho họ bằng Lời Chúa, Người đã hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24:17). Khuynh hướng thông thường là cung cấp các câu trả lời tủ và đưa ra các công thức có sẵn, mà không biết rõ các câu hỏi của những người trẻ trong sự mới mẻ của chúng hoặc hiểu rõ những điều làm các em khó chịu.
Lắng nghe giúp cho chúng ta có thể trao đổi quà tặng trong một bối cảnh cảm thông. Nó cho phép người trẻ đóng góp một điều gì đó cho cộng đồng, giúp các em nhận thức được những sự nhạy cảm mới và đặt ra những câu hỏi mới. Đồng thời, tạo điều kiện cho một cuộc loan báo Tin Mừng thực sự chạm đến con tim, một cách nổi bật và hiệu quả.
Việc lắng nghe của các mục tử và giáo dân có trình độ
9. Lắng nghe là một giây phút đáng giá trong tác vụ của các mục tử và, trước hết, là các Giám Mục, những vị thường có quá nhiều gánh nặng và khó mà tìm được thì giờ cần thiết cho việc phục vụ rất thiết yếu này. Nhiều người nhận ra việc thiếu chuyên gia dành riêng cho việc đồng hành. Việc tin vào giá trị thần học và mục vụ của sự lắng nghe hàm ý coi lại và canh tân các hình thức mà qua đó tác vụ linh mục được thể hiện cách thông thường, cũng như việc phân biệt các ưu tiên của tác vụ này. Ngoài ra, Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị cho các tu sĩ và các giáo dân nam nữ có đủ điều kiện để đồng hành với những người trẻ. Đặc sủng lắng nghe, mà Chúa Thánh Thần mang đến trong các cộng đồng, cũng có thể nhận được một hình thức công nhận chính thức cho việc phục vụ Hội Thánh.
Sự đa dạng về bối cảnh và văn hóa- Một thế giới ở số nhiều
10. Chính thành phần của Thượng Hội Đồng đã cho thấy sự hiện diện và đóng góp của các khu vực khác nhau trên thế giới, làm nổi bật vẻ đẹp của việc trở thành một Hội Thánh hoàn vũ. Mặc dù bối cảnh toàn cầu hóa càng ngày càng gia tăng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng yêu cầu nhấn mạnh đến nhiều sự khác biệt giữa các bối cảnh và nền văn hóa khác nhau, cũng như trong một quốc gia. Có rất nhiều thế giới trẻ, vì vậy ở một số quốc gia có khuynh hướng sử dụng thuật ngữ “giới trẻ” ở số nhiều. Hơn nữa, nhóm tuổi liên quan đến Thượng Hội Đồng này (16-29 tuổi) không đại diện cho một tổng thể đồng nhất, nhưng bao gồm các nhóm sống trong những tình cảnh cụ thể.
Tất cả những khác biệt này tác động sâu xa đến kinh nghiệm cụ thể mà những người trẻ đang sống: thực ra, các ngài quan tâm đến các giai đoạn khác nhau của thời đại tiến hóa, các hình thức kinh nghiệm tôn giáo, cấu trúc gia đình và tầm quan trọng của nó đối với việc truyền thụ đức tin, những sự cảm thông giữa các thế hệ, chẳng hạn như vai trò của các bậc lão thành và việc tôn trọng họ. phương thức tham gia vào đời sống xã hội, thái độ đối với tương lai, vấn đề đại kết và liên tôn. Thượng Hội Đồng công nhận và hoan nghênh sự phong phú đa dạng của các nền văn hóa và bắt đầu phục vụ sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
11. Sự khác biệt về động lực giữa các nước có tỷ số sinh cao, ở đó người trẻ chiếm tỷ lệ đáng kể và càng ngày càng gia tăng trong dân số, và các nước [có tỷ số sinh thấp], ở đó ảnh hưởng của các em đang bị suy giảm, có tầm quan trọng đặc biệt. Một sự khác biệt khác bắt nguồn từ lịch sử, trong đó các quốc gia và lục địa của truyền thống Kitô giáo cổ đại, nơi mà nền văn hóa mang một ký ức được bảo tồn, khác với các quốc gia và lục địa được đánh dấu, ngược lại, bởi những truyền thống tôn giáo khác, nơi mà sự hiện diện của Kitô giáo, và đôi khi gần đây, là thiểu số. Mặt khác, ở các lãnh thổ khác, các cộng đồng Kitô giáo và những người trẻ thuộc các cộng đồng ấy còn là những mục tiêu của việc đàn áp.
Việc loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội
12. Cũng có sự khác biệt giữa các quốc gia và trong mỗi quốc gia, những khác biệt gây ra bởi cấu trúc xã hội và lợi ích về kinh tế là những điều tách biệt, đôi khi rất rõ ràng, giữa những người có thể tiếp cận những cơ hội càng ngày càng gia tăng được cung cấp bởi việc toàn cầu hóa, và những người sống bên lề xã hội hoặc trong thế giới nông thôn và chịu hậu quả của các hình thức loại trừ và chối từ khác nhau. Một số can thiệp đã vạch ra rằng Hội Thánh cần phải can đảm đứng cạnh họ và tham gia vào việc thực hiện những giải pháp thay thế là những giải pháp loại bỏ sự loại trừ và đẩy họ ra ngoài lề xã hội, bằng cách củng cố sự tiếp nhận, đồng hành và hòa nhập. Đây là lý do tại sao chúng ta phải nhận ra được sự thờ ơ là điều đặc trưng cho nếp sống của nhiều Kitô hữu, để vượt qua nó bằng cách đào sâu chiều kích xã hội của đức tin.
13. Chúng ta không được quên sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới, với những hồng ân đặc biệt của họ, sự nhạy cảm cụ thể và các kinh nghiệm của họ về thế giới. Trong khuôn khổ này có thể phát sinh các hình thức thống trị, loại trừ và kỳ thị mà xã hội và Hội Thánh cần phải tự giải phóng.
Thánh Kinh trình bày người nam và người nữ như những đối tác bình đẳng trước mặt Thiên Chúa (x. St 5: 2): tất cả sự thống trị và kỳ thị dựa trên phái tính xúc phạm đến nhân phẩm. Thánh Kinh cũng trình bày sự khác biệt giữa hai giới tính như một mầu nhiệm cấu thành của con người là điều không thể bị giảm xuống thành những mẫu rập khuôn. Mối liên hệ nam nữ cũng được hiểu theo nghĩa của một ơn gọi chung sống trong sự tương tác và đối thoại, trong sự hiệp thông và sinh sản (x. St 1: 27-29, 2: 21-25), và điều này (cũng được hiểu) trong tất cả mọi khía cạnh của kinh nghiệm của con người: đời sống vợ chồng, công ăn việc làm, giáo dục và những điều khác. Đó là theo giao ước mà trong đó Thiên Chúa đã trao phó trái đất cho họ.
14. Nhiều Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng từ các quốc gia không thuộc Tây phương vạch ra rằng ở nước họ việc toàn cầu hóa mang đến cho họ các hình thức thực dân hoá nền văn hóa thật sự, nó nhổ những người trẻ ra khỏi các liên hệ văn hóa và tôn giáo mà từ đó các em đến. Cần phải có một cam kết của Hội Thánh để đồng hành với các em trong việc chuyển tiếp này mà không đánh mất những đặc điểm quý giá nhất về căn tính của các em.
Tiến trình tục hóa dẫn đến những cách giải thích rất khác nhau. Trong khi một số người coi đó là một cơ hội quý giá để tự thanh lọc khỏi các hình thức tôn giáo theo thói quen, hoặc dựa trên bản sắc dân tộc và quốc gia, thì những người khác lại coi đó là một trở ngại cho việc truyền thụ đức tin. Trong các xã hội bị tục hóa, chúng ta cũng đang chứng kiến việc tái khám phá về Thiên Chúa và tâm linh. Điều này khuyến khích Hội Thánh tìm thấy lại tầm quan trọng của các động lực đặc thù đối với đức tin, việc công bố [Lời Chúa] và đồng hành mục vụ.
Một thoáng nhìn về Hội Thánh ngày nay- Cam kết giáo dục của Hội Thánh
15. Không hiếm những vùng trong đó các người trẻ nhận thấy Hội Thánh như một sự hiện diện sống động và hấp dẫn, điều này cũng quan trọng với những người trẻ cùng trang lứa với các em, nhưng không phải là tín hữu hoặc thuộc các tôn giáo khác. Các cơ cấu giáo dục của Hội Thánh tìm cách đón nhận mọi người trẻ, bất chấp lựa chọn tôn giáo, nguồn gốc văn hóa và tình trạng cá nhân, gia đình hoặc xã hội của các em. Bằng cách này, Hội Thánh đem đến một đóng góp cơ bản cho nền giáo dục không thể thiếu được của các người trẻ ở những nơi đa dạng nhất trên thế giới. Điều này liên quan đến việc giáo dục trong các trường học ở mọi cấp và mọi nghành, qua các trung tâm dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học, mà còn qua các trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên và cơ quan bảo trợ; nỗ lực này cũng được hiện thực hóa bằng việc tiếp nhận người tị nạn và bằng một cam kết dấn thân đa dạng trong lĩnh vực xã hội. Ở tất cả những nơi này, Hội Thánh kết hợp công việc giáo dục và thăng tiến con người với việc làm chứng và loan báo Tin Mừng. Khi được gợi hứng bởi cuộc đối thoại liên văn hóa và liên tôn, hoạt động giáo dục của Hội Thánh cũng được những người ngoài Kitô giáo đánh giá cao như một hình thức thăng tiến con người đích thực.
16. Cuộc hành trình của Thượng Hội Đồng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải cho mục vụ giới trẻ một khía cạnh ơn gọi, bằng cách coi tất cả người trẻ như những người lãnh nhận của mục vụ ơn gọi. Đồng thời, cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát triển các tiến trình mục vụ hoàn chỉnh là tiến trình dẫn dắt từ thơ ấu đến trưởng thành, bằng cách đưa mọi người vào cộng đồng Kitô hữu. Chúng ta đã thấy nhiều nhóm giáo xứ, phong trào và đoàn thể trẻ đang thực hiện một tiến trình hiệu quả để đồng hành và đào tạo những người trẻ trong đời sống đức tin của các em.
Ngày Giới Trẻ Thế Giới – được sinh ra từ một trực giác tiên tri của Thánh Gioan Phaolô II, vẫn là một điểm quy chiếu cho những người trẻ của thiên niên kỷ thứ ba – và các cuộc họp mặt quốc gia và giáo phận đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của nhiều người trẻ vì chúng cung cấp một kinh nghiệm sống đức tin và hiệp thông, giúp các em đối diện với những thách đố lớn của cuộc sống và đảm nhận chỗ đứng của các em trong xã hội và trong cộng đồng Hội Thánh một cách có trách nhiệm. Do đó, những những cuộc tụ họp này có thể bàn đến việc đồng hành mục vụ thông thường của các cộng đồng khác nhau, nơi việc đón nhận Tin Mừng phải được đào sâu và chuyển thành một lựa chọn của đời sống.
Gánh nặng của việc quản lý hành chính
17. 17. Nhiều Nghị Phụ đã nhận xét rằng gánh nặng của các nhiệm vụ hành chính chiếm quá nhiều thì giờ và đôi khi bóp nghẹt thiện chí cùng năng lực của nhiều mục tử; đây là một trong những lý do gây khó khăn cho việc gặp gỡ những người trẻ và nâng đỡ các em. Để cho ưu tiên của các cam kết mục vụ và tâm linh trở nên rõ ràng hơn, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xét lại các phương thức thực tế của việc thực thi mục vụ.
18. Mặc dù [các giáo xứ] vẫn là hình thức chính yếu và thiết yếu của Hội Thánh trong một lãnh thổ nhất định, một số tiếng nói đã được nêu lên để ám chỉ rằng giáo xứ hầu như chưa phải là điểm quy chiếu cho giới trẻ và cần phải suy nghĩ lại về ơn gọi truyền giáo nhiều hơn nữa. Thực sự là giáo xứ đã trở nên không đáng kể trong các không gian đô thị, động năng yếu kém của các đề nghị của giáo xứ, thêm vào những thay đổi theo thời gian trong cách sống, đòi buộc phải có một cuộc canh tân thật sự. Mặc dù có nhiều nỗ lực canh tân khác nhau, nhưng thường thì dòng sông cuộc sống của những người trẻ vẫn tiếp tục chảy bên lề cộng đồng, mà không gặp được nó.
Sự gia nhập vào đời sống Kitô hữu
19. Nhiều người lưu ý rằng con đường khai tâm Kitô giáo không phải lúc nào cũng có thể dẫn các trẻ em, thiếu niên và thanh niên đến với vẻ đẹp của kinh nghiệm đức tin. Khi cộng đồng được tạo thành như một nơi hiệp thông và như một gia đình thực sự của con cái Thiên Chúa, nó diễn tả một sức mạnh có thể gây ra và truyền thụ đức tin; ngược lại, khi nó đầu hàng luận lý của việc uỷ quyền và khi tổ chức quan liêu chiếm ưu thế, thì việc khai tâm Kitô giáo bị coi là một tiến trình giảng dạy về tôn giáo, là tiến trình thường kết thúc khi người trẻ lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Do đó, thật là điều rất cấp bách để xét lại cách sâu xa tình trạng dạy giáo lý và sự liên kết giữa việc truyền thụ đức tin của gia đình và cộng đồng, bằng cách dùng đến các tiến trình đồng hành cá nhân.
Việc đào luyện các chủng sinh và những người được thánh hiến
20. Các chủng viện và các nơi (tu viện) đào tạo là những nơi có tầm quan trọng lớn lao, ở đó những người trẻ được gọi đến chức linh mục và đời sống thánh hiến đào sâu sự lựa chọn ơn gọi của họ và trưởng thành bằng cách đi theo Đức Kitô của họ (sequela Christi). Đôi khi những môi trường này không kể đến các kinh nghiệm trước đây của các ứng viên một cách đầy đủ, qua việc đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng. Điều này ngăn cản sự phát triển con người và có thể dẫn đến [việc trở lại] các cách sống trước kia, thay vì thúc đẩy sự phát triển các hồng ân của Thiên Chúa và sự biến đổi sâu xa của tâm hồn.
Chương II: Ba chiều kích quan trọng
Sự mới lạ của thế giới kỹ thuật số- Một thực tế toàn diện
21. Thế giới kỹ thuật số (điện toán) đặc trưng cho thế giới đương thời. Một phần lớn nhân loại đang đắm chìm trong nó một cách bình thường và liên tục. Đó không chỉ là vấn đề “sử dụng” các công cụ truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa phần lớn bị thuật số hóa, nó ảnh hưởng sâu xa đến các quan niệm về thời gian và không gian, nhận thức về bản thân, về tha nhân và thế giới, phương thức giao tiếp, học hỏi, tìm hiểu và liên hệ với những người khác. Một cách tiếp cận thực tế có khuynh hướng đặt hình ảnh trên việc nghe và đọc có tác động đến cách học và phát triển sự suy nghĩ cách phê phán. Giờ đây rõ ràng là “môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hay thuần túy ảo, mà là một phần của thực tại hàng ngày của nhiều người, đặc biệt là những người trẻ nhất” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp cho Ngày Truyền Thông Xã Hội Thế giới XLVII).
22. Mạng lưới điện toán (internet) và mạng lưới xã hội (mạng xã hội) là không gian mà ở đó người trẻ dành nhiều thì giờ và gặp gỡ nhau một cách dễ dàng, ngay cả khi mọi người không có quyền truy cập giống nhau, đặc biệt là ở một số nơi trên thế giới. Trong mọi trường hợp, chúng là một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi giữa con người và truy cập tin tức và kiến thức. Ngoài ra, môi trường kỹ thuật số là bối cảnh của việc tham gia chính trị xã hội và quyền công dân tích cực và nó có thể tạo điều kiện cho một luồng thông tin độc lập có khả năng bảo vệ cách hiệu quả nhất cho những người dễ bị tổn thương nhất bằng cách tiết lộ các sự vi phạm quyền lợi của họ. Ở nhiều quốc gia, mạng điện toán và mạng xã hội hiện là một nơi thiết yếu để tiếp cận và lôi kéo giới trẻ, đặc biệt là trong các sáng kiến và hoạt động mục vụ.
23. Thế giới kỹ thuật số cũng là không gian của cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, đến trường hợp cực đoan của mạng lưới đen. Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể khiến mọi người có nguy cơ bị lệ thuộc, cô lập và mất liên lạc dần dần với thực tại cụ thể, do đó cản trở sự phát triển của các mối liên hệ thực sự giữa các cá nhân. Các hình thức bạo lực mới đang lan truyền qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn như làm nhục trên mạng; mạng cũng là một kênh để phân phát tài liệu khiêu dâm và khai thác con người cho mục đích tình dục hoặc qua các trò chơi may rủi.
24. Cuối cùng, các lợi ích kinh tế khổng lồ đang hoạt động trong thế giới kỹ thuật số. Chúng có thể đưa ra các hình thức kiểm soát tinh vi như chúng đang xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương tâm và các tiến trình dân chủ. Hoạt động của nhiều diễn đàn luôn kết thúc có lợi cho cuộc gặp gỡ giữa những người có cùng một cách suy nghĩ, ngăn chặn việc đối đầu của những khác biệt. Những đường liên lạc kín này tạo điều kiện cho việc phổ biến thông tin sai lệch và tin tức giả, tạo ra những thành kiến và thù hận. Việc phổ biến các tin tức giả là cách diễn tả của một nền văn hóa đã mất ý thức về chân lý và nộp các sự kiện cho những lợi ích cụ thể của nó. Danh tiếng của con người đang bị đe dọa bởi những cuộc xét xử trực tuyến vô bằng cớ. Hiện tượng này cũng liên quan đến Hội Thánh và các mục tử của Hội Thánh.
Người di cư như mô thức của thời đại chúng ta- Một hiện tượng đa diện
25. Các hiện tượng di cư đại diện cho một mức độ toàn cầu của hiện tượng theo cấu trúc, và không phải là một trường hợp khẩn cấp chuyển tiếp. Những cuộc di cư có thể xảy ra trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia khác nhau. Mối quan tâm đặc biệt của Hội Thánh là những người chạy trốn chiến tranh, bạo lực, đàn áp chính trị hoặc tôn giáo, thiên tai do biến đổi khí hậu và nghèo đói cùng cực: nhiều người trong số họ còn trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm những cơ hội cho chính họ và gia đình họ. Họ mơ ước về một tương lai tốt đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để hiện thực hóa nó.
Nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh rằng người di cư là một “mô thức” có khả năng chiếu sáng thời đại chúng ta và, đặc biệt là tình trạng của những người trẻ; họ nhắc nhở chúng ta về tình trạng nguyên thủy của đức tin, đó là đức tin của “những ngoại kiều và khách lữ hành trên mặt đất” (Dt 11:13).
Bạo lực và những người dễ bị tổn thương
26. Những người di cư khác ra đi vì họ bị thu hút bởi nền văn hóa Tây phương, đôi khi hàm chứa những kỳ vọng thiếu thực tế khiến họ phải thất vọng ê chề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường liên quan đến các băng đảng ma túy và vũ khí, khai thác yếu điểm của những người di cư, là những người trong suốt cuộc hành trình của họ, thường xuyên phải đối diện với bạo lực, buôn người, lạm dụng tâm lý và thậm chí cả thể xác, và những đau khổ không kể xiết. Chúng ta phải ghi nhận sự tổn thương đặc biệt của những người di cư không có ai đi cùng và tình trạng của những người bị bắt buộc phải sống nhiều năm trong các trại tị nạn hoặc bị nhốt một thời gian dài nơi các quốc gia chuyển tiếp, mà không thể tiếp tục việc học hành, hoặc thi thố tài năng của họ. Ở một số quốc gia mà họ đến được, các hiện tượng di cư làm phát sinh tình trạng báo động và sợ hãi, thường bị xúi giục và khai thác cho mục đích chính trị. Từ đó, một tâm lý bài ngoại, đóng cửa và rút vào chính mình được lan rộng. Chúng ta phải phản ứng một cách cứng rắn với điều ấy.
Những câu chuyện chia tay và gặp gỡ
27. Những người trẻ di cư sống tách biệt với môi trường gia đình của các em và thường trải qua việc mất gốc về văn hóa và tôn giáo. Sự chia cách cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng địa phương, là những cộng đồng đang mất đi những yếu tố mạnh mẽ và đầy nghị lực nhất, và gia đình, đặc biệt là khi một cha mẹ, hoặc cả hai di cư, để con cái họ ở lại quê nhà. Hội Thánh có một vai trò quan trọng để làm nơi nương tựa cho những người trẻ của những gia đình tan vỡ này. Nhưng những câu chuyện về người di cư cũng là những câu chuyện về những cuộc gặp gỡ giữa những con người và các nền văn hóa: đối với cộng đồng và xã hội chủ nhà, chúng đại diện cho một cơ hội phong phú hoá và phát triển con người không thể thiếu được cho tất cả mọi người. Các sáng kiến tiếp nhận dựa vào Hội Thánh có một vai trò quan trọng trong vấn đề này và có thể hồi sinh các cộng đồng có khả năng thực hiện chúng.
Vai trò tiên tri của Hội Thánh
28. Nhờ nguồn gốc đa dạng của các Nghị Phụ, Thượng Hội Đồng đã nhìn thấy nhiều quan điểm về chủ đề di dân, đặc biệt là giữa các quốc gia khởi hành và các quốc gia cùng đích. Ngoài ra, đã vang vọng một tiếng kêu báo động từ các Hội Thánh mà các thành viên bị bắt buộc phải chạy trốn chiến tranh cùng bắt bớ và những người coi các cuộc di cư bất đắc dĩ này như một mối đe dọa cho chính mạng sống của họ. Việc bao gồm tất cả các quan điểm khác nhau này đặt Hội Thánh vào vị trí đóng một vai trò tiên tri trước xã hội trong lĩnh vực di cư.
Nhận ra và đáp lại tất cả các loại lạm dụng- Nói lên sự thật và cầu xin sự tha thứ
29. Các loại lạm dụng khác nhau do các Giám Mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân gây ra, trong cuộc đời của nhiều nạn nhân, nhiều người trong họ là những người trẻ, những đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể khắc phục được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nhưng nó cũng ảnh hưởng đến Hội Thánh và diễn tả một trở ngại nghiêm trọng đối với sứ vụ của Hội Thánh. Thượng Hội Đồng tái khẳng định cam kết chắc chắn trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để ngăn chặn điều này xảy ra một lần nữa, từ việc lựa chọn và đào tạo những người được trao sứ vụ lãnh đạo và giáo dục.
30. Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm dụng quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Rõ ràng là chúng ta phải xóa bỏ các hình thức thực thi quyền bính mà chúng được ghép vào và đấu tranh chống lại sự thiếu trách nhiệm và minh bạch mà nhiều trường hợp đã được quản lý. Ước muốn thống trị, sự thiếu đối thoại và minh bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng về tâm linh, cũng như các yếu tố tâm lý tạo thành nền tảng trên đó sự thối nát nảy nở. Cụ thể, chủ trương giáo sĩ trị, “được sinh ra từ một cái nhìn ưu tú và độc quyền về ơn gọi, là điều giải thích chức vụ được nhận như một quyền lực để thực thi, thay vì là một việc phục vụ miễn phí và quảng đại để hiến dâng. Và điều ấy dẫn đến việc tin rằng mình thuộc về một nhóm người có mọi câu trả lời và không còn cần phải lắng nghe và học hỏi bất cứ điều gì, hoặc chỉ giả vờ lắng nghe” (Phanxicô, Diễn từ trước Buồi Họp Chung thứ nhất của Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 3 tháng 10 năm 2018).
31. Thượng Hội Đồng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người có can đảm tố cáo sự dữ mà họ phải chịu: họ giúp Hội Thánh nhận thức được những gì đã xảy ra và cần phải phản ứng quyết liệt. Thượng Hội Đồng cũng đánh giá cao và khuyến khích những nỗ lực chân thành của vô số giáo dân, linh mục, tu sĩ và Giám Mục, là những người, hằng ngày, hiến thân cách trung thực và tận tụy trong việc phục vụ giới trẻ. Công việc của họ là một khu rừng đang phát triển mà không gây ồn ào. Nhiều người trẻ có mặt tại Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đồng hành với các em và nhắc lại nhu cầu lớn về các khuôn mặt gương mẫu.
Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Hội Thánh của Người, chính Người ban cho Hội Thánh sức mạnh và các công cụ cho một con đường mới. Xác định đường lối của các hành động và biện pháp “cần thiết và kịp thời” (Đức Phanxicô, Thư gửi dân Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018, số 2) và ý thức rằng lòng thương xót đòi hỏi sự công bằng, Thượng Hội Đồng công nhận rằng phải đương đầu với vấn đề lạm dụng dưới mọi khía cạnh của nó, đặc biệt là với sự giúp đỡ quý giá của những người trẻ, thực sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách có ý nghĩa lịch sử.
Chương III: Căn tính và các mối liên hệ
Các mối liên hệ gia đình và giữa các thế hệ- Gia đình, điểm quy chiếu đặc quyền
32. Gia đình tiếp tục là điểm quy chiếu chính cho người trẻ. Con cái đánh giá cao tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ, mối liên hệ gia đình rất quan trọng đối với các em, và đến lượt các em, các em hy vọng sẽ thành công trong việc thiết lập một gia đình. Không thể phủ nhận sự gia tăng của viêc ly thân, ly dị, tái hôn và gia đình chỉ có một cha hay một mẹ có thể gây ra những đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng căn tính. Đôi khi, các em phải gánh những trách nhiệm không tương xứng với tuổi của các em và điều đó buộc các em phải trở thành người lớn trước tuổi bình thường. Các ông bà thường góp phần một cách quyết định vào việc giáo dục tình cảm và tôn giáo: qua sự khôn ngoan của họ, họ là một mắt xích quyết định trong mối liên hệ giữa các thế hệ.
Tầm quan trọng của việc làm mẹ và làm cha
33. Những người mẹ và những người cha có vai trò riêng biệt nhưng không kém phần quan trọng như chuẩn mực để đào tạo con cái và truyền thụ đức tin cho chúng. Khuôn mặt người mẹ tiếp tục chiếm một vai trò thiết yếu đáng kể với người trẻ trong sự phát triển của các em, ngay cả khi nó không được công nhận cách đầy đủ theo quan điểm văn hóa, chính trị và chuyên nghiệp. Nhiều người cha tận tâm chu toàn vai trò của mình, nhưng chúng ta không thể bưng bít rằng trong một số bối cảnh, khuôn mặt người cha vẫn còn vắng bóng hoặc mờ nhạt, và trong các bối cảnh khác, lại là khuôn mặt áp bức và độc đoán. Những sự mơ hồ này cũng phản ánh trong việc thực thi sứ vụ làm cha thiêng liêng.
Các mối liên hệ giữa các thế hệ
34. Thượng Hội Đồng công nhận sự tận tâm của nhiều phụ huynh và nhà giáo, là những người nghiêm túc trong việc truyền thụ các giá trị, bất chấp những khó khăn của môi trường văn hóa. Ở các vùng khác nhau, vai trò của những vị cao niên và việc tôn kính tổ tiên tạo thành một trụ cột của việc giáo dục và góp phần mãnh liệt vào việc hình thành căn tính cá nhân. Các đại gia đình, mà trong một số nền văn hóa, là các gia đình theo nghĩa đen, đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, một số người trẻ cảm thấy truyền thống gia đình như những áp bức và chạy trốn chúng theo sự thúc đẩy của một nền văn hóa toàn cầu hóa, là nền văn hoá đôi khi loại bỏ chúng khỏi bất kỳ điểm tham chiếu nào. Đằng khác, ở những nơi khác trên thế giới không có sự xung đột liên thế hệ thật sự giữa những người trẻ và người lớn, nhưng ở đó họ đang không ngó ngàng gì đến nhau. Đôi khi người lớn không tìm kiếm hoặc không thành công trong việc truyền thụ các giá trị cơ bản của cuộc sống hoặc thích nghi những kiểu sống của tuổi trẻ, do đó đảo ngược mối liên hệ giữa các thế hệ. Bằng cách này, mối liên hệ giữa những người trẻ và người lớn có thể kết thúc theo tình cảm, mà không bao giờ chạm đến khía cạnh giáo dục và văn hóa.
35. Những người trẻ dự thảo kế hoạch cho tương lai và đối diện cuộc đời với năng lượng và năng động. Tuy nhiên, các em cũng bị cám dỗ tập trung vào việc hưởng thụ của hiện tại và đôi khi có khuynh hướng ít chú ý đến ký ức về quá khứ mà các em từ đó mà đến, đặc biệt là nhiều món quà mà cha mẹ, ông bà của các em và hành lý văn hóa của xã hội nơi họ sống đã được chuyển cho các em. Việc giúp những người trẻ khám phá ra sự phong phú sống động trong quá khứ, bằng cách làm cho các em nhớ lại và sử dụng chúng trong việc lựa chọn và trong sự phát triển tiềm năng của các em, là một hành động của tình yêu đích thực đối với các em, đối với sự phát triển của các em và những lựa chọn mà các em được gọi để thực hiện.
Tình bằng hữu và các mối liên hệ giữa những người giống nhau
36. Ngoài các mối liên hệ giữa các thế hệ, chúng ta không được quên mối liên hệ giữa những người trẻ cùng trang lứa, những người đại diện một kinh nghiệm cơ bản về sự tương tác và giải phóng dần dần khỏi bối cảnh gia đình ban đầu. Tình bạn và sự đương đầu, thường cũng ở trong các nhóm có ít nhiều cấu trúc, mang đến cơ hội để củng cố các kỹ năng quan hệ và xã hội của các em trong một bối cảnh mà ở đó một người không bị đánh giá cũng không bị kết án. Kinh nghiệm nhóm cũng là một nguồn tuyệt vời để chia sẻ đức tin và giúp đỡ lẫn nhau trong việc làm chứng. Những người trẻ có thể hướng dẫn các người trẻ khác và sống một đời tông đồ thực sự giữa những người bạn của các em.
Thân thể và cảm tính- Những thay đổi đang xảy ra
37. Những người trẻ nhận ra tầm quan trọng của cơ thể và phái tính trong cuộc sống của các em và trong hành trình phát triển căn tính của các em, vì các em coi chúng là thiết yếu để sống tình bạn và tình cảm. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại, chúng ta gặp những hiện tượng phát triển nhanh chóng trong vấn đề này. Trên hết, sự phát triển về khoa học và công nghệ y sinh có tác động mạnh mẽ đến nhận thức về cơ thể, dẫn đến ý tưởng rằng người ta không có giới hạn trong cách sửa đổi nó. Khả năng can thiệp vào DNA, khả năng chèn các yếu tố nhân tạo vào cơ thể (cyborg) và sự phát triển của khoa học thần kinh tạo nên một nguồn lực lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề về nhân học và đạo đức. Một sự đón nhận mù quáng cách tiếp cận theo kỹ thuật về cơ thể làm suy yếu ý thức về sự sống như một hồng ân và sự giới hạn của loài thụ tạo, là loài có thể bị các động lực kinh tế và chính trị lừa dối hoặc khai thác (xem Phanxicô, Laudato si’, số 106).
Ngoài ra, một số người trẻ càng ngày càng bị mê hoặc bởi những hành vi mạo hiểm như một phương tiện để khám phá chính mình, tìm kiếm những cảm xúc mạnh mẽ và được người khác công nhận. Ngoài các hiện tượng đã có từ lâu đời như biết sớm về tình dục, sống phóng đãng, chủ trương du lịch tình dục, tôn thờ thái quá khía cạnh thể lý, giờ đây chúng ta thấy sự lan tràn rộng rãi của những tài liệu khiêu dâm bằng điện toán và triển lãm thân xác trực tuyến. Những hiện tượng này, mà trong đó các thế hệ mới bị đặt vào, tạo thành một trở ngại cho sự trưởng thành trong sáng. Chúng biểu lộ các động lực xã hội chưa từng có, là các động lực ảnh hưởng đến những kinh nghiệm và lựa chọn cá nhân, qua việc biến chúng thành lãnh thổ của một loại thuộc địa hoá về tư tưởng.
Việc tiếp nhận các giáo huấn luân lý của Hội Thánh
38. Đây là bối cảnh mà trong đó các gia đình Kitô giáo và cộng đồng Hội Thánh tìm cách giúp cho những người trẻ khám phá ra rằng phái tính là một món quà tuyệt vời có trong mầu nhiệm, để sống các mối liên hệ theo luân lý của Tin Mừng. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng thành công trong việc chuyển ước muốn này thành giáo dục về tình cảm và phái tính thích hợp, là những điều không giới hạn ở các can thiệp rời rạc và bất thường. Ở những nơi mà cách giáo dục này thực sự đã được áp dụng như một lựa chọn tích cực, người ta nhận thấy có những kết quả tốt giúp người trẻ hiểu rõ được sự liên hệ giữa đức tin vào Chúa Giêsu Kitô của các em và cách sống tình cảm và những quan hệ giữa các cá nhân của các em. Những kết quả này thu hút và khuyến khích một sự đầu tư năng lực của Hội Thánh cách rộng rãi hơn vào lĩnh vực này.
39. Hội Thánh có một truyền thống phong phú như cơ sở để xây dựng và đề ra giáo huấn của mình về chủ đề này: chẳng hạn như, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Thần Học Thân Xác đã được Thánh Gioan Phaolô II khai triển, Thông Điệp Deus caritas est của Đưc Bênêđictô XVI, Tông huấn Amoris laetitia của Đức Phanxicô. Nhưng những người trẻ, ngay cả những người biết và sống theo giáo huấn này, bày tỏ ước mong nhận được từ Hội Thánh một lời nói rõ ràng, nhân bản và cảm thông. Thực ra, luân lý phái tính là một nguyên nhân thường xuyên của việc hiểu lầm và sự xa cách Hội Thánh, theo mức độ nó bị coi như một không gian để phán xét và lên án. Đối diện với những thay đổi xã hội và những cách sống tình cảm và vô số quan điểm về đạo đức, những người trẻ rất nhạy cảm với giá trị của tính xác thực và của lòng sùng đạo, nhưng thường bị mất định hướng. Các em bày tỏ cách cụ thể ước muốn đối thoại rõ ràng về các vấn đề liên quan đến sự khác biệt giữa căn tính nam và nữ, tính hỗ tương giữa người nam và người nữ và sự đồng tính luyến ái.
Các hình thức dễ bị tổn thương- Thế giới công việc
40. Thế giới công việc vẫn là một lĩnh vực ở đó những người trẻ thể hiện sự sáng tạo và khả năng canh tân của các em. Đồng thời, các em cũng trải nghiệm những hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Trước hết và nghiêm trọng nhất là nạn thất nghiệp của người trẻ, mà ở một số quốc gia đang lên đến những mức độ rất cao. Điều này không những chỉ làm cho các em thành nghèo, mà tình trạng thiếu công ăn việc làm còn cướp đi khả năng mơ ước và hy vọng của những người trẻ và tước đoạt cơ hội đóng góp của các em vào sự phát triển của xã hội. Ở nhiều quốc gia, tình trạng này phụ thuộc vào sự thể là một số nhóm trẻ trong dân chúng không có trình độ chuyên môn đầy đủ, đặc biệt là do những thiếu xót trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Thông thường thì sự bất ổn định về công ăn việc làm ảnh hưởng đến những người trẻ tương ứng với lợi ích kinh tế của việc bóc lột lao động.
41. Nhiều người trẻ sống trong hoàn cảnh chiến tranh và chịu đựng bạo lực dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, các nhóm tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ và bóc lột tình dục, hãm hiếp trong chiến tranh, v.v. Những người trẻ khác, vì đức tin của các em, rất khó tìm được công ăn việc làm trong xã hội của các em và chịu đựng nhiều kiểu ngược đãi khác nhau, thậm chí cả cái chết. Nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hoặc thiếu các lựa chọn khác, đang sống trong tình trạng gây ra các tội ác và bạo lực: các binh lính trẻ em, các băng đảng vũ trang và tội phạm, buôn bán ma túy, khủng bố, v.v. Bạo lực này làm tan vỡ nhiều đời sống của người trẻ. Những sự lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và những sự lầm đường lạc lối, là nhiều lý do trong những lý do khiến những người trẻ phải vào tù, với một phạm vi ảnh hưởng đặc biệt đến với các nhóm dân tộc và xã hội nhất định. Tất cả những tình cảnh này chất vấn và thách đố Hội Thánh.
Việc đẩy ra ngoài lề và sự bất ổn xã hội
42. Thậm chí nhiều người trên thế giới là những người trẻ phải chịu các hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội, vì lý do tôn giáo, dân tộc hoặc kinh tế. Chúng ta hãy nhớ lại hoàn cảnh của những trẻ vị thành niên và thiếu nữ đang mang thai, nạn phá thai, cũng như sự lan tràn của HIV, các dạng nghiện ngập khác nhau (ma túy, trò chơi may rủi, tranh ảnh khiêu dâm, v.v.) và tình trạng trẻ em và thanh thiếu niên sống ngoài đường phố không có nhà cửa, gia đình, và nguồn lợi kinh tế; các tù nhân trẻ cũng đáng được đặc biệt quan tâm. Nhiều can thiệp khác nhau đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của Hội Thánh để chứng tỏ khả năng của những người trẻ bị loại trừ và những đóng góp mà các em có thể làm cho các cộng đồng. Hội Thánh muốn can đảm đứng về phía các em, đồng hành với các em trong suốt tiến trình phục hồi phẩm giá và một vai trò của của các em trong việc xây dựng công ích.
43. Khác hẳn với việc vơ đũa cả nắm đang thịnh hành rộng rãi, thế giới của giới trẻ cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi kinh nghiệm về sự tổn thương, khuyết tật, bệnh tật và đau khổ. Ở nhiều quốc gia, sự lan tràn của các hình thức đau khổ tâm lý, trầm cảm, các bệnh tâm thần và những rối loạn, liên kết chặt chẽ với những cuộc sống bất hạnh hoặc không thể tìm thấy một chỗ đứng trong xã hội, là điều liên tục phát triển, đặc biệt là trong giới trẻ; Chúng ta đừng quên hiện tượng bi thảm của những vụ tự tử. Những người trẻ trải qua các điều kiện khó chịu khác nhau và gia đình của các em dựa vào sự nâng đỡ của các cộng đồng Kitô giáo, tuy là những cộng đồng không phải lúc nào cũng được trang bị để đón tiếp họ.
Tài nguyên của những người dễ bị tổn thương
44. Nhiều hoàn cảnh trong số những hoàn cảnh này là sản phẩm của “nền văn hóa lãng phí”: những người trẻ nằm trong số những nạn nhân đầu tiên. Tuy nhiên, nền văn hóa này cũng có thể thấm nhập vào những người trẻ, các cộng đồng Kitô giáo và các nhà lãnh đạo của các em, cũng góp phần vào sự xuống cấp của con người, xã hội và môi trường làm ảnh hưởng đến thế giới của chúng ta. Với Hội Thánh, đó là một lời kêu gọi hoán cải, đoàn kết và một hành động giáo dục mới để hiện diện, đặc biệt là trong những môi trường khó khăn này. Những người trẻ đang sống trong những hoàn cảnh này cũng có các nguồn tài nguyên quý giá để chia sẻ với cộng đồng và dạy chúng ta đo lường giới hạn của chính mình, giúp chúng ta phát triển về nhân bản. Óc sáng tạo là điều không thể thiếu được, một óc sáng tạo mà với nó cộng đồng được linh hoạt bởi niềm vui của Tin Mừng có thể trở thành một sự thay thế cho sự bất ổn và những tình cảnh khó khăn. Theo cách này, xã hội có thể kinh nghiệm rằng những viên đá bị các thợ xây loại bỏ có thể trở thành những viên đá góc tường (x. Tv 118:22, Lc 20:17, Cv4:11, 1 Pr 2:4).
Chương IV: Là những người trẻ hôm nay
Các khía cạnh của nền văn hóa giới trẻ ngày nay- Tính độc đáo và đặc thù
45. Các thế hệ trẻ mang một cách tiếp cận thực tế với những đặc điểm cụ thể. Những người trẻ đòi hỏi phải được chào đón và tôn trọng trong sự độc đáo của các em. Trong số các yếu tố rõ ràng nhất của nền văn hóa giới trẻ, là các em thích hình ảnh hơn các ngôn ngữ truyền thông khác, tầm quan trọng của cảm giác và cảm xúc khi tiếp cận với thực tế và ưu tiên cho sự cụ thể và cho hoạt động so với phân tích lý thuyết. Mối liên hệ của tình bạn và của việc thuộc về các nhóm tuổi, được nuôi dưỡng qua các phương tiện truyền thông xã hội, là điều rất quan trọng. Giới trẻ nói chung có một sự cởi mở tự phát đối với sự đa dạng, điều này khiến các em chú ý đến các chủ đề hòa bình, hòa nhập và đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo. Nhiều kinh nghiệm từ nhiều nơi trên thế giới cho thấy những người trẻ biết cách trở thành những người tiên phong trong cuộc gặp gỡ và đối thoại liên văn hóa và liên tôn, trong quan điểm chung sống hòa bình.
Việc dấn thân và tham gia xã hội
46. Mặc dù dưới một hình thức khác so với các thế hệ trước, việc tham gia xã hội là một tính năng cụ thể của giới trẻ ngày nay. Bên cạnh một số em vẫn thờ ơ, có nhiều em khác sẵn sàng cung cấp các sáng kiến tình nguyện, làm công dân tích cực và đoàn kết xã hội: điều quan trọng là phải hỗ trợ và khích lệ các em phát huy tài năng, kỹ năng và sự sáng tạo của các em, và khuyến khích tinh thần trách nhiệm của các em. Sự tham gia xã hội và tiếp xúc trực tiếp với người nghèo vẫn là một cơ hội cơ bản để khám phá và đào sâu đức tin và phân định ơn gọi của chính mình. Sự nhạy cảm với các chủ đề môi sinh và phát triển bền vững là điều mạnh mẽ và lan rất rộng, và phải nhấn mạnh rằng Thông Điệp Laudato si’ là chất xúc tác cho nó. Việc sẵn sàng dấn thân vào chính trị vì công ích được ghi nhận, mặc dù Hội Thánh không phải lúc nào cũng có thể hỗ trợ nó bằng cách cung cấp các cơ hội đào tạo và không gian để phân định. Còn việc quảng bá công lý, các người trẻ đòi hỏi Hội Thánh phải cam kết rõ ràng và mạch lạc, là cam kết xóa bỏ tất cả mọi thông đồng với một não trạng thế tục.
Nghệ thuật, âm nhạc và thể thao
47. Thượng Hội Đồng công nhận và đánh giá cao tầm quan trọng mà những người trẻ dành cho nghệ thuật dưới mọi hình thức: trong lĩnh vực này, nhiều người trẻ sử dụng những tài năng các em đã nhận được, phát huy thẩm mỹ, chân lý và thiện tâm, để lớn lên trong nhân loại và trong tương quan với Thiên Chúa. Với nhiều em, việc diễn tả nghệ thuật cũng là một ơn gọi chuyên nghiệp đích thực. Chúng ta không thể quên rằng trong nhiều thế kỷ, “con đường thẩm mỹ” là một trong những cách thế đặc quyền để bày tỏ đức tin và Phúc Âm hoá.
Tầm quan trọng của âm nhạc là điều rất đặc biệt; nó đại diện cho một môi trường thực sự mà trong đó những người trẻ không ngừng đắm chìm, như một nền văn hóa và ngôn ngữ có khả năng khơi dậy cảm xúc và định hình một căn tính. Ngôn ngữ âm nhạc cũng đại diện cho một nguồn tài nguyên mục vụ đặc biệt, là thách đố và sự canh tân của phụng vụ. Việc chấp thuận các thị hiếu theo quan điểm thương mại đôi khi có nguy cơ ảnh hưởng đến sự liên hệ với các hình thức diễn tả âm nhạc truyền thống và thậm chí cả phụng vụ.
Tầm quan trọng của việc tập thể thao trong giới trẻ cũng là điều đáng chú ý. Hội Thánh không được đánh giá thấp các tiềm năng của mình về mặt giáo dục và đào tạo, trong khi vẫn duy trì một sự hiện diện được khẳng định trong đó. Thế giới thể thao cần được giúp đỡ để vượt qua những điều mơ hồ là một phần của nó, như huyền thoại về các nhà vô địch, việc làm nô lệ cho luận lý thương mại và quan niệm thành công bằng bất cứ giá nào. Theo nghĩa này, giá trị của việc đồng hành và nâng đỡ những em khuyết tật trong việc luyện tập thể thao được tái khẳng định.
Tâm linh và tín ngưỡng- Các bối cảnh tôn giáo khác nhau
48. Kinh nghiệm tôn giáo của những người trẻ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những hoàn cảnh xã hội và văn hóa ở nơi các em sống. Trong một số quốc gia, đức tin Kitô giáo là một kinh nghiệm cộng đồng mạnh mẽ và sôi nổi mà những người trẻ chia sẻ với niềm vui. Trong các khu vực khác của truyền thống Kitô giáo cổ đại, phần lớn dân số Công giáo không sống như những thành viên thực sự của Hội Thánh; tuy nhiên, không thiếu những nhóm thiểu số có óc sáng tạo và kinh nghiệm, là những nhóm cho thấy sự hồi sinh của việc quan tâm đến tôn giáo như một phản ứng chống lại một cái nhìn thu nhỏ và nghẹt thở. Ở những nơi khác, người Công Giáo, cùng với các giáo phái Kitô giáo khác, là thiểu số, đôi khi gặp phải sự kỳ thị và thậm chí bắt bớ. Cuối cùng, có những tình cảnh mà các giáo phái hoặc hình thức tín ngưỡng thay thế đang gia tăng; những người theo các giáo phái ấy thường thất vọng và trở thành đối thủ của tất cả những gì gọi là tôn giáo. Nếu ở một số vùng, những người trẻ không có cơ hội bày tỏ cách công khai đức tin của mình hoặc tự do tôn giáo bị từ chối, thì ở những nơi khác người ta cảm thấy sức nặng của các lựa chọn trong quá khứ, bao gồm cả những lựa chọn chính trị, làm suy yếu tính đáng tin cậy của Hội Thánh. Không thể nói về tín ngưỡng của những người trẻ mà không kể đến tất cả những sự khác biệt này.
49. Nói chung, những người trẻ tuyên bố là đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời và bày tỏ sự quan tâm của các em đến đời sống tâm linh. Sự chú ý này đôi khi có hình thức của một cuộc tìm kiếm hạnh phúc tâm lý hơn là mở lòng ra cho cuộc gặp gỡ Mầu Nhiệm của Thiên Chúa hằng sống. Đặc biệt, trong một số nền văn hóa, nhiều người tin rằng tôn giáo là một vấn đề riêng tư và là việc chọn lựa, trong các truyền thống tâm linh khác nhau, những yếu tố mà trong đó họ tìm thấy các xác tín của chính mình. Do đó, một sự pha trộn chắc chắn cũng lan ra và phát triển dựa trên giả định tương đối rằng tất cả các tôn giáo đều ngang hàng với nhau. Việc gắn bó với một cộng đồng đức tin không được tất cả moi người coi là phương tiện đặc quyền để tiếp cận ý nghĩa của cuộc đời và được đồng hành, hoặc đôi khi bị thay thế bởi các ý thức hệ hoặc việc tìm kiếm thành công về kinh tế và chuyên nghiệp, trong luận lý của việc tự mình có thể thành công về mặt vật chất. Nhiều thực hành được truyền lại qua truyền thống vẫn còn tồn tại, chẳng hạn như việc hành hương đến các đền thờ, có thể ảnh hưởng đến nhiều người trẻ, cũng như những cách bày tỏ việc sùng kính phổ thông thường liên quan đến việc tôn sùng Đức Mẹ và các Thánh, là những điều bảo tồn kinh nghiệm về đức tin của một dân tộc.
50. Sự đa dạng tương tự cũng được tìm thấy trong mối liên hệ của người trẻ với hình ảnh của Chúa Giêsu. Nhiều em nhận ra Người là Cứu Chúa và Con Thiên Chúa, và thường các em cảm thấy gần gũi Người qua Đức Maria, Mẹ Người và các tham gia vào một cuộc hành trình đức tin. Các em khác không có mối liên hệ cá nhân với Người, nhưng coi Người như một người tốt và một mẫu gương đạo đức. Các em khác gặp Người qua một kinh nghiệm mạnh mẽ về Chúa Thánh Thần. Đằng khác, đối với những em khác, đó là một nhân vật quá khứ, không có sự hiện hữu thường hằng, hoặc rất xa với kinh nghiệm của con người.
Nếu, đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Hội Thánh dường như là những từ trống rỗng, các em lại nhạy cảm với hình ảnh của Chúa Giêsu, khi hình ảnh này được trình bày một cách hấp dẫn và hiệu quả. Bằng nhiều cách, những người trẻ ngày nay nói với chúng ta: “Chúng con muốn thấy Chúa Giêsu” (Ga 12:21), do đó biểu lộ mối quan tâm thánh thiêng này, là điều đặc trưng cho tâm hồn của mỗi con người: “ao ước tìm kiếm tâm linh, khao khát gặp gỡ Thiên Chúa, khắc khoải về tình yêu” (Phanxicô, Thánh lễ Khai Mạc Tổng Tu Nghị của Dòng thánh Augustinô, ngày 28 tháng 8 năm 2013).
Mong ước một phụng vụ sống động
51. Trong nhiều bối cảnh khác nhau, những người trẻ Công giáo muốn có những đề nghị về cầu nguyện và những giây phút bí tích có khả năng nắm bắt cuộc sống hàng ngày của các em trong một phụng vụ tươi mát, chân thực và vui mừng. Ở nhiều nơi trên thế giới, kinh nghiệm phụng vụ là yếu tố chính của căn tính Kitô giáo và có sự tham gia rộng rãi của những người sống với niềm xác tín. Những người trẻ nhận ra một giây phút đặc quyền của kinh nghiệm về Thiên Chúa và của cộng đồng Hội Thánh, và một điểm khởi hành cho sứ vụ. Trái lại, ở những nơi khác, có một khoảng cách nhất định giữa bí tích và Thánh Lễ Chúa Nhật, bị coi là một giới luật đạo đức hơn là một cuộc gặp gỡ hân hoan với Chúa Phục Sinh và cộng đồng. Nói chung, người ta có thể thấy rằng ngay cả khi một bài giáo lý về các bí tích được cung cấp, việc đồng hành cách giáo dục để sống cuộc cử hành theo chiều sâu và bước vào sự phong phú của Mầu Nhiệm, các biểu tượng và nghi thức của nó vẫn còn quá yếu.
Sự tham gia và nhân vật chính- Các người trẻ muốn trở thành những nhân vật chính
52. Đối diện với những mâu thuẫn của xã hội, nhiều người trẻ muốn sử dụng tài năng, kỹ năng và sự sáng tạo của mình và sẵn sàng thực thi các trách nhiệm. Các chủ đề quan trọng nhất đối với các em là sự phát triển bền vững, cả về xã hội lẫn môi trường, việc kỳ thị và phân biệt chủng tộc. Sự tham gia của những người trẻ thường tuân theo các cách tiếp cận chưa từng có, đặc biệt là việc khai thác các tiềm năng của truyền thông kỹ thuật số trong việc động viên và áp lực chính trị: việc phổ biến những kiểu sống và những mô hình tiêu thụ và việc đầu tư là điều thiết yếu, hỗ trợ và chú ý đến môi trường; các hình thức nhập cuộc và tham gia mới vào xã hội và chính trị; những phương thức đảm bảo xã hội mới cho những đối tượng yếu đuối nhất.
53. Thượng Hội Đồng ý thức rằng một số lớn người trẻ, vì những lý do rất đa dạng, không đòi hỏi gì ở Hội Thánh vì các em cho rằng điều ấy không có ý nghĩa đối với cuộc sống của các em. Một số em thậm chí còn yêu cầu Hội Thánh buông tha cho các em, vì các em cảm thấy khó chịu, nếu không muốn nói là bực bội, về sự hiện diện của Hội Thánh. Đa số những yêu cầu này không phát sinh từ một sự khinh miệt thiếu suy nghĩ hoặc bốc đồng, nhưng bắt nguồn từ những lý do nghiêm trọng và đáng tôn trọng: các gương mù về tình dục và kinh tế, những phán đoán sai lầm của các thừa tác viên có chức thánh, là những vị không biết phương thức hiểu biết cách thích hợp sự nhạy cảm của những người trẻ, thiếu chuẩn bị cho bài giảng và trình bày Lời Chúa, vai trò thụ động được trao cho những người trẻ trong các cộng đồng Kitô hữu, những khó khăn của Hội Thánh trong việc đưa ra lý do cho các lập trường về giáo lý và luân lý của mình trong xã hội hiện đại.
54. Những người Công giáo trẻ không chỉ đơn thuần là những người tiếp nhận hành động mục vụ, mà là những phần tử sống động trong một thân thể duy nhất của Hội Thánh, những người đã được rửa tội trong đó Thần Khí của Chúa sống và hoạt động. Các em góp phần vào việc phong phú hoá điều gì Hội Thánh là, chử không chỉ những gì Hội Thánh làm. Các em là hiện tại chứ không chỉ là tương lai của Hội Thánh. Những người trẻ là nhân vật chính trong nhiều sinh hoạt của Hội Thánh, ở đó các em quảng đại phục vụ, đặc biệt là cho việc linh động hoá việc dạy giáo lý và phụng vụ, để tâm đến những người bé nhỏ nhất, tình nguyện hướng đến người nghèo. Các phong trào, các hiệp hội và các dòng tu cũng cung cấp cho những người trẻ cơ hội dấn thân và cùng lãnh trách nhiệm. Đôi khi, việc sẵn sàng của những người trẻ gặp một chủ nghĩa độc đoán và ngờ vực nào đó của người lớn và của các mục tử, là những người không nhận ra cách đầy đủ sự sáng tạo và cố gắng chia sẻ trách nhiệm của các em.
55. Trong số những người trẻ, chúng ta thấy nhu cầu nhận biết và đánh giá cao hơn về phụ nữ trong xã hội và trong Hội Thánh. Nhiều phụ nữ đóng một vai trò không thể thay thế được trong các cộng đồng Kitô giáo, nhưng ở nhiều nơi rất khó để đưa họ vào các tiến trình có thể đưa ra quyết định, ngay cả khi họ không đòi hỏi những trách nhiệm mục vụ cụ thể. Sự vắng mặt của tiếng nói và cái nhìn của phụ nữ nghèo nàn hoá cuộc bàn luận và con đường của Hội Thánh, qua việc loại bỏ một đóng góp có giá trị để phân định. Thượng Hội Đồng khuyến nghị đảm bảo rằng mọi người đều nhận thức được sự cấp bách của một thay đổi không thể tránh được, đặc biệt là từ những suy tư nhân học và thần học về sự hợp tác hỗ tương giữa người nam và người nữ.
Sứ vụ của những người trẻ với những người trẻ đồng trang lứa
56. Trong các nhóm khác nhau, có những nhóm trẻ, thường biểu hiện cho các hiệp hội và phong trào Hội Thánh, những người rất tích cực trong việc Phúc Âm hoá những người trẻ cùng lứa tuồi với các em qua một chứng từ về một đời sống trong sáng, một ngôn ngữ dễ tiếp cận và khả năng thiết lập tình bằng hữu chân chính. Hoạt động tông đồ này giúp mang Tin Mừng đến cho những người mà việc chăm sóc mục vụ giới trẻ thông thường sẽ khó mà đến được; nó cũng giúp làm cho đức tin của những người làm điều ấy được trưởng thành. Do đó, nó phải được đánh giá cao, được hỗ trợ, đồng hành một cách khôn ngoan và hòa nhập vào cuộc sống của cộng đồng.
Ước muốn một cộng đồng Hội Thánh chân thật và thân tình hơn
57. Giới trẻ yêu cầu Hội Thánh phải tỏa sáng qua sự chân thật, gương mẫu, có khả năng, đồng trách nhiệm và vững chắc về văn hóa của mình. Đôi khi, đòi hỏi này nghe có vẻ như một lời chỉ trích, nhưng thường có hình thức tích cực của một dấn thân cá nhân cho một cộng đồng huynh đệ, đón chào, vui vẻ và cam kết một cách tiên tri chống lại bất công xã hội. Trong số những kỳ vọng của người trẻ, việc ước mong rằng Hội Thánh chấp nhận một kiểu đối thoại ít gia trưởng và thẳng thắn là một điều đặc biệt rõ ràng.
58. “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất trước mắt họ.” (Lc 24: 27-31).
Sau khi lắng nghe họ, Chúa nói với hai người lữ khách một Lời “dứt khoát” và qủa quyết, là Lời có thẩm quyền và biến đổi họ. Vì vậy, với sự hiền lành và sức mạnh, Chúa vào nhà của họ, ở lại với họ và chia sẻ bánh hằng sống với họ: chính dấu chỉ Thánh Thể là điều làm cho mắt hai môn đệ cuối cùng mở ra.
Một Lễ Ngũ tuần mới- Hành động của Chúa Thánh Thần
59. Chúa Thánh Thần soi sáng tâm hồn, mở mắt và hồi sinh đức tin của hai người lữ khách. Ngài làm việc từ thủa tạo thiên lập địa để kế hoạch gồm tóm tất cả mọi sự trong Đức Kitô của Chúa Cha đi đến hoàn thành. Ngài hành động, ở mọi lúc và mọi nơi, trong sự đa dạng của hoàn cảnh và các nền văn hóa, cũng hồi sinh việc cam kết dấn thân cho công lý, việc tìm kiếm chân lý, lòng can đảm của hy vọng giữa những khó khăn và đau khổ. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô nói rằng “cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 22). Lòng ao ước sống trong tình yêu và sự quan tâm lành mạnh đang ở trong tâm hồn những người trẻ là một phần của khát vọng mãnh liệt của tất cả mọi thụ tạo để có một niềm vui trọn vẹn. Trong mỗi người, ngay cả trong những người không biết Đức Kitô, Thần Khí của Đấng Tạo Hoá hoạt động để dẫn họ đến chân thiên mỹ.
Chúa Thánh Thần trẻ trung hoá Hội Thánh
60. Tuổi trẻ là thời kỳ nguyên thủy và kích động của cuộc đời sống, là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã sống, trong khi thánh hóa nó. Sứ điệp gửi đến những người trẻ của Công đồng Vatican II (ngày 7 tháng 12 năm 1965) đã trình bày Hội Thánh như “tuổi trẻ đích thực của thế giới”, có “khả năng vui mừng vì những gì bắt đầu, tự hiến mà không quay trở lại, canh tân chính mình và lại ra đi cho các cuộc chinh phục mới”. Với sự tươi mới và đức tin của các em, những người trẻ góp phần vào việc tỏ cho người ta thấy dung nhan này của Hội Thánh, nơi phản ánh “Sự Sống Vĩ Đại, Đức Kitô trẻ trung muôn đời”. Vì thế, vấn đề không phải là tạo ra một Hội Thánh mới cho giới trẻ, mà là cùng các em tìm lại tuổi trẻ của Hội Thánh, bằng cách mở lòng chúng ta ra cho ân sủng của một Lễ Ngũ Tuần mới.
Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu
61. Ơn gọi của Kitô hữu là đi theo Đức Kitô bằng cách vượt qua nước Rửa tội, lãnh nhận ấn tín Thêm Sức và trở nên Thân Thể của Người qua Bí tích Thánh Thể: “Chúa Thánh Thần đến, đó là ngọn lửa sau nước, và bạn trở nên bánh, tức là thân thể của Đức Kitô” (Thánh Augustinô, Bài giảng 227). Trong con đường khai tâm (nhập đạo) Kitô giáo, trên hết là Bí Tích Thêm Sức, một Bí Tích cho phép các tín hữu cảm nghiệm Lễ Ngũ Tuần và một cuộc tuôn đổ Thánh Thần mới cho việc tăng trưởng và sứ vụ. Điều quan trọng là phải tái khám ra sự phong phú của Bí Tích này, để hiểu rõ mối liên hệ của nó với ơn gọi cá nhân của mỗi người đã được rửa tội và với thần học vế các đặc sủng, để trông nom tốt hơn việc chăm sóc mục vụ của nó, để nó không trở thành một giây phút trang trọng mà có rất ít ý nghĩa. Chúa Thánh Thần là nghệ nhân của mọi con đường ơn gọi: Ngài là “bậc thầy nội tâm”, là Đấng mà chúng ta phải để cho Ngài dẫn dắt.
Một cảm ngiệm đích thực về Thiên Chúa
62. Điều kiện đầu tiên để phân biệt ơn gọi trong Chúa Thánh Thần là một cảm nghiệm đích thực về đức tin vào Đức Kitô đã chết và phục sinh, bằng cách nhớ rằng “Đức tin không phải là một ánh sáng xua tan tất cả mọi bóng tối của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn các bước đi của chúng ta trong đêm tối và vừa đủ cho cuộc hành trình” (Phanxicô, Lumen Fidei, số 57). Trong các cộng đồng Kitô hữu, đôi khi chúng ta có nguy cơ đề nghị, vượt ra ngoài các ý định, một chủ nghĩa hữu thần đạo đức trị liệu[1], là chủ nghĩa đáp ứng nhu cầu an toàn và thoải mái của con người, thay vì dẫn đến một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng và quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nếu đúng là cuộc đời chỉ được đánh thức bởi sự sống, thì rõ ràng là những người trẻ cần gặp những cộng đồng Kitô hữu bắt nguồn từ tình bằng hữu với Đức Kitô, Đấng dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu trẻ ở giữa những người trẻ- Tuổi trẻ của Chúa Giêsu
63. “Người trẻ ở giữa những người trẻ trở nên gương sáng cho những người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa” (Thánh Irênê, Chống Lạc Giáo, II, 22, 4), Đức Kitô đã thánh hóa tuổi trẻ bằng chính sự thể là Người sống tuổi trẻ. Tường thuật Thánh Kinh trình bày một cảnh về tuổi trẻ của Chúa Giêsu (x. Lc 2:41-52), Người đã sống không ồn ào, trong sự đơn giản và làm việc ở Nadareh, đến nỗi được người ta biết đến là “bác thợ mộc” (Mc 6: 3) và “con bác thợ mộc” (Mt 13:55).
Khi suy ngẫm về cuộc đời của Người, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tuổi trẻ là một phúc lành thế nào: Chúa Giêsu đã tin tưởng vô điều kiện vào Chúa Cha, Người đã quan tâm đến tình bằng hữu với các môn đệ của Người và ngay cả trong những lúc khủng hoảng, Người đã vẫn trung thành. Người đã tỏ lộ lòng trắc ẩn sâu xa với những người yếu đuối, đặc biệt là người nghèo, người bệnh tật, người tội lỗi và những người bị khai trừ. Người đã can đảm đương đầu với những người có quyền bính về tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người đã trải qua việc bị hiểu lầm và chối từ; Người đã cảm thấy sợ hãi sự đau khổ và đã biết sự mỏng dòn của Cuộc Khổ Nạn; Người đã hướng mắt về tương lai, phó thác Mình trong bàn tay đáng tin cậy của Chúa Cha và tín thác vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, tất cả những người trẻ có thể tìm thấy chính mình, với những lo âu và hy vọng, những tư lự và những giấc mơ của các em và các em có thể tâm sự với Người. Việc chiêm niệm về các cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với những người trẻ sẽ là nguồn cảm hứng cho các em.
64. Việc lắng nghe Đức Kitô và hiệp thông với Người cũng giúp cho các mục tử và các nhà giáo có được một bài học khôn ngoan về giai đoạn này của đời sống. Thượng Hội Đồng cố gắng nhìn những người trẻ với thái độ của Chúa Giêsu, để nhận ra trong đời sống của các em những dấu chỉ về tác động của Chúa Thánh Thần. Thực ra, chúng tôi tin rằng ngay cả ngày nay, Thiên Chúa đang nói với Hội Thánh và thế giới qua giới trẻ, óc sáng tạo và cam kết dấn thân của các em, cũng như qua những đau khổ và các yêu cầu giúp đỡ của các em. Với các em, chúng ta có thể đọc thời đại của mình cách tiên tri hơn và nhận ra các dấu chỉ của thời đại; đó là lý do tại sao những người trẻ là một trong những “những địa điểm thần học” ở đó Chúa cho chúng ta biết một số kỳ vọng và các thách đố của mình để xây dựng ngày mai.
65. Tuổi trẻ, giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng những giấc mơ đang dần dần hình thành, bằng những mối liên hệ càng ngày càng trở nên kiên định và cân bằng hơn, bằng những nỗ lực và thử nghiệm, bằng những lựa chọn, đang từ từ xây dựng một kế hoạch cho cuộc đời. Vào lúc này của cuộc đời, những người trẻ được mời gọi tự tiên liệu, mà không cần phải cắt đứt gốc rễ của mình, để xây dựng sự tự chủ của mình, nhưng không phải trong sự cô độc. Bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa không phải lúc nào cũng cung cấp những điều kiện thuận lợi. Nhiều vị thánh trẻ đã làm cho các đặc điểm của tuổi trẻ tỏa sáng trong tất cả vẻ đẹp của chúng và, trong thời đại các ngài, các ngài là những ngôn sứ thật của sự thay đổi; những gương sáng của các ngài cho chúng ta thấy rằng người trẻ có những khả năng gì khi các em tự ý mở lòng ra để gặp gỡ Đức Kitô.
Những người trẻ khuyết tật hoặc bệnh tật cũng có thể có những đóng góp giá trị. Thượng Hội Đồng mời các cộng đồng nhường chỗ cho những sáng kiến, là những gì làm cho các em được nhìn nhận và cho phép các em trở thành những nhân vật chính, chẳng hạn như qua việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc, qua các lộ trình giáo lý được hoàn thiện tốt, qua các thí nghiệm hiệp hội hoặc các hội nhập nghề.
Mối quan tâm lành mạnh của những người trẻ
66. Những người trẻ có một mối quan tâm, trên hết, là phải được lắng nghe, tôn trọng và đồng hành, với xác tín về tự do và trách nhiệm của các em. Hội Thánh biết qua kinh nghiệm rằng sự đóng góp của các em là nền tảng cho việc canh tân của mình. Ở một số khía cạch, những người trẻ này có thể đi trước các mục tử của các em. Vào buổi sáng Lễ Phục Sinh, người Môn Đệ trẻ yêu dấu đã đến ngôi mộ trước, đến trước trong cuộc chạy đua với Thánh Phêrô, người tự an ủi vì tuổi tác và phản bội (x. Ga20:1-10); cũng vậy, trong cộng đồng Kitô hữu, tính năng động của tuổi trẻ là nguồn năng lượng canh tân cho Hội Thánh, bởi vì nó giúp Hội Thánh thoát ra khỏi sự nặng nề và chậm chạp cùng mở mình ra cho Đấng Phục Sinh. Đồng thời, thái độ của người môn đệ yêu dấu cho thấy điều quan trọng là phải nối kết với kinh nghiệm của những người lớn tuổi, nhận ra vai trò của các mục tử và không tiến về phía trước một mình. Do đó, chúng ta sẽ có bản hoà tấu nhiều giọng này là hoa quả của Chúa Thánh Thần.
67. Cuộc sống của những người trẻ, giống như những người khác, cũng bị đánh dấu bởi các vết thương. Chúng là các vết thương của những thất bại trong lịch sử của chính mình, những ước muốn không thành, những kỳ thị và những bất công phải chịu, hoặc sự thể là không cảm thấy được yêu thương hoặc nhìn nhận. Đây là những tổn thương về thể lý và tâm lý. Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận vượt qua cuộc khổ nan và cái chết qua Thập Giá của Người, đã trở nên người lân cận của tất cả những người trẻ chịu đau khổ. Cũng có những vết thương về đạo đức, sức nặng của những sai lầm mắc phải, mặc cảm sau khi lỗi lầm. Việc được hòa giải với vết thương của chính mình, ngày nay hơn bao giờ hết, là điều kiện cần thiết cho một cuộc sống tốt. Hội Thánh được mời gọi để nâng đỡ tất cả những người trẻ trong các thử thách của các em và thực thi các hành động mục vụ thích hợp.
Trở thành người lớn- Tuổi của những lựa chọn
68. Tuổi trẻ là thời gian của cuộc sống phải kết thúc để nhường chỗ cho tuổi trưởng thành. Sự chuyển tiếp này không những chỉ là một tiến trình khám phá, mà còn bao hàm một con đường trưởng thành, không phải lúc nào cũng được thuận tiện hoá bởi môi trường mà trong đó người trẻ đang sống. Thực ra, ở nhiều vùng, đã có một nền văn hóa tạm thời ủng hộ việc kéo dài tuổi thiếu niên cách vô hạn và trì hoãn các quyết định; do đó, nỗi sợ sự dứt khoát tạo ra một loại tê liệt về quyết định. Tuy nhiên, tuổi trẻ không thể ngừng lại ở một thời gian lơ lửng: đây là tuổi của những chọn lựa và sự quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó nằm ở chính tuổi này. Những người trẻ đưa ra những quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác, rất căn bản, là điều đem lại cho cuộc đời các em một hướng đi quyết định. Chính về những điều sau cùng này mà người ta nói cách chính xác hơn là “sự lựa chọn của cuộc đời”: thực ra, chính cuộc đời, ở thời điểm độc nhất vô nhị của nó, nhận được định hướng dứt khoát của nó.
Cuộc sống dưới dấu chỉ của sứ vụ.
69. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời các bạn trẻ suy nghĩ về cuộc đời của các em trong chân trời của sứ vụ: “Rất nhiều lần trong đời, chúng ta lãng phí thì giờ để tự hỏi: ‘Nhưng tôi là ai?’. Nhưng bạn có thể tự hỏi mình là ai và dành cả cuộc đời để tìm kiếm bạn là ai. Hãy tự hỏi, ‘Tôi là ai? ‘“ (Diễn tử trong buổi cầu nguyện để chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới, Basilica Santa Maria Maggiore, ngày 8 tháng 4 năm 2017). Khẳng định này làm sáng tỏ cách sâu xa những lựa chọn của cuộc đời, bởi vì nó mời gọi người ta nắm lấy chúng trong chân trời giải phóng của món quà chính mình. Đây là cách duy nhất để đạt được hạnh phúc đích thực và lâu dài! Thật vậy, “sứ vụ ở tâm hồn của mọi người chẳng phải là một phần của cuộc sống của tôi, cũng chẳng phải là một vật trang trí mà tôi có thể để lại, cũng chẳng phải một phụ lục hay một giây phút hiện sinh. Đó là một điều gì đó mà tôi không thể tách ra khỏi bản thân mình nếu tôi không muốn tự hủy hoại. Tôi là một sứ vụ trên mặt đất này và tôi đang ở trong thế giới này vì nó” (Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 273).
Một phương pháp sư phạm có khả năng thách đố
70. Sứ vụ là một la bàn chắc chắn cho đường đời, nhưng không phải là một “hoa tiêu”, là điều cho thấy toàn thể cuộc hành trình qua dự đoán. Tự do luôn có một chiều kích rủi ro phải được khai triển với lòng can đảm, và được đi kèm một cách tiến bộ, với sự khôn ngoan. Nhiều trang của Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu, Đấng mời chúng ta dám cả gan, cởi bỏ, đi từ luận lý của việc tuân giữ giới luật đến luận lý của món quà quảng đại và vô điều kiện, mà không che giấu đòi hỏi phải vác thập giá của mình (x. Mt 16:24). Người rất cực đoan: “Người cho đi tất cả mọi sự và đòi hỏi tất cả mọi sự: Người cho đi một tình yêu trọn vẹn và đòi hỏi một con tim không bị chia cắt” (Phanxicô, Bài Giảng ngày 14 tháng 10 năm 2018). Khi tránh lừa dối những người trẻ bằng những đề nghị theo chủ thuyết tối thiểu hoặc nghiền nát các em bằng một bộ quy tắc đưa ra một hình ảnh Kitô giáo bị thu nhỏ và luân lý hóa, chúng ta được mời gọi tận dụng sự táo bạo của các em, để khuyến khích và huấn luyện các em gánh lấy trách nhiệm của mình, chắc chắn rằng lỗi lầm, thất bại và khủng hoảng cũng là những kinh nghiệm có thể giúp các em lớn lên cách nhân bản.
Ý nghĩa thực sự của quyền bính
71. Để thực hiện một cuộc hành trình trưởng thành thật sự, những người trẻ cần những người lớn có thẩm quyền. Theo nguyên gốc của nó, auctoritas (quyền bính) ám chỉ khả năng phát triển; nó không diễn tả ý tưởng về một quyền ra lệnh, mà một sức phát sinh thực sự. Khi Chúa Giêsu gặp những người trẻ, ở mọi hoàn cảnh và mọi điều kiện, ngay cả cái chết, bằng cách này hay cách khác, Người nói bảo họ: “Hãy dậy đi! Hãy lớn lên!”. Và lời Người đã làm tròn những gì Người nói (x. Mc 5: 41, Lc 7:14). Trong cảnh chữa người động kinh bị quỷ ám (x. Mc 9: 14-29), gợi lên nhiều hình thức tha hóa của giới trẻ ngày nay, rõ ràng là bàn tay của Chúa Giêsu không cất đi tự do, mà khích lệ nó, giải phóng nó. Chúa Giêsu thi hành trọn vẹn quyền bính của Người: Người không mong muốn gì hơn là sự trưởng thành của những người trẻ, không có một ý chiếm hữu, thao túng hay dụ dỗ nào.
72. Gia đình là cộng đồng đức tin đầu tiên, ở đó, bất chấp những giới hạn và thiếu hoàn hảo, người trẻ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa và bắt đầu phân định về ơn gọi của mình. Các Thượng Hội Đồng Giám Mục trước đây, rồi Tông huấn Amoris laetitia, không ngừng nhấn mạnh rằng gia đình, như một Hội Thánh tại gia, có sứ vụ sống niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày và làm cho tất cả các thành viên của mình tham dự vào cuộc sống này tuỳ theo điều kiện của họ, cho phép họ vẫn mở lòng ra với chiều hướng ơn gọi và truyền giáo.
Tuy nhiên, không phải tất cả các gia đình luôn dạy con cái họ nhìn về tương lai từ viễn cảnh ơn gọi. Đôi khi việc theo đuổi danh vọng xã hội hoặc thành công cá nhân, tham vọng của cha mẹ hoặc khuynh hướng quyết định các lựa chọn của con cái, xâm chiếm không gian của sự phân định và điều kiện hoá việc quyết định. Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải giúp các gia đình có một quan niệm rõ ràng hơn về cuộc sống như một ơn gọi. Câu chuyện Tin Mừng về thiếu nên Giêsu (x. Lc 2:41-52), đã vâng phục cha mẹ Người, nhưng đã rời xa các ngài để lo cho những việc của Chúa Cha, có thể cho chúng ta những hiểu biết quý giá để hướng dẫn các mối liên hệ gia đình theo một ý nghĩa Tin Mừng.
Được mời gọi đến tự do- Tin Mừng về tự do
73. Tự do là một điều kiện thiết yếu cho một sự lựa chọn đích thực của cuộc đời. Tuy nhiên, nó có khả năng bị hiểu lầm, đặc biệt vì nó không phải lúc nào cũng được trình bày cách chính xác. Chính Hội Thánh rốt cuộc cũng bị coi như một cơ chế áp đặt các quy tắc, các cấm đoán và bó buộc trước mắt nhiều người trẻ. Nhưng Đức Kitô đã “giải phóng chúng ta để được tự do” (Gal 5: 1), làm cho chúng ta đi từ thể chế của Lề Luật sang thể chế của Chúa Thánh Thần. Dưới ánh sáng của Tin Mừng, ngày nay chúng ta đã kịp thời nhận ra một cách rõ ràng hơn rằng tự do là quan hệ cấu thành và cho thấy rằng các đam mê và cảm xúc là điều quan trọng khi chúng hướng ta về phía cuộc gặp gỡ đích thực với người khác. Một viễn cảnh như vậy cho thấy rõ ràng rằng tự do thực sự là dễ hiểu và chỉ khả thi trong tương quan với sự thật (x. Ga 8:31-32) và đặc biệt là đức bác ái (1 Cr 13:1-13; Ga 5:13): tự do, là sống thực với chính mình trong con tim người khác.
74. Qua tình huynh đệ và tình đoàn kết, đặc biệt là với những người trẻ nhất, người trẻ khám phá ra rằng sự tự do đích thực nảy sinh từ cảm giác được lắng nghe và phát triển qua việc nhường chỗ cho người khác. Các em có một cảm nghiệm tương tự khi cố gắng trau dồi sự tiết độ hoặc tôn trọng môi trường. Kinh nghiệm về việc công nhận lẫn nhau và cam kết được chia sẻ khiến các em khám phá ra rằng con tim của các em được chiếm ngự bởi một tiếng gọi yêu thương âm thầm đến từ Thiên Chúa. Cho nên, các em dễ dàng hơn để nhận ra chiều kích siêu việt mà tự do mang trong mình ngay từ ban đầu và, khi tiếp xúc với những kinh nghiệm mãnh liệt nhất của cuộc đời, như sự sống và sự chết, tình bạn và tình yêu, lỗi lầm và tha thứ, thì nó thức dậy một cách rõ ràng hơn. Những kinh nghiệm này giúp các em nhận ra rằng bản chất của tự do là đáp trả một cách triệt để.
75. 75. Hơn 50 năm trước, Thánh Phaolô VI đã đưa ra cụm từ “đối thoại về ơn cứu rỗi” và giải thích sứ vụ của Chúa Con trên thế gian như sự diễn tả của một “đòi hỏi yêu thương dữ dội”. Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng chúng ta được “tự do đáp trả hoặc chối từ” (x. Ecclesiam suam, số 77). Trong viễn cảnh này, hành động của đức tin cá nhân xuất hiện dưới dạng tự do và giải phóng: nó sẽ là khởi điểm cho việc chiếm hữu dần dần các nội dung đức tin. Như thế, đức tin không tạo thành một yếu tố được thêm vào sự tự do hầu như từ bên ngoài, nhưng đáp lại ước muốn của lương tâm khao khát Chân Thiện Mỹ bằng cách đón nhận chúng hoàn toàn trong Chúa Giêsu. Chứng từ của nhiều vị tử vì đạo trẻ, trong quá khứ và hiện tại, đã vang lên cách mãnh liệt ở Thượng Hội Đồng, là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy đức tin đem lại sự giải thoát khỏi các thế lực thế gian, các bất công và thậm chí sự chết.
Tự do bị thương tích và được cứu chuộc
76. Tự do của con người bị đánh dấu bằng những thương tích của tội lỗi cá nhân và tham dục. Nhưng khi, nhờ ơn tha thứ và lòng thương xót, con người nhận thức được những chướng ngại giam hãm mình, thì họ lớn lên trong trưởng thành và có thể quyết tâm hơn trong những lựa chọn dứt khoát của cuộc đời. Từ quan điểm giáo dục, điều quan trọng là giúp những người trẻ không nản lòng trước những sai lầm và thất bại, thậm chí là ê chề, bởi vì chúng là một phần của con đường dẫn đến một sự tự do trưởng thành hơn cùng ý thức về sự cao quý và nhược điểm của sự tự do này.
Tuy nhiên, sự dữ không có quyền quyết định cuối cùng: “Vì Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài” (Ga 3:16). Người yêu chúng ta cho đến cùng và vì thế Người đã chuộc lại tự do của chúng ta. Khi chết vì chúng ta trên Thánh Giá, Người đã lan truyền Thần Khí và “ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3: 17): một sự tự do mới, thuộc về mầu nhiệm Vượt Qua, được hoàn thành trong việc tự hiến hàng ngày.
Chương II: Mầu nhiệm của ơn gọi
Việc tìm kiếm ơn gọi- Ơn gọi, cuộc hành trình và khám phá
77. Câu chuyện về ơn gọi của ngôn sứ Samuel (1 Sm 3: 1-21) giúp chúng ta hiểu được các yếu tố cơ bản của việc phân định: lắng nghe và nhận ra sáng kiến của Thiên Chúa, một kinh nghiệm cá nhân, một sự hiểu biết tiệm tiến, một việc đồng hành kiên nhẫn và tôn trọng sự bí nhiệm trong hành động, một mục tiêu cộng đồng. Ơn gọi không áp đặt trên ngôn sứ Samuel như một định mệnh phải chịu; đó là một đề nghị yêu thương, một sứ giả được sai đi trong lịch sử của việc tin tưởng lẫn nhau hàng ngày.
Như với thiếu niên Samuel, với mọi người nam nữ, ơn gọi, mặc dù có những lúc mãnh liệt và đặc quyền, đòi hỏi một cuộc hành trình lâu dài. Lời Chúa cần thời gian để được hiểu và giải thích; sứ vụ mà một người được gọi để thi hành được tỏ lộ từ từ. Những người trẻ được thu hút bởi cuộc phiêu lưu của việc dần dần khám phá ra chính mình. Các em sẵn sàng học hỏi từ các hoạt động mà các em thực hành, từ các cuộc gặp gỡ và các mối liên hệ, bằng cách tự đặt mình vào các cuộc thử thách hàng ngày. Nhưng các em cần được giúp đỡ để kết hợp các kinh nghiệm đa dạng này và đọc chúng theo quan điểm đức tin, để tránh nguy cơ bị phân tán, và nhận ra các dấu chỉ mà Thiên Chúa nói. Trong việc khám phá ra ơn gọi, tất cả đều không rõ ràng ngay, bởi vì “đức tin ‘nhìn thấy’ theo mức độ (một người) đi đến đâu, nơi (người ấy) bước vào vùng trời được mở ra bởi Lời Thiên Chúa” (Phanxicô, Lumen fidei, 9).
78. Qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết thần học về mầu nhiệm ơn gọi đã có những điểm nhấn mạnh khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội và Hội Thánh mà chủ đề này được suy nghĩ. Như vậy, chúng ta phải nhận ra đặc tính loại suy của thuật ngữ “ơn gọi” và nhiều chiều đặc trưng cho thực tại được chỉ định. Điều này có thể dẫn đến việc làm nổi bật một số khía cạnh, trong các quan điểm không phải lúc nào cũng được lưu lại, với cùng một sự cân bằng, sự phức tạp của tổng thể. Để hiểu một cách sâu xa mầu nhiệm ơn gọi có nguồn gốc từ Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi thanh tẩy trí tưởng tượng và ngôn ngữ tôn giáo của mình, bằng cách phục hồi sự phong phú và cân bằng của tường thuật Thánh Kinh. Đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa lựa chọn của Thiên Chúa và tự do của con người phải được suy nghĩ bên ngoài tất cả thuyết định mệnh (determinism )[2] và thuyết ngoại tại (extrinsecism).[3] Ơn gọi không phải là một bản văn đã được viết sẵn mà con người chỉ cần đọc thuộc lòng, cũng chẳng phải là một phút ngẫu hứng trên sân khấu mà không để lại một dấu vết nào. Vì Thiên Chúa gọi chúng ta làm bạn hữu của Người chứ không phải tôi tớ của Người (xem Ga 15:13), nên những lựa chọn của chúng ta góp phần một cách đích thực vào việc triển khai lịch sử của kế hoạch yêu thương của Người. Hơn nữa, công trình cứu rỗi là một mầu nhiệm chúng ta không tài nào hiểu nổi; đó là lý do tại sao chỉ nhờ lắng nghe Chúa mà chúng ta biết mình được mời gọi vào vai trò gì. Được nhận thức trong ánh sáng này, ơn gọi thực sự xuất hiện như một hồng ân của ân sủng và giao ước, như bí mật đẹp nhất và quý giá nhất của sự tự do của chúng ta.
79. Khi khẳng định rằng mọi sự được tạo thành bởi Đức Kitô và theo nhãn quan của Đức Kitô (x. Cl 1, 16), Thánh Kinh mời gọi chúng ta đọc mầu nhiệm ơn gọi như một thực tại đặc trưng cho việc tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng bởi Lời của Ngài là Đấng “dựng nên” các hữu thể và sự sống cùng “phân biệt” trong sự hỗn loạn của phiếm định, bằng cách in trên vũ trụ vẻ đẹp của trật tự cùng sự hài hòa của đa dạng. Nếu Thánh Phaolô VI đã khẳng định rằng “toàn thể cuộc đời là một ơn gọi” (Populorum Progressio, 15), thì Đức Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh rằng con người được tạo dựng như một hữu thể đối thoại: Lời sáng tạo “mời gọi mỗi người theo cách riêng do đó tỏ ra rằng chính cuộc đời là một ơn gọi trong mối liên hệ với Thiên Chúa” (Verbum Domini, 77).
80. Việc nói về đời sống con người về mặt ơn gọi làm nổi bật một số yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển của một người trẻ: điều này loại trừ đời sống được định đoạt bởi số phận hoặc như kết quả của tình cờ, đời sống cũng không như một của cải riêng tư mà người ta có thể tự quản lý. Nếu, trong trường hợp thứ nhất, không có ơn gọi vì không có sự công nhận một cùng đích xứng đáng cho đời sống, thì trong trường hợp thứ hai, một con người được coi là “không có sự liên hệ” hóa ra là “không có ơn gọi”. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là tạo ra các điều kiện để trong tất cả các cộng đồng Kitô hữu, từ ý thức về Bí Tích Rửa Tội của các phần tử của mình, phát triển một nền văn hóa ơn gọi thực sự và một cam kết không ngừng cầu nguyện cho ơn gọi.
Ơn gọi theo Chúa Giêsu- Sự hấp dẫn của Chúa Giêsu
81. Nhiều người trẻ bị thu hút bởi nhân vật Giêsu. Cuộc đời của nhân vật ấy có vẻ tốt lành và đẹp đẽ đối với các em, bởi vì nhân vật ấy nghèo và đơn giản, đã có những tình bạn chân thành và sâu đậm, quảng đại dành cho anh em, không bao giờ đóng cửa lòng với bất cứ ai, nhưng luôn sẵn sàng ban tặng. Cuộc sống của Chúa Giêsu ngày nay vẫn còn vô cùng hấp dẫn và gây hứng khởi; đối với tất cả những người trẻ, đó là một khích động thách thức. Hội Thánh biết điều này là vì Chúa Giêsu có một mối liên hệ sâu xa với mỗi con người bởi “Adam mới, Đức Kitô, trong việc mặc khải mầu nhiệm của Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã tỏ cho con người biết rõ về chính họ và khám phá ra thiên chức rất cao cả của họ” (Gaudium et spes, số 22).
Đức tin, ơn gọi và việc làm môn đệ
82. Thật ra, Chúa Giêsu không những chỉ say mê với đời sống của Người, mà còn mời gọi người ta đến đức tin một cách rõ ràng. Người gặp những người nam nữ, là những người đã nhận ra trong cử chỉ và lời nói của Người cách nói đúng về Thiên Chúa và mối liên hệ với Ngài, bằng cách tiếp cận với đức tin là điều mở ra cho ơn cứu rỗi: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con; hãy đi bình an” (Lc 8:48). Ngoài ra, những người khác đã gặp Người, đã được Người mời gọi trở thành môn đệ và nhân chứng. Với những ai muốn trở thành môn đệ của Người, Người đã không che đậy sự cần thiết phải vác thập giá của mình hằng ngày, và đi theo Người trên con đường sự chết và phục sinh. Đức tin của việc làm nhân chứng tiếp tục sống trong Hội Thánh, một dấu chỉ và công cụ cứu rỗi cho muôn dân. Việc thuộc về cộng đồng của Chúa Giêsu luôn luôn cho người ta nhiều cách để theo Đức Kitô, dưới nhiều hình thức đi theo (sequela) khác nhau. Hầu hết các môn đệ sống đức tin trong các điều kiện thông thường của cuộc sống hàng ngày; trái lại, những người khác, gồm cả một số khuôn mặt nữ giới, đã chia sẻ cuộc sống lang thang và ngôn sứ của vị Tôn Sư (x. Lc 8:1-3); ngay từ đầu, các Tông Đồ đã có một vai trò đặc biệt trong cộng đồng và được Đức Kitô liên kết với chức vụ hướng dẫn và rao giảng của Người.
83. Trong tất cả các nhân vật trong Thánh Kinh làm rõ mầu nhiệm của ơn gọi, Đức Mẹ chiếm một vị trí đặc biệt. Một thiếu nữ qua việc “xin vâng” đã làm cho việc Nhập Thể khả thi bằng cách tạo điều kiện cho bất kỳ ơn gọi Hội Thánh nào khác được phát sinh, Mẹ vẫn là người môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu và là mẫu mực của mọi cách trở thành môn đệ. Trong cuộc hành hương đức tin của mình, Đức Mẹ đã theo Con Mẹ đến chân thập giá và sau khi Phục Sinh, Mẹ đã đồng hành cùng Hội Thánh trẻ trong Lễ Hiện Xuống. Như Người Mẹ và Cô Giáo đầy thương xót, Mẹ tiếp tục đồng hành cùng Hội Thánh và cầu khẩn Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống cho mọi ơn gọi. Như thế, rõ ràng là “nguyên tắc Thánh Mẫu” đóng một vai trò nổi bật và soi sáng toàn bộ đời sống của Hội Thánh trong những biểu hiện khác nhau của nó. Bên cạnh Đức Nữ Trinh, hình bóng của Thánh Giuse, chồng Mẹ, cũng là một mẫu mực gương mẫu về việc đáp trả ơn gọi.
Ơn gọi và các ơn gọi- Ơn gọi và sứ vụ của Hội Thánh
84. Không thể hiểu đầy đủ ý nghĩa của ơn gọi của Bí Tích Rửa Tội, trừ khi coi rằng nó cấu thành một lời mời gọi nên thánh cho tất cả các ơn gọi khác, không trừ ơn gọi nào. Lời mời gọi này nhất thiết ngụ ý là lời mời tham gia vào sứ vụ của Hội Thánh, với mục đích cơ bản là hiệp thông trong Thiên Chúa và giữa mọi người. Thật vậy, các ơn gọi Hội Thánh là nhiều cách diễn tả mà qua đó Hội Thánh nhận ra ơn gọi của mình là một dấu chỉ thực sự của Tin Mừng được đón nhận trong một cộng đồng huynh đệ. Các hình thức khác nhau của việc theo Đức Kitô diễn tả, mỗi hình thức theo một cách riêng, sứ vụ làm chứng về biến cố của Chúa Giêsu, trong đó mỗi người nam nữ đều tìm thấy ơn cứu rỗi.
85. Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô trở lại nhiều lần với chủ đề này, gợi lên hình ảnh của Hội Thánh như một thân thể được tạo thành bởi các chi thể khác nhau và nhấn mạnh rằng mọi chi thể đều cần thiết, đồng thời, luôn luôn được kết nối với toàn thân thể, bởi vì chỉ có sự hợp nhất của tất cả các chi thể mới làm cho thân thể được sống động và hài hòa. Thánh Tông Đồ tìm thấy nguồn gốc của sự hiệp thông này trong chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: “Chắc chắn rằng có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người.” (1 Cor 12: 4-6). Công đồng Vaticanô II và Huấn Quyền tiếp theo đó cung cấp những hướng dẫn có giá trị để phát triển một thần học chính xác về các đặc sủng và các tác vụ trong Hội Thánh, để đón nhận cách biết ơn và phát triển với sự khôn ngoan những món quà ân sủng mà Chúa Thánh Thần tiếp tục làm phát sinh trong Hội Thánh, để trẻ trung hóa Hội Thánh.
86. Đối với nhiều người trẻ, hướng đi nghề nghiệp được sống trong một chân trời ơn gọi. Chẳng lạ gì khi các em từ chối các đề nghị công việc hấp dẫn nhưng không phù hợp với các giá trị Kitô giáo, và chọn con đường đào luyện của các em bằng cách tự hỏi làm thế nào cho tài năng cá nhân của mình sinh hoa quả trong việc phục vụ Nước Thiên Chúa. Đối với nhiều em, công việc là một cơ hội để nhận ra và phát triển những hồng ân nhận được: bằng cách này, các người nam nữ tích cực tham gia vào mầu nhiệm tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
87. Hai cuộc Họp Thượng Hội Đồng Giám Mục gần đây về Gia đình, tiếp theo là Tông huấn Amoris Laetitia, đã đóng góp rất nhiều cho ơn gọi của gia đình trong Hội Thánh và cho sự góp phần không thể thay thế được của các gia đình được mời gọi để làm chứng cho ân sủng của Tin Mừng qua tình yêu hỗ tương, việc sinh sản và giáo dục của con cái. Trong khi đề cập đến sự phong phú của các tài liệu gần đây, chúng tôi nhắc lại tầm quan trọng của việc dùng sứ điệp của chúng để tái khám phá và làm cho những người trẻ hiểu được vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân.
88. Món quà đời sống thánh hiến mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong Hội Thánh, dưới hình thức vừa hoạt động vừa chiêm niệm, có một giá trị tiên tri đặc biệt khi nó tạo thành một chứng từ vui mừng về bản chất cho không của tình yêu. Khi các cộng đoàn dòng tu và các tổ chức mới thực sự sống tình huynh đệ, chúng trở thành các trường hiệp thông, trung tâm cầu nguyện và chiêm niệm, các nơi làm chứng cho cuộc đối thoại liên thế hệ và liên văn hóa và những không gian để Phúc Âm hoá và làm việc bác ái. Sứ vụ của nhiều người đã được thánh hiến, nam cũng như nữ, đang chăm sóc những người bé nhỏ ở ngoại vi của thế giới, tỏ bày một cách cụ thể sự tận tình của một “Hội Thánh đi ra”. Nếu, ở một số vùng nào đó, nó đang phải chịu một tình trạng giảm số lượng và mệt mỏi vì bị lão hóa, đời sống thánh hiến cũng vẫn tiếp tục sinh hoa quả và sáng tạo qua việc đồng trách nhiệm của giáo dân, là những người chia sẻ tinh thần và sứ vụ của các đặc sủng khác nhau. Hội Thánh và thế giới không thể làm gì nếu không có món quà ơn gọi này, đây là một nguồn tài nguyên lớn lao cho thời đại chúng ta.
89. Hội Thánh luôn luôn đặc biệt quan tâm đến thừa tác vụ có chức thánh, ý thức rằng thừa tác vụ này là yếu tố cấu thành căn tính của mình và cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Vì lý do này, Hội Thánh luôn luôn vun trồng một chú tâm cụ thể đến việc đào luyện và đồng hành với các ứng viên của thiên chức linh mục. Mối bận tâm của nhiều Hội Thánh vì sự suy giảm số lượng linh mục đòi hỏi một suy tư mới về ơn gọi cho thừa tác vụ có chức thánh và về một thừa tác vụ mục vụ về các ơn gọi là điều giúp triển khai một sức thu hút thực sự cho con người của Chúa Giêsu và chấp nhận lời Người mời gọi để trở nên những mục tử của đàn chiên của Người. Ơn gọi phó tế vĩnh viễn cũng đòi hỏi sự chú ý lớn lao hơn vì đây là một nguồn lực mà tiềm năng của nó chưa được phát triển.
90. Thượng Hội Đồng đã suy nghĩ về tình trạng của những người sống “độc thân”, ý thức rằng thuật ngữ này có thể đề cập đến nhiều hoàn cảnh sống rất khác nhau. Tình trạng này có thể lệ thuộc vào nhiều lý do, các yếu tố tự nguyện hoặc không tự nguyện, và các yếu tố văn hóa, tôn giáo và xã hội. Do đó, có thể diễn tả hàng loạt những chiều hướng rộng rãi. Hội Thánh nhận ra rằng điều kiện này, được giả định theo luận lý đức tin và hồng ân, có thể trở nên một trong nhiều con đường cho phép ân sủng của Bí Tích Rửa Tội đi đến kết quả và dẫn đến sự thánh thiện mà tất cả chúng ta được mời gọi.
Hội Thánh đồng hành- Đối diện với sự lựa chọn
91. Trong thế giới đương thời, được đặc trưng rõ ràng hơn bao giờ hết bằng chủ nghĩa đa nguyên, và sự sẵn có luôn rất rộng rãi của nhiều chọn lựa, chủ đề về các lựa chọn được đặt ra với một tác dụng cụ thể và ở các cấp độ khác nhau, đặc biệt là đối diện với các lối sống càng ngày càng một chiều và đặc trưng bởi sự tạm bợ. Thực ra, những người trẻ thường bị đu đưa giữa các cách tiếp cận cực kỳ ngây thơ: một số em cho rằng mình bị mắc kẹt trong một số phận đã bị định đoạt trước và không thể nào thay đổi được, trong khi những em khác lại cảm thấy mình bị tràn ngập bởi một lý tưởng tuyệt vời trừu tượng, trong khuôn khổ của một cuộc tranh đua dã man và bạo lực.
Do đó, việc đồng hành với các em để đưa ra các lựa chọn chắc chắn, ổn định và có cơ sở vững chắc là một việc phục vụ rất cần thiết. Hiện diện, để nâng đỡ và đồng hành trong hành trình hướng về những lựa chọn đích thực là cho Hội Thánh một cách thế để thực thi chức năng làm mẹ của mình, đem đến sự tự do của con cái Thiên Chúa. Việc phục vụ này không là gì khác hơn việc kéo dài cách mà Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đã làm với dân Ngài: qua một sự hiện diện liên tục và thân mật, một sự gần gũi tận tụy và yêu thương và một sự dịu dàng vô hạn.
92. Như câu chuyện về các môn đệ trên đường Emmau dạy chúng ta, việc đồng hành đòi hỏi phải sẵn sàng cùng nhau đi một chặng đường dài, và như thế sẵn sàng thiết lập một mối liên hệ có ý nghĩa. Nguồn gốc của thuật ngữ “đồng hành” nói về việc một tấm bánh được bẻ ra và chia cho nhau (cum pane), với tất cả sự phong phú biểu tượng về con người và bí tích của ám chỉ này. Vì thế, cộng đồng, như một tổng thể, là chủ thể đồng hành đầu tiên, bởi vì chính trong cộng đồng mà mạng lưới các mối liên hệ này được phát triển và có thể nâng đỡ một người trong cuộc hành trình của người ấy và cung cấp cho người ấy những điểm quy chiếu và hướng dẫn. Việc đồng hành dọc theo cuộc hành trình phát triển nhân bản và Kitô giáo hướng đến đời sống trưởng thành là một trong những hình thức mà cộng đồng chứng tỏ khả năng canh tân chính mình và đổi mới thế giới.
Bí tích Thánh Thể là cuộc tưởng niệm sống động biến cố Phục Sinh, là nơi đặc quyền để Phúc Âm hoá và truyền thụ đức tin với mục đích truyền giáo. Trong cộng đồng tụ họp lại để cử hành Thánh Lễ, cảm nghiệm được Chúa Giêsu chạm đến, dạy dỗ và chữa lành cách cá nhân qua việc Người đồng hành với mỗi người trong cuộc hành trình trưởng thành cá nhân của họ.
93. Ngoài các phần tử trong gia đình, tất cả những người quan trọng trong các môi trường khác nhau của đời sống người trẻ, chẳng hạn như các nhà giáo, các hướng dẫn viên, huấn luyện viên và các nhân vật liên hệ khác, bao gồm cả các chuyên gia, đều được mời gọi đóng một vai trò trong việc đồng hành. Theo yêu cầu của những người trẻ có mặt trong Thượng Hội Đồng, thay mặt cho nhiều người trẻ khác, thì mặc dù không độc quyền về việc đồng hành, các linh mục và tu sĩ nam nữ có một nhiệm vụ cụ thể bắt nguồn từ ơn gọi của các ngài và là điều các ngài phải tái khám phá. Kinh nghiệm của một số Hội Thánh đánh giá cao vai trò của giáo lý viên như những người đồng hành của các cộng đồng Kitô hữu và các phần tử của các cộng đồng ấy.
Hỗ trợ việc hội nhập vào xã hội
94. Việc đồng hành không thể chỉ giới hạn trong con đường lớn lên và thực hành tâm linh của đời sống Kitô hữu. Việc đồng hành dọc theo con đường từ từ đảm nhận trách nhiệm trong xã hội cũng có kết quả tương tự, chẳng hạn như trong môi trường nghề nghiệp hoặc trong việc tham gia chính trị – xã hội. Theo nghĩa này, Thượng Hội Đồng đề nghị quảng bá học thuyết xã hội của Hội Thánh. Nhất là trong các xã hội và các cộng đồng Hội Thánh đa văn hóa và đa tôn giáo, việc đồng hành cụ thể để sống tốt sự đa dạng là điều cần thiết, ngõ hầu chứng minh giá trị của nó trong việc phong phú hoá xã hội và khả năng hiệp thông huynh đệ, chống lại cám dỗ kép của việc không dám tỏ lộ căn tính của mình và thuyết tương đối.
Đồng hành cộng đồng, theo nhóm và cá nhân- Một căng thẳng hiệu quả
95. Có một sự bổ sung cấu thành giữa việc đồng hành cá nhân và việc đồng hành trong cộng đồng, mà mọi linh đạo hay sự nhạy cảm về Hội Thánh được gọi kết hợp theo cách nguyên thủy. Nhất là, ở một số thời điểm đặc biệt tế nhị,thí dụ như, trong giai đoạn phân biệt các lựa chọn cơ bản hoặc trong lúc vượt qua các thời điểm quan trọng, việc đồng hành cá nhân sẽ xem ra đặc biệt hiệu quả. Trong mọi trường hợp, nó cũng vẫn quan trọng trong cuộc sống hàng ngày, như một cách đào sâu mối liên hệ với Chúa.
Chúng ta cũng phải nhấn mạnh đến sự cấp bách của việc đồng hành cách cá nhân với các chủng sinh và các linh mục trẻ, các tu sĩ đang được huấn luyện, cũng như các cặp vợ chồng trẻ trong việc chuẩn bị kết hôn của họ và trong những ngày đầu sau khi cử hành bí tích này, được gợi hứng bởi tiến trình giáo lý dự tòng.
Việc đồng hành cộng đồng và theo nhóm
96. Chúa Giêsu đã đồng hành với nhóm môn đệ của Người bằng cách chia sẻ với họ cuộc sống hàng ngày. Kinh nghiệm cộng đồng làm nổi bật những phẩm chất và những giới hạn của mỗi người và giúp dẫn họ đến việc khiêm tốn nhận ra rằng, nếu không chia sẻ những món quà đã nhận được vì lợi ích của tất cả mọi người, thì không thể theo Chúa được.
Kinh nghiệm này tiếp tục trong thực hành của Hội Thánh, khi thấy những người trẻ được đưa vào các nhóm, các phong trào và các hiệp hội thuộc nhiều loại khác nhau, ở đó các em kinh nghiệm một môi trường đầm ấm và chào đón cùng các liên hệ nhiệt tình mà các em hằng mơ ước Việc đưa vào thực tế như vậy là một điều đặc biệt quan trọng, một khi con đường khai tâm Kitô giáo đã hoàn thành, vì nó mang đến cho những người trẻ một mảnh đất màu mỡ để tiếp tục làm cho ơn gọi Kitô giáo của các em được trưởng thành. Trong những môi trường này, sự hiện diện của các mục tử phải được khuyến khích để đảm bảo một sự đồng hành thích hợp.
Trong các nhóm, các nhà giáo và người hướng dẫn đại diện cho một điểm tham chiếu về mặt đồng hành, trong khi các mối liên hệ thân hữu được phát triển giữa các em tạo thành nền tảng cho sự đồng hành giữa những người cùng trang lứa.
97. Đồng hành tâm linh là một tiến trình giúp con người dần dần hòa nhập các chiều kích khác nhau của cuộc đời để theo Chúa Giêsu. Tiến trình này có ba khía cạnh: lắng nghe cuộc sống, gặp gỡ Chúa Giêsu và cuộc đối thoại thần bí giữa sự tự do của Thiên Chúa và của con người. Người bạn đồng hành chào đón với lòng kiên nhẫn, đặt ra những câu hỏi thực sự và nhận ra các dấu chỉ của Chúa Thánh Thần trong câu trả lời của những người trẻ.
Trong việc đồng hành tâm linh cá nhân, chúng ta học cách nhận ra, giải thích và lựa chọn dưới ánh sáng đức tin và lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần gợi ý trong cuộc sống hàng ngày (x. Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 169-173). Sự lôi cuốn của việc đồng hành thiêng liêng, ngay cả trong truyền thống, không nhất thiết liên quan đến thừa tác vụ có chức thánh. Chưa bao giờ cần hơn lúc này những vị linh hướng, những người cha và người mẹ, với kinh nghiệm sâu xa về đức tin và nhân bản và không những chỉ được đào tạo về trí năng mà thôi. Thượng Hội Đồng hy vọng rằng sẽ có một sự tái khám phá, cũng trong môi trường này, nguồn tài nguyên lớn lao của thế hệ những người được thánh hiến, đặc biệt là phái nữ, và giáo dân, những người lớn và người trẻ, được chuẩn bị tốt.
Việc đồng hành và Bí Tích Hòa Giải
98. Bí tích Hòa giải đóng một vai trò không thể thiếu được trong việc thăng tiến đời sống đức tin, là đời sống được đặc trưng không chỉ bởi giới hạn và sự mong manh, mà còn bởi tội lỗi. Thừa tác vụ hòa giải và việc đồng hành tâm linh phải được phân biệt một cách thích hợp vì mục đích và hình thức của chúng khác nhau. Một sự tiệm tiến lành mạnh và khôn ngoan của các hành trình sám hối, trong đó có rất nhiều khuôn mặt giáo dục tham gia, giúp các bạn trẻ đọc được đời sống luân lý của mình, làm cho ý thức đúng đắn về tội lỗi được trưởng thành và đặc biệt là mở ra cho các em niềm vui giải thoát của lòng thương xót, là mục vụ đúng lúc.
99. Hơn nữa, Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải cổ võ một việc đồng hành trọn vẹn, trong đó các khía cạnh tâm linh được hoà hợp tốt với các khía cạnh khác nhau về nhân bản và xã hội. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích, “sự phân biệt tâm linh không loại trừ những đóng góp của các hiểu biết về con người, về sự hiện hữu, tâm lý, xã hội học hay luân lý. Nhưng nó siêu vượt chúng” (Gaudete et exsultate, số 170). Đây là những yếu tố để nắm bắt một cách năng động và tôn trọng các nền văn hóa và tâm linh khác nhau, không có sự loại trừ hay mập mờ.
Việc đồng hành tâm lý hoặc tâm lý trị liệu, nếu mở ra cho sự siêu việt, có thể làm nền tảng cho con đường hoà hợp của nhân cách, bằng cách làm cho một số khía cạnh của nhân cách đã bị đóng kín hoặc bị ngăn chặn có thể dễ dàng tiếp cận với sự tăng trưởng của ơn gọi. Những người trẻ sống tất cả sự phong phú và mỏng dòn để trở thành một “nơi mở ra”. Đồng hành tâm lý không những có thể giúp các em kiên nhẫn đọc lại câu chuyện cá nhân của các em, mà còn mở ra cho các em những câu hỏi để giúp các em đạt được một sự cân bằng tình cảm ổn định hơn.
Đồng hành trong việc đào luyện thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến
100. Khi đón tiếp những người trẻ đến các nơi đào tạo hoặc hội thảo, điều quan trọng là kiểm tra đầy đủ gốc gác của các em trong một cộng đồng, sự ổn định của các em trong những liên hệ bằng hữu, nỗ lực của các em trong việc học hành hoặc công việc, sự liên hệ của các em với những người nghèo và đau khổ. Trong việc đồng hành tâm linh, dẫn nhập vào cầu nguyện và vào các việc làm trong nhà[4] là điều quyết định, để học cách phân định trước hết và quan trọng nhất trong đời sống của chính mình, đặc biệt là qua các hình thức từ bỏ mình và khổ chế. Sống độc thân cho Nước Trời (x. Mt 19:12) phải được hiểu như một hồng ân để nhận biết và xác minh, trong tự do, niềm vui, biết ơn và khiêm nhường, trước khi được nhận vào dòng tu hoặc tuyên khấn lần đầu. Sự đóng góp của tâm lý học phải được hình thành như một sự trợ giúp cho việc trưởng thành về tình cảm và sự hòa nhập của nhân cách, và được đưa vào hành trình đào tạo theo đạo đức nghề nghiệp và tôn trọng sự tự do tình cảm của người được đào luyện. Khuôn mặt của vị bề trên hoặc người chịu trách nhiệm đào tạo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để thống nhất lộ trình đào tạo, để đạt được sự phân định thực tế, qua việc tham khảo ý kiến của tất cả những người liên quan đến việc đào tạo, và trong một số trường hợp, để quyết định việc có thể phải ngưng đào tạo, bằng cách chuyển sang một con đường ơn gọi khác.
Một khi giai đoạn đào luyện ban đầu đã hoàn thành, cần phải đảm bảo sự đào tạo và đồng hành liên tục của các linh mục và những người đã được thánh hiến, nam và nữ, đặc biệt là những người trẻ nhất. Họ thường phải đối diện với những thách đố và trách nhiệm không cân xứng. Nhiệm vụ đồng hành cùng họ không những chỉ thuộc về một số người được uỷ quyền nhất định, mà còn phải được các Giám Mục và bề trên thực hiện.
Việc đồng hành có chất lượng- Được gọi để đồng hành
101. Bằng nhiều cách, những người trẻ yêu cầu chúng tôi nhấn mạnh đến phẩm chất của những người bạn đồng hành. Tác vụ đồng hành là một sứ vụ đích thực, nhằm thu hút sự sẵn sàng làm việc tông đồ của người chu toàn nó. Như phó tế Philipphê, người bạn đồng hành được dẫn đến vâng theo tiếng gọi của Chúa Thánh Thần, đi ra ngoài và từ bỏ việc giam mình giữa các bức tường của thành Giêrusalem, biểu tượng cho cộng đồng Kitô hữu, để đến một nơi hoang vắng và thù nghịch, thậm chí có thể nguy hiểm, nơi người ta phải khó khăn lắm mới đến được với một chiếc xe ngựa. Sau khi nhập cuộc, ngài phải tìm cách bắt đầu mối liên hệ với người du khách ngoại quốc, để đưa ra một câu hỏi không mấy dễ dàng hình thành một cách tự nhiên (x. Cv 8:26-40). Tóm lại, để đồng hành đòi hỏi phải đặt mình dưới quyền xử dụng của Thần Khí của Chúa và của người được đồng hành, cống hiến tất cả mọi chất lượng và khả năng của mình, và có can đảm khiêm nhường từ bỏ mình.
Chân dung của người bạn đồng hành
102. Người bạn đồng hành tốt là một người cân bằng, có thể lắng nghe, được chống đỡ bởi đức tin và cầu nguyện, và là người đã phải đối diện với những yếu đuối và mỏng giòn của chính mình. Đó là lý do tại sao người ấy biết cách chào đón những người trẻ mà mình đồng hành với, mà không lên mặt đạo đức hoặc nuông chiều cách sai lầm. Khi cần thiết, người ấy cũng có thể đưa ra những lời sửa lỗi huynh đệ.
Ý thức rằng việc đồng hành là một sứ vụ đòi hỏi phải bén rễ sâu trong đời sống tâm linh sẽ giúp duy trì sự tự do trong tương quan với những người trẻ mà người ấy đồng hành: người ấy sẽ tôn trọng kết quả của tiến trình của các em, qua việc nâng đỡ các em bằng cầu nguyện và thưởng thức những hoa quả mà Chúa Thánh Thần tạo ra nơi những em mở lòng ra với mình, mà không tìm cách áp đặt ý muốn hay sở thích của mình trên các em. Người ấy cũng sẽ có thể phục vụ những người khác, thay vì đứng ở giữa sân khấu và áp dụng những thái độ chiếm hữu cùng thao túng, là những thái độ tạo ra sự lệ thuộc và cản trở sự tự do của người ta. Sự tôn trọng sâu xa này cũng là cách đảm bảo tốt nhất chống lại nguy cơ đạo văn và lạm dụng dưới bất cứ hình thức nào.
Tầm quan trọng của việc đào tạo
103. Để có thể chu toàn tác vụ của mình, người đồng hành sẽ cần phải nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình, nuôi dưỡng mối liên hệ của mình với Đấng đã trao cho mình sứ vụ này. Đồng thời, người ấy sẽ cần phải cảm thấy được sự nâng đỡ của cộng đồng Hội Thánh mà người ấy là một phần tử. Việc người ấy được huấn luyện đặc biệt cho tác vụ đặc thù này và được hưởng việc đồng hành của cấp trên sẽ là điều rất quan trọng.
Cuối cùng, phải nhớ rằng những đặc điểm đặc trưng của việc trở thành một Hội Thánh, và rằng những người trẻ nhấn mạnh cách tích cực, là sự sẵn có và khả năng làm việc theo nhóm: bằng cách này, chúng ta có ý nghĩa, hiệu quả và khôn ngoan hơn trong việc đào tạo những người trẻ. Khả năng này trong công việc cộng đồng đòi hỏi rằng một số đức tính cụ thể về những quan hệ phải được chín mùi: kỷ luật lắng nghe và khả năng nhường chỗ cho người khác, sẵn sàng tha thứ và sẵn sàng tham gia theo linh đạo hiệp thông thực sự.
Chương IV: Nghệ thuật phân định
Hội Thánh, môi trường của sự phân định- Một chòm sao quan trọng trong sự đa dạng của các truyền thống tâm linh
104. Việc đồng hành trong ơn gọi là một khía cạnh cơ bản của một tiến trình phân định bởi người được mời gọi lựa chọn. Thuật ngữ “phân định” được sử dụng theo nhiều nghĩa, mặc dù có liên quan đến nhau. Theo một nghĩa tổng quát hơn, sự phân định ám chỉ tiến trình dẫn đến việc đưa ra các quyết định quan trọng; theo nghĩa thứ hai, cụ thể hơn với truyền thống Kitô giáo và chúng ta sẽ bàn đến nó một cách đặc biệt hơn, nó tương ứng với động năng tâm linh nhờ đó một người, một nhóm hoặc một cộng đồng tìm cách nhận ra và chấp nhận Thánh Ý Thiên Chúa một cách cụ thể trong hoàn cảnh của họ: “Hãy xem xét mọi sự: điều gì tốt thì giữ lại” (1 Ts 5: 21). Như một sự sẵn có để nhận ra tiếng nói của Chúa Thánh Thần và đón chào lời mời gọi của Ngài, sự phân định là một chiều kích thiết yếu trong kiểu sống của Chúa Giêsu, một thái độ cơ bản hơn nhiều so với một hành động chính xác.
Xuyên qua suốt lịch sử của Hội Thánh, nhiều linh đạo khác nhau đã chạm trán với chủ đề phân định, với các nhấn mạnh khác nhau, đặc biệt là theo sự đa dạng của những nhạy cảm với các đặc sủng và những thời đại lịch sử. Trong Thượng Hội Đồng, chúng tôi đã nhận ra một số yếu tố chung, là những yếu tố không loại bỏ sự đa dạng của các ngôn ngữ: sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống và lịch sử của mỗi người; khả năng nhận ra hành động của Ngài; vai trò của cầu nguyện, đời sống bí tích và khổ hạnh; việc đối diện vĩnh viễn với những đòi hỏi của Lời Chúa; sự tự do liên quan đến những điều chắc chắn đã nhận được; việc xác minh liên tục với cuộc sống hàng ngày; tầm quan trọng của một cuộc đồng hành đầy đủ.
Tham chiếu liên tục Lời Chúa và Hội Thánh
105. Như “một thái độ nội tâm bắt nguồn từ một hành vi đức tin” (Phanxicô, Diễn từ trước Buổi Họp Khoáng Đại thứ nhất của Đại Hội Thông Thường thứ XV của Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 3 tháng 10 năm 2018), sự phân định đề cập cách hiến pháp đến Hội Thánh, mà sứ vụ là làm cho mọi người nam nữ gặp gỡ Chúa, Đấng đang hoạt động trong cuộc đời và trong con tim của họ.
Bối cảnh của cộng đồng Hội Thánh thuận lợi cho một bầu khí tin cậy và tự do trong việc tìm kiếm ơn gọi của một người trong một môi trường hồi tâm và cầu nguyện; nó mang đến những cơ hội cụ thể để đọc lại lịch sử của chính mình và khám phá ra những hồng ân và những yếu điểm của một người dưới ánh sáng của Lời Chúa; nó cho phép một người đối đầu với các chứng từ là hiện thân của những lựa chọn khác nhau của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ với những người nghèo cũng mời gọi một người đào sâu những gì thiết yếu trong cuộc đời, trong khi các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải, nuôi dưỡng và nâng đỡ những người tìm ra Thánh Ý của Thiên Chúa.
Chân trời cộng đồng luôn liên hệ đến bất cứ sự phân định nào, là điều không bao giờ có thể được chỉ thu hẹp vào chiều kích cá nhân. Đồng thời, bất cứ sự phân định cá nhân nào cũng thách đố cộng đồng, bằng cách khuyến khích nó lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần gợi ra cho nó qua kinh nghiệm tâm linh của các phần tử của nó: giống như tất cả các tín hữu, Hội Thánh luôn luôn ở trong tình trạng phân định.
Lương tâm trong việc phân định- Thiên Chúa nói với con tim
106. Việc phân định lôi kéo sự chú ý đến những gì đang xảy ra trong tâm hồn của mỗi người nam nữ. Trong các văn bản Thánh Kinh, thuật ngữ “con tim” được sử dụng để ám chỉ trung tâm của nội tâm con người, trong đó việc lắng nghe Lời mà Thiên Chúa nói với người ấy liên tục trở thành tiêu chuẩn đánh giá cuộc sống và lựa chọn của người ấy (x. Tv 139). Thánh Kinh kể đến chiều kích cá nhân, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh đến chiều kích cộng đồng. Ngay cả “quả tim mới” được các ngôn sứ hứa hẹn không phải là một món quà riêng tư, nhưng liên quan đến tất cả dân Israel, với truyền thống và lịch sử cứu độ của nó, mà trong đó tín hữu được đưa vào (x. Ed 36: 26-27). Các Tin Mừng tiếp tục trong chiều hướng này: Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nội tâm và đặt con tim vào trung tâm của đời sống luân lý (xem Mt 15:18-20).
Ý tưởng Kitô giáo về lương tâm
107. Thánh Tông Đồ Phaolô đã phong phú hoá điều mà truyền thống Thánh Kinh đã đề ra về con tim, bằng cách liên hệ nó với thuật ngữ “lương tâm”, là điều mà ngài lại lấy từ nền văn hóa của thời đại ngài. Chính trong lương tâm mà chúng ta nắm được hoa quả của cuộc gặp gỡ và hiệp thông với Đức Kitô: một sự biến đổi cứu rỗi và đón nhận một tự do mới. Truyền thống Kitô giáo nhấn mạnh rằng lương tâm là nơi đặc quyền của sự mật thiết đặc biệt với Thiên Chúa và gặp gỡ Ngài, nơi có tiếng nói của Ngài: Lương tâm là trung tâm bí ẩn nhất và là cung thánh của con người, nơi con người ở một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ” (Gaudium et spes, số 16). Ý thức này không trùng hợp với cảm giác tức thì và hời hợt, cũng không phải là “sự tự nhận thức”: nó chứng thực một sự hiện diện siêu việt mà mọi người tìm thấy trong nội tâm của mình, nhưng không sở hữu nó.
108. Đào luyên lương tâm là cuộc hành trình của toàn thể cuộc đời, nơi người ta học cách nuôi dưỡng cùng những cảm tình như Chúa Giêsu Kitô, qua việc áp dụng các tiêu chuẩn về các lựa chọn của mình và các chủ ý của các hành động của mình (x. Pl 2: 5). Để đạt đến chiều kích sâu thẳm nhất của lương tâm, theo quan điểm Kitô giáo, điều quan trọng là phải hết sức chú ý đến nội tâm, là điều, trên hết, liên hệ đến thời gian im lặng, chiêm niệm cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa, với sự nâng đỡ của việc thực hành Bí Tích và các giáo huấn của Hội Thánh. Ngoài ra, người ta cần thực hành thói quen tốt, được kiểm chứng trong việc xét mình: một thực tập mà trong đó không chỉ là vấn đề xác định tội lỗi của mình mà còn nhận ra công việc của Thiên Chúa trong kinh nghiệm hàng ngày của chính mình, trong các biến cố lịch sử và các nền văn hóa nơi mình sống, trong chứng từ của rất nhiều người nam nữ đã đi trước chúng ta hoặc những người đi cùng chúng ta với sự khôn ngoan của họ. Tất cả điều này giúp phát triển trong đức minh trí (thận trọng), bằng cách nói lên rõ ràng chiều hướng toàn cầu của cuộc đời với những lựa chọn cụ thể, với một sự sáng suốt thanh thản về những hồng ân và giới hạn của mình. Chàng thanh niên Solomon đã xin hồng ân này hơn bất cứ điều gì khác (x. 1 V 3:9).
109. Lương tâm của mọi tín hữu trong chiều kích cá nhân nhất của nó luôn luôn gắn liền với lương tâm của Hội Thánh. Chỉ qua sự trung gian của Hội Thánh và truyền thống đức tin của Hội Thánh mà chúng ta có thể đến gần Dung Nhan đích thực của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, sự phân định tâm linh được tự trình bày như công việc chân thành của lương tâm, trong quyết tâm của nó để biết điều tốt có thể thực hiện được, từ đó có thể đưa ra quyết định có trách nhiệm, qua việc đem ra thi hành theo lý do thực tiễn, và để cho mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu soi sáng mình.
Việc thực hành sự phân định- Làm quen với Chúa
110. Như một cuộc gặp gỡ với Chúa hiện diện trong sự mật thiết của con tim, sự phân định có thể được hiểu như một hình thức cầu nguyện đích thực. Đó là lý do tại sao nó đòi hỏi những thời gian hồi tâm thích hợp, cả trong sự đều đặn của cuộc sống hàng ngày và trong những lúc đặc quyền, chẳng hạn như các buổi tĩnh tâm, linh thao, hành hương, vv. Sự phân định nghiêm chỉnh được nuôi dưỡng bằng tất cả các dịp gặp gỡ Chúa và đào sâu sự quen thuộc với Người trong các thực tại khác nhau mà Người hiện diện: các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải, việc lắng nghe Người và suy niệm Lời Chúa, Lectio divina trong cộng đồng, kinh nghiệm huynh đệ của đời sống cộng đồng, việc gặp gỡ những người nghèo là những người mà Chúa Giêsu tự đồng hoá với.
111. Tự mở lòng ra để lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần đòi hỏi những chuẩn bị nội tâm cụ thể: trước hết là sự chú ý của con tim, được ưu đãi bởi sự im lặng và khả năng trút bỏ mình, là điều cần khổ hạnh. Cũng cơ bản không kém là sự sáng suốt, chấp nhận chính mình và ăn năn hối cải, hợp với việc tự nguyện xắp đặt cuộc đời mình cho có trật tự, từ bỏ những gì bị coi là trở ngại, hầu phục hồi sự tự do nội tâm cần thiết để thực hiện chỉ những lựa chọn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Một phân định tốt cũng đòi hỏi phải chú ý đến những chuyển động của con tim, càng ngày càng trở nên có khả năng nhận ra chúng và đặt tên cho chúng. Cuối cùng, sự phân định đòi hỏi lòng can đảm để dấn thân vào cuộc chiến tâm linh, bởi vì sẽ không thiếu việc nổi lên những cám dỗ và chướng ngại được Thần Dữ đặt trên con đường của chúng ta.
112. Các truyền thống tâm linh khác nhau đều đồng ý rằng một phân định tốt cần một sự đối diện thường xuyên với một hướng dẫn tâm linh. Việc tỏ bày cách chân thật và cá nhân kinh nghiệm của mình giúp làm cho nó thêm sáng tỏ. Đồng thời, người bạn đồng hành đảm nhận một chức năng thiết yếu là đối diện cách khách quan, qua việc trở nên người trung gian cho sự hiện diện từ mẫu của Hội Thánh. Đây là một chức năng tế nhị, đã được bàn đến ở chương trước.
113. Sự phân định như một chiều kích trong cách sống của Chúa Giêsu và các môn đệ của Người cho phép các tiến trình cụ thể phát xuất từ tính bất định, để chịu trách nhiệm về các quyết định. Các tiến trình phân định không thể kéo dài vô thời hạn, cả trong trường hợp những con đường cá nhân cùng những con đường cộng đồng và tổ chức. Quyết định được theo sau bởi một giai đoạn cũng hoàn toàn cơ bản của việc thực thi và xác minh trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, sẽ rất cần thiết để tiếp tục với một giai đoạn chăm chú lắng nghe những rung cảm nội tâm, để biết rõ tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Việc đối diện với các thực tế cụ thể có tầm quan trọng đặc biệt theo quan điểm này. Đặc biệt là các truyền thống tâm linh khác nhau cho thấy giá trị của đời sống huynh đệ và phục vụ người nghèo như thời gian để thử nghiệm các quyết định được đưa ra và là nơi mà một người được biểu lộ trọn vẹn.
PHẦN III: “NGAY LÚC ẤY, HỌ RA ĐI”
114. “Họ mới bảo nhau: ‘Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’ Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: ‘Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.’ Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24: 32-35).
Từ việc lắng nghe Lời Chúa, chúng ta đi qua niềm vui của một cuộc gặp gỡ, là điều lấp đầy con tim, mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và hít thở một năng lượng mới. Các khuôn mặt được chiếu sáng và cuộc hành trình tìm lại được ý nghĩa: đó là ánh sáng và sức mạnh của việc đáp trả ơn gọi, cũng biến thành sứ vụ cho cộng đồng và toàn thế giới. Không chút chậm trễ và không sợ hãi, các môn đệ đi trở lại bước đường để tái hợp cùng anh em và làm chứng về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Giêsu Phục Sinh.
Một Hội Thánh trẻ trung- Một biểu tượng cho việc phục sinh
115. Tiếp tục với niềm hứng khởi Phục Sinh của câu chuyện Emmau, hình ảnh của cô Maria Mađalena (x. Ga 20: 1-18) soi sáng con đường mà Hội Thánh muốn đi qua với những người trẻ và cho những người trẻ như thành quả của Thượng Hội Đồng này: một con đường phục sinh dẫn đến việc công bố và sứ vụ. Bị chiếm ngự bởi một ao ước sâu xa về Chúa, bất chấp bóng tối của màn đêm, Maria Mađalêna chạy đến cùng Thánh Phêrô và người môn đệ khác; chuyển động của cô tác động trên các ông, lòng mộ đạo phụ nữ của cô nhìn thấy trước con đường của các tông đồ và mở đường cho các ông. Từ tảng sáng hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, đã xảy ra một sự bất ngờ của cuộc gặp gỡ: Maria đã tìm kiếm vì cô đã yêu, nhưng cô tìm thấy vì cô được yêu. Đấng Phục Sinh để cho cô biết đến Mình bằng cách gọi tên cô và yêu cầu cô đừng giữ Người lại, vì Thân Xác Phục Sinh của Người không phải là một kho báu để bị giữ lại, nhưng là một Mầu Nhiệm để chia sẻ. Vì vậy, cô đã trở thành môn đệ truyền giáo đầu tiên, Tông Đồ của các Tông Đồ. Được chữa lành các thương tích của cô (x. Lc 8:2) và là chứng nhân của sự phục sinh, cô là hình ảnh của Hội Thánh trẻ trung mà chúng ta mơ ước.
Hành trình với những người trẻ
116. Say mê tìm kiếm sự thật, ngạc nhiên trước vẻ đẹp của Chúa, khả năng chia sẻ và niềm vui của lời công bố cũng có mặt ngày hôm nay trong trái tim của nhiều người trẻ, những chi thể sống động của Hội Thánh. Vì thế, vấn đề không phải chỉ là làm cái gì “cho các em”, mà là sống trong sự hiệp thông “với các em”, cùng nhau tiến bộ trong sự hiểu biết về Tin Mừng và trong việc tìm kiếm những hình thức chân thực nhất để sống và để làm chứng. Việc tham gia có trách nhiệm của những người trẻ vào đời sống Hội Thánh không phải là một lựa chọn, nhưng là một đòi hỏi của cuộc sống của những người đã được rửa tội, cũng như một yếu tố không thể thiếu được với cuộc sống của bất cứ cộng đồng nào. Những khó khăn và yếu đuối của những người trẻ giúp chúng ta trở nên tốt hơn, những câu hỏi của các em thách thức chúng ta, những nghi ngờ của các em chất vấn chúng ta về phẩm chất của đức tin của mình. Những lời phê bình của các em cũng cần thiết bởi vì, thông thường, qua những lời ấy, chúng ta lắng nghe tiếng nói của Chúa, là Đấng đòi buộc chúng ta phải hoán cải tâm hồn và canh tân các cơ cấu của mình.
Mong muốn tiếp cận tất cả những người trẻ
117. Ở Thượng Hội Đồng, chúng tôi băn khoăn về những người trẻ, khi nhớ đến không chỉ những người trẻ là phần tử của Hội Thánh và hoạt động trong đó, mà còn tất cả những người trẻ có những quan niệm khác về cuộc đời, tuyên xưng một đức tin khác, hoặc tuyên bố mình là những kẻ xa lạ với chân trời tôn giáo. Tất cả những người trẻ, không trừ ai, đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, và do đó, trong trái tim của Hội Thánh. Nhưng chúng tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng lời khẳng định này vang vọng trên môi chúng tôi không phải lúc nào cũng được diễn tả thực sự trong hành động mục vụ của chúng tôi: thường thì chúng tôi vẫn bị giam hãm trong những vòng luẩn quẩn của mình, nơi mà tiếng nói của các em không đến được, hoặc chúng tôi dấn thân vào những hoạt động không mấy đòi hỏi nhưng làm hài lòng chúng tôi hơn, vì thế bóp nghẹt quan tâm mục vụ lành mạnh này là điều khiến chúng tôi phải bước ra ngoài những gì chúng tôi cho là an toàn. Tuy nhiên, Tin Mừng đòi buộc chúng tôi phải táo bạo và muốn làm điều đó mà không cần phải suy đoán, không chủ trương dụ dỗ các em theo đạo, nhưng bằng cách làm chứng về tình yêu của Chúa và tiếp cận tất cả những người trẻ trên thế giới.
Hoán cải tâm linh, mục vụ và truyền giáo
118. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc nhở chúng ta rằng điều này không thể thực hiện được nếu không có con đường hoán cải chân chính. Chúng tôi ý thức rằng đó không chỉ là vấn đề tạo ra các hoạt động mới, và chúng tôi không muốn viết vể “những kế hoạch tông đồ theo chủ nghĩa bành trướng, được thiết kế tỉ mỉ và cẩn thận, điển hình cho những tướng lãnh bại trận” (Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 96 ). Chúng tôi biết rằng để trở nên đáng tin cậy, chúng tôi phải sống một cuộc cải cách của Hội Thánh, bao gồm việc thanh tẩy tâm hồn và thay đổi phong cách. Hội Thánh phải thực sự để cho mình được hình thành bởi Bí tích Thánh Thể, mà Hội Thánh cử hành như tột đỉnh và nguồn sống của mình: hình dạng của một chiếc bánh được tạo thành từ nhiều dé lúa và bị bẻ ra cho sự sống của thế gian. Thành quả của Thượng Hội Đồng này, sự lựa chọn mà Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho chúng tôi qua việc lắng nghe và định phân, là cùng đi với người trẻ, đến với tất cả các em, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta có thể mô tả tiến trình này bằng cách nói về tính hội đồng của sứ vụ hay truyền giáo kiểu theo kiểu hội đồng: “Việc thực hiện một Hội Thánh kiểu hội đồng là một giả định không thể thiếu được đối với một động lực truyền giáo mới liên quan đến toàn thể Dân Thiên Chúa”.[5] Đây là lời tiên tri của Công đồng Vaticanô II, mà chúng ta chưa bao giờ thừa nhận theo chiều sâu của nó và khai triển theo ý nghĩa hàng ngày của nó, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã kéo sự chú ý của chúng ta vào đó bằng cách khẳng định: “Con đường Thượng Hội Đồng là cách mà Thiên Chúa mong đợi từ Hội Thánh của thiên niên kỷ thứ ba” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Chúng tôi tin rằng lựa chọn này, kết quả của cầu nguyện và chạm trán, sẽ cho phép Hội Thánh, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được và tỏ hiện rõ ràng hơn như “tuổi trẻ của thế giới”.
Chương I: Tính truyền giáo kiểu hội đồng của Hội Thánh
Một động năng có tính cấu thành- Người trẻ mời chúng ta cùng đi
119. Toàn thể Hội Thánh, khi chọn chăm sóc những người trẻ trong Thượng Hội Đồng này, đã đưa ra một lựa chọn rất cụ thể: coi sứ vụ này như một ưu tiên mục vụ của thời đại, mà chúng ta phải đầu tư thời gian, sức lực và tài nguyên vào. Ngay khi bắt đầu cuộc hành trình chuẩn bị, các bạn trẻ đã bày tỏ mong ước được tham gia, đánh giá cao và cảm thấy là những đồng nghệ nhân của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Trong Thượng Hội Đồng này, chúng tôi đã cảm nghiệm rằng việc đồng trách nhiệm với các Kitô hữu trẻ cũng là một nguồn vui sâu xa cho các Giám Mục. Trong kinh nghiệm này, chúng tôi nhận ra một hoa trái của Chúa Thánh Thần là điều liên tục canh tân Hội Thánh và kêu gọi Hội Thánh thực hành phương pháp hội đồng như một cách sống và hành động, khuyến khích sự tham gia của tất cả những người đã được rửa tội và những người có thiện chí, mỗi người theo lứa tuổi, hoàn cảnh sống và ơn gọi của mình. Trong Thượng Hội Đồng này, chúng tôi đã nhận ra rằng tinh thần Giám Mục Đoàn là điều liên kết các Giám Mục cùng với Phêrô và dưới Phêrô (cum Petro et sub Petro), trong sự lo lắng cho Dân Thiên Chúa được kêu gọi để nói rõ về việc thực hành phương pháp hội đồng ở tất cả các cấp và phong phú hoá nó .
Tiến trình của Thượng Hội Đồng tiếp tục
120. Sự kết thúc của việc gom góp và tài liệu này, là điều gặt hái các thành quả của nó, không kết thúc tiến trình của Thượng Hội Đồng, nhưng chúng tạo thành một bước. Vì những điều kiện cụ thể, những khả năng thực sự và những nhu cầu cấp bách của người trẻ rất khác nhau giữa các quốc gia và lục địa, mặc dù cùng chia sẻ một đức tin, chúng tôi mời gọi các Hội Đồng Giám Mục và các Hội Thánh địa phương tiếp tục cuộc hành trình này, bằng cách tham gia vào các tiến trình phân định cộng đồng bao gồm cả những người không phải là Giám Mục trong các cuộc thảo luận, cũng như Thượng Hội Đồng này đã làm. Cách thế của những con đường Hội Thánh này phải bao gồm việc lắng nghe huynh đệ và đối thoại giữa các thế hệ, nhằm mục đích phát triển các đường hướng mục vụ đặc biệt chú ý đến những người trẻ bị đặt ra ngoài lề xã hội và những người trẻ ít tiếp xúc hoặc chưa tiếp xúc với cộng đồng Hội Thánh. Chúng tôi ước mong rằng các gia đình, các học viện tôn giáo, các hiệp hội, các phong trào và những người trẻ cũng tham gia vào những cuộc hành trình này, để “ngọn lửa” của những gì chúng tôi đã trải qua những ngày này được đang lan rộng.
Hình thức hội đồng của Hội Thánh
121. Kinh nghiệm sống đã làm cho những tham dự viên Thượng Hội Đồng Giám Mục nhận thức được tầm quan trọng của hình thức hội đồng của Hội Thánh với việc loan báo và truyền thụ đức tin. Sự tham gia của giới trẻ đã giúp “đánh thức” hình thức hội đồng, là một “chiều kích cấu thành của Hội Thánh.” […] Như thánh Gioan Kim Khẩu nói, “Hội Thánh đồng nghĩa với Hội Đồng”, bởi vì Hội Thánh không là gì khác mà chính là việc “cùng nhau bước đi” của đàn chiên trên con đường lịch sử để gặp Đức Kitô” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Tính hội đồng đặc trưng cho cả đời sống lẫn sứ vụ của Hội Thánh, là Dân Chúa được tạo thành bởi những người già, trẻ, nam, nữ thuộc mọi nền văn hóa và mọi giai cấp từ mọi chân trời, và là Thân Thể Đức Kitô trong đó chúng ta là những chi thể của nhau, đặc biệt là những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị chà đạp. Trong tiến trình trao đổi và qua các chứng từ, Thượng Hội Đồng đã đưa ra một số đặc tính cơ bản của kiểu hội đồng mà chúng ta được mời gọi đổi sang.
122. Chính trong những mối liên hệ, với Đức Kitô, với những người khác, và trong cộng đồng, mà đức tin được truyền thụ. Theo quan điểm của sứ vụ hôm nay, Hội Thánh được mời gọi có một khuôn mặt liên hệ, là khuôn mặt đặt việc lắng nghe, chào đón, đối thoại và phân định chung ở trung tâm trong một cuộc hành trình biến đổi đời sống của những người tham gia vào nó. “Một Hội Thánh kiểu hội đồng là một Hội Thánh lắng nghe, với ý thức rằng việc lắng nghe “còn hơn cả nghe”. Đó là một sự lắng nghe hỗ tương, trong đó mỗi người đều có một điều gì để học. Các tín hữu giáo dân, Giám Mục Đoàn, Giám Mục Rôma, người này lắng nghe người khác; và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần, là “Thần Chân Lý” (Ga 14:17), để biết những gì Ngài “nói với các Hội Thánh” (Kh 2:7)” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Theo cách này, Hội Thánh cho thấy mình như một “nhà tạm” nơi giữ Hòm Bia Giao Ứớc (x. Xh 25): một Hội Thánh năng động và đang chuyển động, cùng đồng hành trên đường, được củng cố bởi nhiều đặc sủng và tác vụ. Nhờ thế Thiên Chúa hiện diện trong thế giới này.
Một Hội Thánh có sự tham gia và đồng trách nhiệm
123. Một đặc điểm đặc trưng của kiểu Hội Thánh này là việc khai triển các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho theo ơn gọi và vai trò của mỗi phần tử, qua sự năng động của việc đồng trách nhiệm. Để khởi động nó, cần phải có một sự hoán cải tâm hồn, cũng như sẵn sàng lắng nghe nhau, điều này giúp chúng ta nghe nhau cách hiệu quả. Được tác động bởi tinh thần này, chúng ta sẽ có thể tiến đến một Hội Thánh có tính tham gia và đồng trách nhiệm, có thể phát triển sự phong phú của sự đa dạng hợp thành nó, đồng thời tri ân đón nhận sự đóng góp của các tín hữu giáo dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, của những người nam nữ sống đời thánh hiến, và của các nhóm, các hiệp hội và các phong trào. Không ai có thể bị loại trừ hoặc có thể tự ý đứng sang một bên. Đó là cách để tránh chủ trương giáo sĩ trị, là chủ trương loại trừ nhiều người ra khỏi các tiến trình quyết định, và chủ trương giáo sĩ hoá giáo dân, là chủ trương giam hãm họ thay vì hướng họ về hướng dấn thân truyền giáo trên thế gian.
Thượng Hội Đồng kêu gọi làm cho sự tham gia tích cực của giới trẻ vào những nơi đồng trách nhiệm của các Hội Thánh địa phương có hiệu quả và thông thường, cũng như trong các tổ chức của các Hội Đồng Giám Mục và Hội Thánh hoàn vũ. Ngoài ra, Thượng Hội Đồng cũng kêu gọi tăng cường hoạt động của Văn Phòng Giới Trẻ của Bộ Giáo Dân, Gia đình và Sự Sống, bao gồm việc thành lập một tổ chức đại diện giới trẻ ở cấp quốc tế.
Tiến trình phân định cộng đồng
124. Kinh nghiệm “đi cùng” như Dân Thiên Chúa giúp hiểu rõ hơn về ý nghĩa của quyền bính trong nhãn quan phục vụ. Các mục tử cần phải có khả năng thúc đẩy sự cộng tác trong việc làm chứng nhân và sứ vụ, cũng như khả năng đồng hành với các quy trình phân định cộng đồng để giải thích các dấu chỉ của thời đại dưới ánh sáng đức tin và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, với sự đóng góp của tất cả các phần tử trong cộng đồng, bắt đầu với những người đang ở bên lề cộng đồng. Những người có trách nhiệm trong Hội Thánh, với những khả năng này, cần được đào tạo cách cụ thể về phương pháp hội đồng. Từ quan điểm này, nó có vẻ cổ võ việc soạn thảo những khóa đào tạo chung cho các giáo dân trẻ, các tu sĩ trẻ và chủng sinh, đặc biệt liên quan đến các chủ đề như thực thi quyền bính hoặc làm việc theo nhóm.
Một phong cách cho sứ vụ- Sự hiệp thông truyền giáo
125. Đời sống theo kiểu hội đồng của Hội Thánh chủ yếu là hướng về việc truyền giáo: đó là “dấu chỉ và công cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium, số 1), cho đến ngày mà Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong mọi sự” (1 Cr 15:28). Những người trẻ, mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần, có thể giúp cho Hội Thánh đi ra “từ ‘cái tôi’ được nghe theo cách cá nhân đến ‘cái chúng ta’ của Hội Thánh, trong đó mỗi cái ‘cái tôi’, được mặc lấy Đức Kitô (x. Ga 2:20), sống và đi cùng với anh chị em mình như một chủ thể có trách nhiệm và tích cực trong sứ vụ duy nhất của Dân Thiên Chúa” (Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Thượng Hội Đồng trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, ngày 2 tháng 3, 2018, số 107). Đoạn văn này, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng dẫn của các Mục Tử, phải đến với cộng đồng Kitô hữu, được mời gọi ra khỏi “cái tôi” là điều tìm cách tự bảo vệ mình, để tiến tới việc xây dựng một “cái chúng tôi” bao gồm toàn thể gia đình nhân loại và toàn thể các thụ tạo.
126. Động lực cơ bản này có những hiệu quả cụ thể trên cách chúng ta hoàn thành sứ vụ với những người trẻ, là những người đòi hỏi phải bắt đầu một cuộc đối thoại với tất cả những người nam nữ có thiện chí cách thẳng thắn và không thỏa hiệp. Như thánh Phaolô VI đã khẳng định: “Hội Thánh là một lời; Hội Thánh là một sứ điệp; Hội Thánh trở thành một cuộc đối thoại” (Ecclesiam suam, số 67). Trong một thế giới được đánh dấu bởi sự đa dạng của các dân tộc và sự đa dạng của các nền văn hóa, “đi cùng nhau” là nền tảng để mang lại uy tín và hiệu quả cho các sáng kiến đoàn kết, hội nhập, cổ võ công lý và cho người ta thấy một nền văn hóa gặp gỡ và vô vị lợi là gì.
Những người trẻ, chính vì các em tiếp xúc hàng ngày với những người trẻ cùng tuổi, các giáo phái Kitô giáo khác, các tôn giáo khác, các tín ngưỡng và các nền văn hóa khác, khuyến khích toàn thể cộng đồng Kitô hữu sống theo tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn . Điều này đòi hỏi sự can đảm của tinh thần mạnh dạn để nói, và sự khiêm tốn để lắng nghe, trong khi chấp nhận sự khổ hạnh, và đôi khi còn hàm ý tử vì đạo.
Hướng về các vùng ngoại vi của thế giới
127. Việc thực hành đối thoại và tìm kiếm các giải pháp chung là ưu tiên rõ ràng ở một thời đại mà các chế độ dân chủ đang trải qua một mức độ tham gia thấp và bị ảnh hưởng không cân xứng bởi các nhóm tư lợi với nguy cơ đưa đến giản lược hoá, kỹ thuật trị và độc đoán. Việc trung thành với Tin Mừng sẽ hướng dẫn cuộc đối thoại này để tìm cách đưa ra một câu trả lời cho tiếng kêu cứu kép của những người nghèo và của trái đất (x. Phanxicô, Laudato si’, số 49), mà hướng về đó những người trẻ bày tỏ sự nhạy cảm đặc biệt, bằng cách dấn thân vào các tiến trình xã hội được cảm hứng bởi những nguyên tắc của học thuyết xã hội: phẩm giá con người, cùng đích phổ quát của của cải, lựa chọn ưu tiên cho người nghèo, tính ưu tuyển của tình đoàn kết, sự quan tâm đến thuyết bổ trợ, việc chăm sóc cho ngôi nhà chung. Không có ơn gọi nào trong Hội Thánh có thể nằm ngoài động năng đi ra và đối thoại cộng đồng này, và đó là lý do tại sao mọi nỗ lực đồng hành được mời gọi tự đo lường ở chân trời này, qua việc dành sự chú ý đặc quyền cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất.
Chương II: Cùng nhau hành trình hàng ngày
Từ các cấu trúc đến các liên hệ- Từ uỷ quyền đến tham gia trực tiếp
128. Sứ vụ truyền giáo cách hội đồng này không chỉ liên quan đến Hội Thánh ở cấp phổ quát. Sự cần thiết phải đi cùng nhau, bằng cách làm chứng nhân thực sự của tình huynh đệ trong một cuộc sống cộng đồng được canh tân và hữu hình hơn, liên hệ trên hết đến tất cả các cộng đồng khác nhau. Do đó, cần phải thức tỉnh, trong mỗi thực tại địa phương, ý thức rằng chúng ta là Dân Thiên Chúa, được mời gọi để làm cho Tin Mừng nhập thể trong các môi trường khác nhau và trong mọi hoàn cảnh thường nhật. Điều này đòi hỏi phải rời khỏi luận lý của của việc uỷ quyền là luận lý điều kiện hoá rất nhiều hoạt động mục vụ.
Chúng ta có thể lấy một thí dụ về các khóa giáo lý để chuẩn bị cho các Bí Tích, một nhiệm vụ mà nhiều gia đình ủy quyền cho giáo xứ. Não trạng này khiến cho trẻ em có nguy cơ không nhận ra rằng đức tin là một thực tại soi sáng cuộc sống hàng ngày, mà như một tập hợp các khái niệm và quy tắc thuộc về một môi trường tách biệt với đời sống của các em. Tuy nhiên, điều cần thiết là phải đồng hành với các em: giáo xứ cần gia đình để làm cho những người trẻ kinh nghiệm thực tại hàng ngày của đức tin; và ngược lại, gia đình cần thừa tác vụ dạy giáo lý và cấu trúc của giáo xứ, để cống hiến cho trẻ em một cái nhìn cơ bản hơn về Kitô giáo, ngõ hầu đưa các em vào cộng đồng và mở ra cho các em những chân trời rộng lớn hơn. Vì thế, việc có những cấu trúc không thì chưa đủ nếu người ta không phát triển các mối liên hệ trung thực bên trong những cấu trúc ấy; thật ra, chính chất lượng của các mối liên hệ ấy mới Phúc Âm hoá.
129. Giáo xứ nhất thiết phải tham gia vào tiến trình này, để áp dụng nhiều hơn hình thức của một cộng đồng sinh hoa kết quả, để trở thành một môi trường từ đó sứ vụ được toả sáng đến những người bé nhỏ. Trong giai đoạn lịch sử cụ thể mà chúng ta đang sống, các dấu chỉ khác nhau xuất hiện và làm chứng rằng, trong các trường hợp khác nhau, giáo xứ không đáp ứng được các nhu cầu tâm linh cấp bách của những người nam nữ của thời đại chúng ta, đặc biệt là vì một số yếu tố đã thay đổi hoàn toàn cách sống của con người. Thực ra, chúng ta đang sống trong một nền văn hóa “vô biên giới”, được đánh dấu bằng mối liên hệ không gian và thời gian mới, đặc biệt là vì việc truyền thông kỹ thuật số, và được đặc trưng bởi một tính di động thường trưc. Trong bối cảnh này, một cái nhìn về hành động của giáo xứ được phân định bởi chỉ các ranh giới lãnh thổ và không có khả năng huy động các tín hữu, với các đề nghị đa dạng, đặc biệt là cho giới trẻ, sẽ giam hãm giáo xứ trong một sự ù lỳ không thể chấp nhận được và trong một vòng luẩn quẩn về mục vụ đáng lo ngại. Do đó, cần phải suy nghĩ lại về giáo xứ theo quan điểm mục vụ, theo luận lý đồng trách nhiệm trong Hội Thánh và nhiệt tình truyền giáo, qua việc phát triển sự hiệp lực trên lãnh thổ. Như thế, giáo xứ có thể xuất hiện như một môi trường quan trọng, quan tâm đến đời sống của những người trẻ.
Những cấu trúc cởi mở và dễ hiểu
130. Trong tinh thần cởi mở và chia sẻ nhiều hơn, điều quan trọng là mỗi cộng đồng phải tự hỏi để kiểm chứng rằng liệu cách sống và việc sử dụng các cấu trúc của mình có truyền đạt cho những người trẻ một chứng từ rõ ràng về Tin Mừng hay không. Đời tư của nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ và Giám Mục chắc chắn là chừng mực và phục vụ dân chúng; nhưng nó gần như vô hình đối với hầu hết mọi người, đặc biệt là người trẻ. Nhiều người thấy rằng thế giới Hội Thánh của chúng ta quá phức tạp để có thể hiểu được; chúng bị giữ ở một khoảng cách rất xa vì các vai trò chúng ta nắm giữ và những mẫu rập khuôn đi kèm với chúng. Chúng ta hãy làm sao để cho đời sống bình thường của mình, trong tất cả các biểu hiện của nó, dễ tiếp cận hơn. Việc thực sự gần gũi với họ và chia sẻ không gian và các hoạt động với họ tạo điều kiện cho một sự truyền thông chân thật, không thành kiến. Đây là cách Chúa Giêsu đã công bố Nước Trời, và ngày nay Thần Khí của Người cũng thúc đẩy chúng ta bằng cách này.
Đời sống của cộng đồng- Một bức tranh được ghép bằng nhiều khuôn mặt
131. Một Hội Thánh kiểu hội đồng và truyền giáo biểu lộ qua các cộng đồng địa phương bằng nhiều khuôn mặt. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã không có một hình thức cứng nhắc và tiêu chuẩn hóa, nhưng đã phát triển như một khối đa diện của những người với các sự nhạy cảm, nguồn gốc và văn hóa khác nhau. Chính bằng cách này, mà Hội Thánh đã cho thấy rằng nó mang trong những chiếc bình bằng đất sét của bản tính nhân loại yếu đuối một kho báu vô song của sự sống của Chúa Ba Ngôi. Sự hài hòa, vốn là một hồng ân của Chúa Thánh Thần, không xóa bỏ sự khác biệt, nhưng làm cho chúng hoà hợp, tạo ra một sự phong phú về giao hưởng. Cuộc gặp gỡ này giữa những người khác nhau trong một đức tin duy nhất là điều kiện cơ bản cho việc canh tân mục vụ của các cộng đồng của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến việc rao giảng, cử hành và tác vụ, nghĩa là các lĩnh vực cơ bản của việc chăm sóc mục vụ thông thường. Sự khôn ngoan phổ thông nói rằng “để dưỡng dục một đứa bé, cần cả một làng”: nguyên tắc này cũng có giá trị ngày nay cho tất cả mọi lĩnh vực chăm sóc mục vụ.
132. Việc hiện thực hoá có hiệu quả của một cộng đồng đa diện cũng ảnh hưởng đến việc hội nhập vào lãnh thổ, việc mở ra cho kết cấu xã hội và trong cuộc gặp gỡ với các cơ cấu dân sự. Chỉ có một cộng đồng hợp nhất và đa dạng mới biết làm sao đề nghị một cách cởi mở và mang ánh sáng Tin Mừng đến cho các môi trường của đời sống xã hội là những môi trường ngày nay tạo thành một thách đố đối với chúng ta: vấn đề sinh môi, công ăn việc làm, nâng đỡ gia đình, những người sống ngoài lề xã hội, đổi mới chính trị, sự đa nguyên về văn hóa và tôn giáo, con đường dẫn đến công lý và hòa bình, thế giới kỹ thuật số. Điều này đã được thực hiện trong các hội đoàn và các phong trào Hội Thánh. Những người trẻ yêu cầu chúng ta không được một mình đối diện với các thách đố này và đối thoại với tất cả mọi người, không phải để có được quyền lực, mà để đóng góp cho công ích.
Lời Công Bố Ban Đầu (Kerygma) và việc dạy giáo lý
133. Việc công bố Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết và sống lại, Đấng đã mặc khải Chúa Cha và ban Chúa Thánh Thần, là ơn gọi căn bản của cộng đồng Kitô hữu. Việc mời gọi những người trẻ nhận ra các dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa trong đời sống các em và khám phá ra cộng đồng như một nơi để gặp gỡ Đức Kitô phải là một phần của việc công bố này. Công bố này cấu thành nền tảng, luôn luôn được canh tân, của việc dạy giáo lý cho người trẻ và cung cho nó một chất lượng của lời công bố ban đầu (kerygma) (x. Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 164). Phải luôn giữ vững việc quyết tâm cung cấp các lộ trình liên tục và có hệ thống có thể được kết hợp với nhau: một hiểu biết sống động về Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, khả năng đọc kinh nghiệm của chính các em và các biến cố lịch sử theo con mắt đức tin, một sự đồng hành trong việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ, việc giới thiệu về Lectio divina và nâng đỡ việc làm nhân chứng cho đức ái và cổ võ công lý, qua việc đề ra một linh đạo giới trẻ đích thực.
Các lộ trình dạy giáo lý cho thấy sự liên kết mật thiết giữa đức tin và kinh nghiệm cụ thể hằng ngày, với thế giới của cảm xúc và các mối liên hệ, với các niềm vui và các nỗi thất vọng mà chúng ta cảm nghiệm được trong việc học hành (nghiên cứu) và làm việc; các lộ trình này biết cách hòa nhập vào học thuyết xã hội của Hội Thánh; chúng được mở ra cho các ngôn ngữ của thẩm mỹ, âm nhạc và các cách diễn tả nghệ thuật khác nhau, và các hình thức truyền thông thuật số. Các bình diện thể lý, cảm xúc và phái tính phải được kể đến, bởi vì có một sự đan kết chặt chẽ giữa việc giáo dục đức tin và giáo dục về tình yêu. Tóm lại, đức tin phải được hiểu như một thực hành, nghĩa là, như một hình thức sống trong thế gian.
Điều cấp bách là trong việc dạy giáo lý cho giới trẻ, quyết tâm canh tân về ngôn ngữ và phương pháp không bao giờ được phép bỏ qua một điều thiết yếu, là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, đó chính là con tim của việc dạy giáo lý. Các em đã đánh giá cao Youcat, DoCat và các công cụ tương tự, chưa kể đến sách giáo lý xuất bản bởi các Hội đồng Giám Mục khác nhau. Một cam kết mới cũng cần thiết cho các giáo lý viên, những người thường còn trẻ trong việc phục vụ những người trẻ khác, gần như đồng bạn của các em. Điều quan trọng là phải chăm lo một cách thích đáng việc đào luyện họ và để đảm bảo rằng việc mục vụ của họ được công nhận nhiều hơn bởi cộng đồng.
134. Việc cử hành Thánh Lễ liên kết đời sống cộng đồng với tính hội đồng của Hội Thánh. Đó là nơi truyền thụ đức tin và đào luyện cho sứ vụ, ở đó chứng tỏ rõ ràng là cộng đồng sống nhờ ân sủng chứ không nhờ công việc của tay mình. Chúng ta có thể khẳng định, bằng cách lặp lại những lời của truyền thống Đông phương, mà phụng vụ là cuộc gặp gỡ với Người Tôi Tớ Chúa, Đấng chăm sóc vết thương của chúng ta và chuẩn bị cho chúng ta bữa tiệc Vượt Qua, sai chúng ta ra đi và làm như vậy cho anh chị em của mình. Vì thế, chúng ta phải tái khẳng định rằng nghĩa vụ cử hành, với sự đơn giản cao quý và với việc tham gia của các thừa tác vụ giáo dân khác nhau, là một thời điểm thiết yếu trong việc hoán cải để truyền giáo của Hội Thánh. Những người trẻ đã cho thấy rằng các em đánh giá cao và sống cách mãnh liệt những cuộc cử hành đích thực ở đó vẻ đẹp của các dấu chỉ, sự chú ý đến bài giảng và sự tham gia tích cực của cộng đồng thực sự nói về Thiên Chúa. Do đó, cần phải khuyến khích sự tham gia tích cực này của những người trẻ, trong khi vẫn giữ được sự kinh ngạc trước Mầu Nhiệm; để tìm cách tiếp cận những nhạy cảm về âm nhạc và nghệ thuật của các em, nhưng cũng để giúp các em hiểu rằng phụng vụ không hoàn toàn là một cách diễn tả chính mình, mà là một hành động của Đức Kitô và Hội Thánh. Điều cũng quan trọng là đồng hành với những người trẻ để khám phá giá trị của việc chầu Thánh Thể như là một phần mở rộng của cuộc cử hành, và như một nơi âm thầm chiêm niệm và cầu nguyện.
135. Việc thực hành bí tích Hòa Giải cũng có tầm quan trọng rất lớn trong các cuộc hành trình đức tin. Các bạn trẻ cần cảm thấy được yêu thương, tha thứ, hòa giải và có một nỗi nhớ nhung thầm kín về vòng tay thương xót của Chúa Cha. Đó là lý do tại sao điều cần thiết là các linh mục phải cực kỳ sẵn sàng cho việc cử hành Bí Tích này. Các nghi thức sám hối cộng đồng giúp những người trẻ đến gần hơn với việc xưng tội cá nhân và làm cho chiều kích Hội Thánh của Bí Tích trở nên rõ ràng hơn.
136. Trong nhiều môi trường, việc đạo đức phổ thông đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người trẻ tiếp cận với đời sống đức tin một cách thiết thực, nhạy cảm và tức thì. Bằng cách khai triển ngôn ngữ của thân thể và sự tham gia cách tình cảm, việc đạo đức phổ thông mang trong nó ước mong được tiếp xúc với Thiên Chúa là Đấng cứu độ, thường qua trung gian của Mẹ Thiên Chúa và các thánh.
Cuộc hành hương dành cho những người trẻ một kinh nghiệm hành trình, là điều trở thành một phép ẩn dụ cho đời sống và Hội Thánh: chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thụ tạo và nghệ thuật, sống tình huynh đệ và kết hợp với Chúa trong cầu nguyện tạo điều kiện tốt nhất cho việc phân định.
Sự quảng đại của diakonia (việc phục vụ)
137. Những người trẻ có thể góp phần vào việc đổi mới phong cách của các cộng đồng giáo xứ và xây dựng một cộng đồng huynh đệ gần gũi với những người nghèo. Những người nghèo, những người trẻ bị loại trừ, những người đau khổ nhất, có thể là nguồn gốc của một cuộc canh tân cộng đồng. Trong mọi trường hợp, họ phải được công nhận là đối tượng của việc Phúc Âm hóa và giúp chúng ta giải thoát mình khỏi thế giới tâm linh. Những người trẻ thường nhạy cảm với chiều kích diakonia, phục vụ. Nhiều người trẻ đang tích cực tham gia việc tình nguyện và tìm một con đường để gặp Chúa trong việc phục vụ. Cho nên, sự cống hiến cho những em nhỏ nhất thực sự trở thành một việc thực hành đức tin, ở đó người ta học được rằng tình yêu dành cho “những người lạc mất” là cốt lõi của Tin Mừng và là nền tảng của toàn thể đời sống Kitô hữu. Những người nghèo nàn, bé nhỏ, bệnh tật, già cả là thịt của Đức Kitô chịu đau khổ: đó là lý do tại sao phục vụ họ là một cách để gặp Chúa, đồng thời, là nơi đặc quyền để phân định ơn gọi cá nhân của Người. Trong một số bối cảnh, bắt buộc phải có sự cởi mở đặc biệt với những người di cư và tị nạn. Với họ, chúng ta phải nỗ lực đón tiếp, bảo vệ, khuyến khích và hòa nhập. Sự hòa nhập xã hội của người nghèo thiết lập và cho thấy Hội Thánh như ngôi nhà bác ái.
Mục vụ giới trẻ trong một quan điểm ơn gọi- Hội Thánh, một ngôi nhà cho giới trẻ
138. Chỉ có một mục vụ có thể được đổi mới từ việc chú tâm cách riêng đến các mối liên hệ và chất lượng của cộng đồng Kitô hữu, sẽ có ý nghĩa và hấp dẫn đối với giới trẻ. Hội Thánh cũng sẽ có thể tự giới thiệu với các em như một ngôi nhà chào đón, đặc trưng bởi bầu không khí gia đình, sự tin tưởng và thân mật. Khát khao mãnh liệt về tình huynh đệ, đã xuất hiện rất nhiều lần từ việc lắng nghe những người trẻ ở Thượng Hội Đồng, yêu cầu Hội Thánh trở thành “mẹ của mọi người và là nhà của nhiều người” (Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 288): Nhiệm vụ mục vụ là nhận ra trong lịch sử tình mẫu tử phổ quát của Hội Thánh, qua những cử chỉ cụ thể và tiên tri về việc đón chào vui vẻ và hàng ngày làm cho nó trở thành ngôi nhà cho những người trẻ.
Nhiệt tình theo ơn gọi của việc mục vụ
139. Ơn gọi là một điểm tựa mà quanh nó tất cả các chiều kích của con người được hợp lại. Nguyên tắc này không những chỉ liên quan đến cá nhân tín hữu, mà còn cả việc mục vụ nói chung. Do đó, điều rất quan trọng là phải làm rõ rằng chỉ trong khía cạnh ơn gọi, tất cả việc mục vụ có thể tìm thấy một nguyên tắc thống nhất, bởi vì đó là cả nguồn gốc lẫn sự hoàn thành của nó. Do đó, trong các hành trình hoán cải thật sự về mục vụ hiện nay, vấn đề không phải là tăng cường việc chăm sóc mục vụ của các ơn gọi như một khu vực riêng biệt và độc lập, mà là thực hiện tất cả sự chăm sóc mục vụ của Hội Thánh bằng cách trình bày một cách hiệu qủa sự đa dạng của ơn gọi. Thực ra, mục tiêu của việc chăm sóc mục vụ là giúp mỗi người, qua một con đường phân định, đạt đến “tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4: 13).
Một mục vụ ơn gọi cho những người trẻ
140. Ngay từ đầu cuộc hành trình của Thượng Hội Đồng, nhu cầu mục vụ giới trẻ có đủ khả năng theo ơn gọi được đặt ra.[6] Theo cách này, hai yếu tố thiết yếu của việc chăm sóc mục vụ cho các thế hệ trẻ xuất hiện: đó phải là một mục vụ “của những người trẻ” bởi vì những người nhận nó ở tuổi này là giới trẻ; và nó phải “thuộc về ơn gọi” vì tuổi trẻ là mùa đặc quyền của sự lựa chọn cho đời sống và đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. “Bản chất ơn gọi” của mục vụ giới trẻ không nên hiểu theo một cách độc quyền, mà một cách sâu sắc. Chúa gọi mọi lứa tuổi của cuộc đời, từ khi còn trong bụng mẹ đến tuổi già, nhưng tuổi trẻ là thời điểm đặc quyền của việc lắng nghe, sẵn sàng và chấp nhận Thánh Ý Thiên Chúa.
Thượng Hội Đồng đưa ra đề nghị rằng mỗi Hội Đồng Giám Mục Quốc gia thiết lập một “Hướng Dẫn Mục Vụ Giới Trẻ”, từ nhãn quan ơn gọi, để giúp những vị có trách nhiệm trong giáo phận và các người phụ trách mục vụ địa phương phát triển việc đào tạo của họ và hành động của họ với và cho giới trẻ .
141. Trong khi nhận ra sự cần thiết phải lập chương trình theo nghành mục vụ để tránh việc làm theo hứng, các Nghị Phụ đã bày tỏ nỗi băn khoăn của các ngài trong một số trường hợp vì sự rời rạc của việc chăm sóc mục vụ của Hội Thánh. Cụ thể là các ngài đề cập đến các hoạt động mục vụ khác nhau liên quan đến giới trẻ: chăm sóc mục vụ của giới trẻ, gia đình, ơn gọi, trường học và đại học, xã hội, văn hóa, từ thiện, thời gian rảnh rỗi, v.v. Sự gia tăng của các lĩnh vực rất chuyên môn, nhưng đôi khi là bị đóng khung, ngăn chặn những đề nghị về Kitô giáo có ý nghĩa hơn. Trong một thế giới rời rạc tạo ra sự phân tán và việc gia tăng của những nhóm liên kết, những người trẻ cần được giúp đỡ để hợp nhất cuộc sống của các em, bằng cách đào sâu những kinh nghiệm hàng ngày và phân định chúng. Nếu đây là ưu tiên, thì cần phải có sự phối hợp và hội nhập nhiều hơn nữa giữa các lĩnh vực khác nhau, bằng cách chuyển từ công việc theo “nghành” sang công việc theo “kế hoạch”.
Mối liên hệ hiệu quả giữa các biến cố và cuộc sống hàng ngày
142. Trong Thượng Hội Đồng, đã có nhiều dịp nói về về Ngày Giới trẻ Thế giới và nhiều biến cố khác được diễn ra ở cấp lục địa, quốc gia và giáo phận, cùng với các biến cố được tổ chức bởi các hội đoàn, các phong trào, các dòng tu và các chủ thể khác thuộc về Hội Thánh. Những giây phút gặp gỡ và chia sẻ này được đánh giá cao ở hầu hết mọi nơi, bởi vì chúng mang lại cơ hội để bước đi trong sự năng động của một cuộc hành hương, để cảm nghiệm tình huynh đệ với mọi người, để cùng nhau hạnh phúc sống đức tin và lớn lên trong việc thuộc về Hội Thánh. Đối với nhiều người trẻ, chúng tạo thành một kinh nghiệm về việc biến hình, trong đó các em được thu hút bởi vẻ đẹp của Dung Nhan Chúa và đưa ra những lựa chọn quan trọng trong cuộc đời. Những hoa quả tốt nhất của những kinh nghiệm này được thu thập trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, việc phóng dự và nhận ra những buổi triệu tập này như những bước quan trọng trong một tiến trình nhân đức lớn lao hơn trở nên rất quan trọng.
143. Không gian cụ thể dành riêng cho giới trẻ của cộng đồng Kitô hữu, như nững sự bảo trợ, trung tâm thanh thiếu niên và các cơ cấu tương tự khác, diễn tả sự say mê về giáo dục của Hội Thánh. Chúng đến bằng nhiều cách, nhưng chúng vẫn là những môi trường đặc quyền mà ở đó Hội Thánh trở thành một ngôi nhà đầy yêu thương đối với các thiếu niên và thanh niên, là những người có thể khám phá ra tài năng của mình và cung cấp chúng cho tha nhân trong việc phục vụ. Chúng truyền tải một di sản giáo dục phong phú, được chia sẻ trên quy mô lớn, để nâng đỡ các gia đình và chính xã hội dân sự.
Tuy nhiên, trong sự năng động của một “Hội Thánh đi ra”, cần phải nghĩ đến một cuộc đổi mới sáng tạo và linh hoạt về những thực tại này, bằng cách chuyển từ ý tưởng về các trung tâm cố định, ở đó những người trẻ có thể đến, sang ý tưởng về các chủ thể mục vụ đang chuyển động hướng vể giới trẻ, nghĩa là những chủ thể có khả năng gặp gỡ các em ở những nơi bình thường của đời sống, như trường học, môi trường kỹ thuật số, những vùng ngoại vi của đời sống, thế giới nông thôn và việc làm, diễn tả về âm nhạc và nghệ thuật, vv, do đó tạo ra một loại việc tông đồ mới năng động và tích cực hơn.
Chương III: Một động lực truyền giáo mới
144. Phương pháp hội đồng là phương pháp mà nhờ nó Hội Thánh có thể đối diện với những thách đố cũ và mới, bằng cách thu thập và chia sẻ những hồng ân của tất cả các phần tử của mình, bắt đầu từ những người trẻ. Nhờ công việc của Thượng Hội Đồng, trong phần thứ nhất của Tài Liệu này, chúng tôi đã đề cập đến một số môi trường, trong đó có việc phải khẩn cấp khởi động hoặc canh tân động lực của Hội Thánh để hoàn thành sứ vụ mà Đức Kitô đã trao phó, và ở đây chúng tôi tìm cách đối diện với chúng một cách cụ thể hơn.
Sứ vụ trong môi trường kỹ thuật số
145. Môi trường kỹ thuật số là một thách đố đối với Hội Thánh ở nhiều mức độ; do đó, điều không thể thiếu được là đào sâu sự hiểu biết về những động lực của nó và phạm vi của nó theo quan điểm nhân học và đạo đức. Nó đòi hỏi không những chỉ sống trong đó và phát huy các tiềm năng của nó để giao tiếp theo nhãn quan rao giảng về Kitô giáo, mà còn để thấm nhuần các nền văn hóa và các động lực của nó đối với Tin Mừng. Một số thí nghiệm theo hướng này đã được tiến hành và cần được khuyến khích, đào sâu và chia sẻ. Ưu tiên mà nhiều người gán cho hình ảnh như một phương tiện giao tiếp sẽ không thể không làm cho người ta thắc mắc về phương thức truyền thụ đức tin dựa trên việc lắng nghe Lời Chúa và đọc Thánh Kinh. Các Kitô hữu trẻ, được sinh ra trong môi trường kỹ thuật số này cũng như những người trẻ cùng trang lứa của các em, tìm thấy ở đây một sứ vụ đích thực, mà một số em đã tham gia vào. Chính những người trẻ cũng yêu cầu được đồng hành trong một sự phân định các phương thức mang lại sự sống, trong một môi trường được thuật số hóa cao hiện nay, để giúp các em nắm bắt các cơ hội trong khi cách tránh xa các rủi ro.
146. Thượng Hội Đồng hy vọng rằng các văn phòng và các tổ chức về văn hóa và Phúc Âm hoá kỹ thuật số sẽ được thiết lập trong Hội Thánh, ở các cấp độ thích hợp, với sự đóng góp không thể thiếu được của những người trẻ, khuyến khích hành động và suy tư của Hội Thánh trong môi trường này. Trong số các chức năng của chúng, ngoài việc thúc đẩy trao đổi và phổ biến các thực hành tốt ở cấp độ cá nhân và cộng đồng, cùng phát triển những công cụ phù hợp cho giáo dục kỹ thuật số và Phúc Âm hoá, chúng cũng có thể điều hành các hệ thống chứng thực các trang web Công giáo, để hạn chế sự lan truyền những tin tức giả liên quan đến Hội Thánh, hoặc tìm cách thuyết phục các cơ quan công quyền cổ võ các chính sách và công cụ đặc biệt hơn để bảo vệ các trẻ vị thành niên trên mạng Internet.
Việc di dân: hãy phá xập những bức tường và xây những cây cầu
147. Nhiều người di cư là những người trẻ. Việc lan rộng cách phổ quát của Hội Thánh mang lại một cơ hội lớn lao để đối thoại giữa các cộng đồng nơi mà họ bỏ đi và các cộng đồng nơi mà họ đến, bằng cách giúp vượt qua những sợ hãi cùng ngờ vực và củng cố những mối dây liên kết mà việc di dân có thể làm đứt. “Đón nhận, bảo vệ, thăng tiến và hòa nhập”, bốn động từ mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô tóm tắt các cách hành động có lợi cho người di cư là các động từ của Thượng Hội Đồng. Để đưa chúng ra thực hành đòi hỏi phải có hành động của Hội Thánh, ở tất cả các cấp, và liên quan đến tất cả các phần tử của cộng đồng Kitô hữu. Về phần họ, những người di cư, được đồng hành cách thích hợp, sẽ có thể cung cấp các nguồn lực tinh thần, mục vụ và truyền giáo cho các cộng đồng đón nhận họ. Cam kết văn hóa và chính trị cũng đặc biệt quan trọng; nó phải được thực hiện qua các cấu trúc thích hợp để chống lại sự lan tràn của việc bài ngoại, kỳ thị chủng tộc và từ chối người di cư. Các nguồn lực của Hội Thánh Công Giáo là một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến chống lại nạn buôn người, vì sự cam kết dấn thân cùng hành động của nhiều nữ tu được nhấn mạnh rõ ràng. Vai trò của Nhóm Santa Marta, liên kết các nhà lãnh đạo tôn giáo và cơ quan bảo vệ trật tự công cộng (law enforcement), là nhóm rất quan trọng và đại diện cho một thực hành tốt có sức gợi hứng. Đừng quên các nỗ lực được thực hiện để đảm bảo quyền được ở lại đất nước của những người không muốn di cư nhưng bị bắt buộc phải làm như vậy, hoặc hỗ trợ cho các cộng đồng Kitô hữu mà việc di dân đe dọa sự sống còn của chúng.
Phụ nữ trong Hội Thánh theo kiểu hội đồng
148. Một Hội Thánh tìm cách sống theo kiểu hội đồng sẽ không thể không suy nghĩ về tình trạng và vai trò của phụ nữ trong đó cũng như trong xã hội. Các thanh niên nam nữ đang đòi hỏi điều ấy. Những suy tư được phát triển cần phải được đem ra thực hành qua một việc hoán cải về văn hóa cách can đảm và thay đổi trong việc thực hành mục vụ hàng ngày. Một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong vấn đề này là sự hiện diện của các phụ nữ trong các cơ quan Hội Thánh ở tất cả các cấp, đặc biệt là về chức năng trách nhiệm và sự tham gia của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định của Hội Thánh, trong khi tôn trọng vai trò của thừa tác vụ có chức thánh. Đó là một nghĩa vụ của công lý, được gợi hứng từ cách Chúa Giêsu nói đến những người nam nữ thời ấy, và tầm quan trọng của vai trò của một số nhân vật phụ nữ trong Thánh Kinh, trong lịch sử cứu độ và trong đời sống của Hội Thánh.
Phái tính: một lời rõ ràng, tự do, xác thực
149. Trong bối cảnh văn hóa hiện nay, Hội Thánh đang đấu tranh để truyền lại vẻ đẹp của cái nhìn Kitô giáo về thân xác và phái tính, như được phản ánh trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của những Giáo Hoàng gần đây. Như vậy, việc tìm kiếm các phương tiện phù hợp hơn có vẻ là điều khẩn cấp trong việc cụ thể hóa sự phát triển của các con đường đào luyện mới. Chúng ta phải cung cấp cho những người trẻ một nhân học về ảnh hưởng và phái tính cũng có khả năng mang lại giá trị đích thực cho đức trong sạch, bằng cách cho thấy rằng, với sự khôn ngoan cách sư phạm, ý nghĩa chân thực nhất của nó với sự phát triển của con người trong tất cả các tình trạng sống. Đó là vấn đề tập trung vào việc thông cảm lắng nghe, đồng hành và phân định, trong giới hạn được chỉ định bởi Huấn Quyền gần đây. Với điều này, cần phải cẩn thận đào tạo các tác nhân mục vụ, là những người đáng tin cậy, bắt đầu từ sự trưởng thành về các chiều kích tình cảm và tình dục của chính họ.
150. Có những câu hỏi về thân xác, tình cảm và tình dục cần một nghiên cứu tỷ mỉ về nhân học rất sâu xa, về một chương trình thần học và mục vụ, phải được thực hiện theo các phương thức đầy đủ và ở mức độ thích hợp nhất (từ địa phương đến hoàn vũ). Trong số này, có sự khác biệt và hài hòa giữa căn tính nam giới và nữ giới và sự khác biệt giữa các khuynh hướng tình dục. Về vấn đề này, Thượng Hội Đồng khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người và Hội Thánh cũng làm như vậy, qua việc canh tân cam kết chống lại mọi sự kỳ thị và bạo lực liên quan đến khuynh hướng tình dục. Hội Thánh cũng tái khẳng định tầm quan trọng quyết định về nhân học của sự khác biệt và tương hỗ giữa phái nam và phái nữ, và coi sự khác biệt này như bị giảm bớt khi xác định căn tính con ngưởi chỉ theo “khuynh hướng tính dục” của họ. (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư gửi các Giám Mục của Hội Thánh Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ của người đồng tính, ngày 1 tháng 10 năm 1986, số 16).
Trong nhiều cộng đồng Kitô hữu, đã có những con đường đồng hành trong đức tin của những người đồng tính: Thượng Hội Đồng khuyên nhủ nên khuyến khích những con đường này. Trên những con đường ấy, mọi người được giúp đọc lại lịch sử của họ, gắn bó với ơn gọi rửa tội của họ với tinh thần tự do và trách nhiệm, nhận ra ước muốn thuộc về và đóng góp cho đời sống cộng đồng, hầu nhận ra những hình thức tốt nhất cho cuộc đời để hiện thực nó. Theo cách này, cần phải cho phép mỗi người trẻ, không trừ ai, kết hợp càng ngày càng nhiều hơn chiều kích tính dục vào nhân cách của các em, bằng cách phát triển về chất lượng các mối liên hệ và hướng tới món quà tự hiến.
Kinh tế, chính trị, công việc, ngôi nhà chung
151. Hội Thánh cam kết thúc đẩy một đời sống xã hội, kinh tế và chính trị dưới biểu hiện công lý, đoàn kết và hòa bình, như những người trẻ mạnh mẽ đòi hỏi. Điều ấy cần có sự can đảm để trở thành tiếng nói của những người không có tiếng nói giữa các nhà lãnh đạo thế giới, tố cáo tham nhũng, chiến tranh, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy và khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, và mời những người có trách nhiệm về chúng hoán cải. Từ cái nhìn tổng thể, điều này không thể tách rời khỏi cam kết bao gồm những người dễ bị tổn thương nhất, qua những con đường cho phép họ, không những chỉ tìm ra câu trả lời cho các nhu cầu của họ, mà còn góp phần vào việc xây dựng xã hội.
152. Nhận thức rằng “công việc là một chiều kích cơ bản của đời sống con người trên trái đất” (Th. Gioan Phalô II, Laborem exercens, số 4) và việc thất nghiệp là điều nhục nhã đối với nhiều người trẻ, Thượng Hội Đồng khuyến nghị rằng các Hội Thánh địa phương thúc đẩy và hỗ trợ việc hội nhập của những người trẻ trên thế giới này, đặc biệt bằng cách nâng đỡ các sáng kiến chuyên nghiệp cho những người trẻ. Kinh nghiệm về vấn đề này có sẵn cách rộng rãi trong nhiều Hội Thánh địa phương và cần được nâng đỡ và củng cố.
153. Việc cổ võ công lý cũng liên quan đến việc quản lý tài sản của Hội Thánh. Những người trẻ cảm thấy thoải mái trong một Hội Thánh mà ở đó việc kinh tế và tài chính được thực thi trong sự minh bạch và chặt chẽ. Những lựa chọn can đảm theo quan điểm phát triển vững bền, như được đề cập bởi Thông Điệp Laudato si’, là điều cần thiết, vì sự thiếu tôn trọng môi trường tạo ra các hình thức nghèo khổ mới, trong đó những người trẻ là những nạn nhân đầu tiên. Các hệ thống cũng có thể được thay đổi bằng cách vạch ra rằng chúng ta có thể sống một cách khác về mặt kinh tế và tài chính. Những người trẻ đang thúc đẩy Hội Thánh trở nên ngôn sứ trong lĩnh vực này, bằng lời nói nhưng trên hết qua các lựa chọn cho thấy một nền kinh tế thân thiện với con người và môi trường là khả thi. Với các em, chúng ta có thể làm điều ấy.
154. Liên quan đến các vấn đề sinh môi, điều quan trọng là đưa ra các hướng dẫn cho các ứng dụng thực tế của Thông Điệp Laudato si’ trong các thực tại của Hội Thánh. Nhiều can thiệp nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cung cấp cho những người trẻ môt đào tạo về tham gia chính trị xã hội và học thuyết xã hội của Hội Thánh, là đại diện cho một nguồn lực tuyệt vời trong vấn đề này. Những người trẻ tham gia chính trị phải được nâng đỡ và khuyến khích làm việc nhằm thay đổi thực sự những cấu trúc bất công của xã hội.
Trong các bối cảnh liên văn hóa và liên tôn
155. Đa nguyên văn hóa và tôn giáo là một thực tại đang phát triển trong đời sống xã hội của những người trẻ. Các Kitô hữu trẻ cung cấp một bằng chứng đẹp về Tin Mừng, khi các em sống đức tin theo cách biến đổi cuộc sống và hành động hàng ngày của các em. Các em được mời gọi mở lòng ra với những người trẻ từ các truyền thống tôn giáo và tâm linh khác, và duy trì những mối liên hệ đích thực với họ, là những mối liên hệ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và hàn gắn những định kiến và thành kiến. Do đó, các em là những người tiên phong của một hình thức đối thoại liên tôn và liên văn hóa mới, giúp giải phóng xã hội của chúng ta khỏi sự loại trừ, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cơ bản và thao túng tôn giáo cho các mục đích giáo phái hoặc dân túy. Các nhân chứng của Tin Mừng, những người trẻ này, trở thành, cùng với những người trẻ cùng lứa tuổi của các em, những người tạo ra một quyền công dân bao gồm sự đa dạng và một cam kết tôn giáo có trách nhiệm xã hội và thăng tiến các mối liên hệ xã hội và hòa bình.
Gần đây, theo đề nghị của những người trẻ, các sáng kiến đã được đưa ra hầu tạo cơ hội trải nghiệm sự chung sống giữa những người thuộc các tôn giáo và nền văn hóa khác nhau, để mọi người, trong một bầu không khí vui vẻ và tôn trọng các niềm tin của những người khác, thành những diễn viên của một cam kết chung và chia sẻ trong xã hội.
Những người trẻ cho việc đối thoại đại kết
156. Liên quan đến con đường hòa giải giữa tất cả các Kitô hữu, Thượng Hội Đồng rất biết ơn ước mong phát triển sự hiệp nhất giữa các cộng đồng Kitô hữu đã bị phân chia của nhiều người trẻ. Qua việc tham gia vào lĩnh vực này, rất thường những người trẻ đào sâu nguồn gốc đức tin của các em và cảm nghiệm một sự cởi mở thực sự với những gì người khác có thể cống hiến. Các em hiểu rằng Đức Kitô liên kết chúng ta với nhau, ngay cả khi vẫn còn một số khác biệt. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khẳng định nhân dịp viếng thăm Thượng Phụ Giáo Chủ Barthôlômêô năm 2014, chính những người trẻ “ngày nay đang yêu cầu chúng ta thực hiện các bước để tiến đến hiệp thông trọn vẹn. Và điều này không phải vì các em bỏ qua tầm quan trọng của các khác biệt, là những gì tách biệt chúng ta, mà bởi vì các em biết nhìn xa hơn, các em có thể đón nhận những điều thiết yếu đã kết hợp chúng ta “(Phanxicô, Bài Giảng dịp Phụng Vụ Thánh, Nhà thờ chánh toà Thượng Phụ Thánh George, Istanbul, ngày 30 tháng 11 năm 2014).
Tính cụ thể, phức tạp và đầy đủ
157. Điều kiện hiện tại được đặc trưng bởi sự phức tạp càng ngày càng gia tăng của các hiện tượng xã hội và kinh nghiệm cá nhân. Trong cuộc sống cụ thể, những thay đổi trong hành động ảnh hưởng lẫn nhau và không thể được đối đầu với một cái nhìn chọn lọc. Trong thế giới thật sự, mọi sự đều liên kết với nhau: đời sống gia đình và cam kết nghề nghiệp, việc sử dụng các kỹ thuật và cách thử nghiệm cộng đồng, bảo vệ phôi thai và của người di cư. Sự cụ thể của cuộc đời nói với chúng ta về một cái nhìn nhân học về con người như toàn bộ và về một cách nhận biết không tách rời nhưng nắm bắt các mối dây liên hệ, học từ kinh nghiệm bằng cách đọc lại nó dưới ánh sáng Lời Chúa, được cảm hứng bởi những chứng từ gương mẫu hơn là những mô hình trừu tượng. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận đào tạo mới có chiều hướng tổng hợp các quan điểm, giúp hiểu rõ các vấn đề đan kết với nhau và biết cách hợp nhất những chiều kích khác nhau của con người. Tiếp cận này rất hòa hợp với cái nhìn Kitô giáo, là cái nhìn chiêm niệm trong việc Nhập Thể của Chúa Con, cuộc gặp gỡ bất khả phân ly của Thiên Chúa và nhân loại, đất và trời.
Giáo dục, trường học và đại học
158. Trong Thượng Hội Đồng, các Nghị Phụ đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ quyết định và không thể thay thế được của các trường dạy nghề, trường học và đại học, đặc biệt bởi vì đó là những nơi mà hầu hết người trẻ dành nhiều thì giờ của các em. Ở một số nơi trên thế giới, việc giáo dục căn bản là vấn đề trước hết và quan trọng nhất mà giới trẻ trình bày cho Hội Thánh. Vì thế, đối với cộng đồng Kitô hữu, cần phải bày tỏ sự hiện diện hùng hồn trong những môi trường này, với các nhà giáo có khả năng, các nhà uyên uý quan trọng và một cam kết dấn thân văn hóa trọn vẹn.
Các học viện giáo dục Công giáo xứng đáng được đặc biệt xét đến bởi vì chúng diễn đạt mối quan tâm của Hội Thánh đối với việc đào luyện không thể thiếu được của giới trẻ. Đây là những không gian quý giá cho cuộc gặp gỡ của Tin Mừng với nền văn hóa của một dân tộc và cho sự phát triển của việc nghiên cứu. Chúng được mời gọi đề ra một mô hình đào luyện có khả năng đối thoại giữa đức tin với các vấn đề của thế giới đương thời, với những quan điểm nhân học khác nhau, với những thách đố của khoa học và kỹ thuật, với những thay đổi của các tục lệ xã hội và với cam kết dấn thân cho công lý.
Trong những môi trường này, phải đặc biệt khuyến khích sự sáng tạo của những người trẻ trong các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật, thi ca và văn học, âm nhạc và thể thao, kỹ thuật số và các phương tiện truyền thông, vv. Bằng cách này, những người trẻ sẽ khám phá ra các tài năng của mình và chuẩn bị các tài năng ấy đề cống hiến cho xã hội vì lợi ích của tất cả mọi người.
Việc chuẩn bị các nhà đào tạo mới
159. Tông Hiến Veritatis gaudium gần đây về các trường đại học và các phân khoa về Hội Thánh đã đề ra một số tiêu chuẩn cơ bản cho một dự án đào tạo phù hợp với những thách đố hiện nay: việc suy niệm về tâm linh, trí tuệ và hiện hữu của Lời Công Bố ban đầu (kerygma), cuộc đối thoại rất rộng rãi và rất cởi mở, tính xuyên bộ môn được thực thi với sự khôn ngoan và sáng tạo và nhu cầu cấp thiết để “kết thành mạng lưới” (x. Veritatis gaudium, số 4, d). Những nguyên tắc này có thể gợi hứng cho tất cả các môi trường giáo dục và đào tạo; việc chấp nhận và thực hiện chúng sẽ đặc biệt có ích cho việc đào tạo các nhà giáo dục mới, giúp họ mở ra một cái nhìn toàn diện, có khả năng kết hợp kinh nghiệm với chân lý. Các Giáo Hoàng Học Viện và các trung tâm nghiên cứu đóng một vai trò cơ bản ở các cấp độ toàn cầu, lục địa và quốc gia. Việc kiểm chứng định kỳ, đòi hỏi trình độ và sự liên tục canh tân của các tổ chức này thể hiện một sự đầu tư chiến lược lớn vì lợi ích của giới trẻ và toàn thể Hội Thánh.
Việc đào tạo các môn đệ truyền giáo
160. Con đường của Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh đến ước muốn càng ngày càng gia tăng để hình thành và nhường chỗ cho vai trò của những người trẻ. Hiển nhiên là việc tông đồ của những người trẻ cho những người trẻ khác không thể tuỳ hứng, nhưng phải là kết quả của một lộ trình đào luyện nghiêm chỉnh và phù hợp: làm sao để đi theo tiến trình này? Làm sao để cung cấp các công cụ tốt hơn cho những người trẻ để các em trở thành những chứng nhân đích thực của Tin Mừng? Những câu hỏi này cũng trùng hợp với ước muốn hiểu biết đức tin của mình hơn của nhiều người trẻ: khám phá nguồn gốc Thánh Kinh của nó, hiểu sự phát triển lịch sử của các giáo thuyết, ý nghĩa của các tín điều và sự phong phú của phụng vụ. Điều này cho phép những người trẻ suy nghĩ về các vấn đề hiện tại trong đó đức tin bị thử thách, để biết cách đưa ra lý do cho niềm hy vọng trong các em (1 Pr 3:15).
Đó là lý do tại sao Thượng Hội Đồng đề nghị nâng cao kinh nghiệm truyền giáo của giới trẻ qua việc thành lập các trung tâm đào tạo truyền giáo cho giới trẻ và các cặp vợ chồng trẻ, qua việc áp dụng một kinh nghiệm toàn bộ sẽ kết thúc bằng việc sai đi làm sứ vụ. Đã có những sáng kiến thuộc loại này ở các lãnh thổ khác nhau, nhưng mỗi Hội Đồng Giám Mục được yêu cầu nghiên cứu khả năng đưa chúng vào hoàn cảnh tương ứng.
Một thời gian để đồng hành và phân định
161. Rất thường xuyên, trong phòng họp của Thượng Hội Đồng, một lời kêu gọi khẩn cấp đã được đưa ra về việc đầu tư một cách quảng đại, đồng thời, say mê về giáo dục, một thời gian dài và nguồn tài nguyên kinh tế. Bằng cách tập hợp các can thiệp và mong muốn khác nhau xuất hiện trong các cuộc bàn luận của Thượng Hội Đồng, ngoài việc lắng nghe những kinh nghiệm của những người có khả năng đã được thực hiện, Thượng Hội Đồng đề nghị với niềm xác tín cùng tất cả các Hội Thánh, các dòng tu, các phong trào, các hội đoàn và các tác nhân khác của Hội Thánh, là cung cấp cho những người trẻ một kinh nghiệm về đồng hành trong cái nhìn phân định. Kinh nghiệm này, mà thời lượng phải được xác định theo hoàn cảnh và cơ hội, có thể được mô tả như thời gian dành cho sự trưởng thành của đời sống Kitô hữu trưởng thành. Nó phải cung cấp một sự cách biệt dài tách xa các mối liên hệ và môi trường thông thường và được xây dựng quanh ít nhất ba trụ cột thiết yếu: một kinh nghiệm về đời sống huynh đệ được chia sẻ với các nhà giáo dục trưởng thành là điều chính, điều độ và tôn trọng ngôi nhà chung; một đề nghị tông đồ mãnh liệt và có ý nghĩa để cùng nhau chung sống; một cống hiến tinh thần bắt nguồn từ đời sống cầu nguyện và bí tích. Theo cách này, chúng tôi tìm thấy tất cả các yếu tố cần thiết để Hội Thánh có thể cung cấp cho những người trẻ muốn nó một kinh nghiệm sâu xa về việc phân định ơn gọi.
162. Tầm quan trọng của việc đồng hành với các cặp trong hành trình chuẩn bị hôn nhân của họ phải được nhắc lại, trong khi ghi nhớ rằng có nhiều cách khác nhau để tổ chức các khóa học này. Như được xác nhận trong Amoris laetitia số 207: “Không phải là vấn đề giải thích toàn bộ Giáo lý cho họ hay bão hòa họ với quá nhiều chủ đề. […] Đó là một loại “khai tâm” cho Bí Tích Hôn Phối mang lại cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh Nhận Bí Tích này trong điều kiện tốt nhất và bắt đầu cuộc sống gia đình với một quyết tâm vững chắc.” Điều quan trọng là tiếp tục đồng hành với các gia đình trẻ, nhất là trong những năm đầu của cuộc sống hôn nhân, bằng cách giúp họ trở thành một phần tích cực của cộng đồng Kitô hữu.
Việc đào tạo các chủng sinh và những người được thánh hiến
163. Nhiệm vụ cụ thể của việc đào tạo cách toàn diện các ứng viên cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến cả nam lẫn nữ vẫn là một thách đố quan trọng đối với Hội Thánh. Phải nhắc lại rằng tầm quan trọng của một đào tạo về văn hóa và thần học vững chắc cho những người được thánh hiến cũng quan trọng tương tự. Với các chủng viện, nhiệm vụ đầu tiên rõ ràng là việc áp dụng và triển khai cụ thể tài liệu Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (Đại cương cơ bản cho việc huấn luyện linh mục) mới. Trong Thượng Hội Đồng, một số khía cạnh quan trọng đã xuất hiện và đây là những điều đáng nhắc đến.
Trước hết, việc chọn các nhà đào luyện: việc họ được đào tạo tốt về văn hoá thì chưa đủ, nhưng họ cũng phải có khả năng liên hệ huynh đệ, lắng nghe cách cảm thông và một tự do nội tâm sâu xa. Thứ hai, để đồng hành đúng cách, cần phải có công việc nghiêm túc và có năng lực, trong các nhóm giáo dục khác biệt bao gồm các nhân vật nữ. Việc thiết lập các nhóm đào luyện này, trong đó các ơn gọi khác nhau tương tác, là một hình thức hội đồng nhỏ nhưng có giá trị, ảnh hưởng đến tâm lý của những người trẻ trong việc đào tạo ban đầu. Thứ ba, việc đào tạo phải nhằm mục đích phát triển, trong các mục tử tương lai và những người được thánh hiến, khả năng thực thi vai trò hướng dẫn của họ một cách có trình độ và không độc đoán, bằng cách giáo dục các ứng viên trẻ biết tự hiến cho cộng đồng. Cần chú ý đặc biệt đến các tiêu chuẩn đào tạo nhất định như: vượt trên khuynh hướng giáo sĩ trị, khả năng làm việc theo nhóm, chú ý đến những người nghèo, sống trong sáng, sẵn sàng để được đồng hành. Thứ tư, sự nghiêm túc của việc phân định ban đầu là điều quyết định, bởi vì rất thường là những người trẻ đến các chủng viện hoặc nơi đào tạo đều được đón nhận mà không biết chính xác hoặc đọc lại cẩn thận lịch sử của họ. Câu hỏi trở nên đặc biệt tế nhị trong trường hợp “các chủng sinh lang thang”: sự bất ổn về quan hệ và tình cảm và thiếu bén rễ trong Hội Thánh là những dấu chỉ nguy hiểm. Coi thường các tiêu chuẩn của Hội Thánh về vấn đề này là hành vi vô trách nhiệm, có thể gây hậu quả rất nghiêm trọng cho cộng đồng Kitô hữu. Điểm thứ năm liên quan đến tầm quan trọng của các cộng đồng đào tạo: trong các cộng đồng quá lớn, có nguy cơ không thể cá nhân hóa chương trình giảng dạy và kiến thức không phù hợp của những người trẻ trên cuộc hành trình, trong khi các cộng đồng có quá ít có nguy cơ bị nghẹt thở và lệ thuộc vào các luận lý của sự phụ thuộc; trong những trường hợp này, giải pháp tốt nhất là thành lập các chủng viện liên giáo phận hoặc nơi đào luyện cho một vài tỉnh dòng, với các dự án đào tạo rõ ràng và trách nhiệm được xác định tỏ tưởng.
164. Thượng Hội Đồng công thức hoá ba đề nghị để thúc đẩy việc canh tân.
Đề nghị thứ nhất liên quan đến việc đào tạo chung của giáo dân, những người được thánh hiến và các linh mục. Điều quan trọng đối với những người trẻ nam nữ đang được đào tạo là giữ liên lạc thường xuyên với cuộc sống hàng ngày của các gia đình và cộng đồng, đặc biệt chú ý đến sự hiện diện của các nhân vật nữ và các cặp vợ chồng Kitô giáo, và đảm bảo rằng việc đào tạo phải bén rễ sâu trong tình trạng cụ thể của cuộc đời và được đặc trưng bằng một chiều kích quan hệ có khả năng tương tác với hoàn cảnh văn hóa xã hội.
Đề nghị thứ hai liên quan đến việc đưa vào chương trình giảng dạy chuẩn bị cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến các yếu tố cụ thể liên quan đến mục vụ giới trẻ, qua các khóa đào tạo có mục tiêu và kinh nghiệm sống về hoạt động tông đồ và Phúc Âm hoá.
Đề nghị thứ ba đòi hỏi rằng việc lượng giá trong phạm vi phân định thật sự về con người và hoàn cảnh theo nhãn quan và tinh thần của Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, khả năng xác minh con đường đào tạo dựa trên kinh nghiệm và kế hoạch của cộng đồng. Điều này đặc biệt đúng cho giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình, bao gồm việc từ từ được đưa vào trách nhiệm mục vụ. Các công thức và phương thức có thể được chỉ định bởi các Hội Đồng Giám Mục của mỗi quốc gia, qua Ratio nationalis của họ.
165. Cuối cùng, tất cả sự đa dạng về ơn gọi được kết hợp trong một lời mời gọi nên thánh duy nhất và phổ quát, không có gì khác có thể làm tròn lời mời gọi đến niềm vui của tình yêu đang vang lên trong trái tim của mọi người trẻ này. Thật vậy, chỉ từ ơn gọi nên thánh duy nhất này, mà các hình thức sống khác nhau mới có thể ăn khớp với nhau, biết rằng Chúa “muốn chúng ta thành những vị thánh chứ không phải chỉ hài lòng với một cuộc sống tẻ nhạt và tầm thường, không kiên định” (Phanxicô, Gaudete et exsultate, số 1). Sự thánh thiện tìm thấy nguồn vô tận của nó nơi Chúa Cha, Đấng nhờ Thánh Thần của Ngài, sai Chúa Giêsu, “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24), đến giữa chúng ta để làm cho chúng ta nên thánh qua tình bằng hữu với Người, Đấng mang đến niềm vui và bình an trong cuộc đời của chúng ta. Việc tìm lại, trong suốt các chăm sóc mục vụ bình thường của Hội Thánh, sự tiếp xúc sống động với đời sống hạnh phúc của Chúa Giêsu là điều kiện cơ bản của mọi canh tân.
Đánh thức thế giới bằng sự thánh thiện
166. Chúng ta phải là thánh để mời những người trẻ trở nên như vậy. Những người trẻ đã kiên quyết đòi hỏi một Hội Thánh đích thực, rạng ngời, trong sáng và vui tươi: chỉ có một Hội Thánh của các thánh mới có thể sống theo những đòi hỏi này! Nhiều người trong số các em đã từ bỏ Hội Thánh vì các em không tìm thấy sự thánh thiện, mà lại tìm thấy sự tầm thường, vọng tưởng, chia rẽ và thối nát trong ấy. Đáng tiếc thay, thế giới bị xúc phạm trắng trợn hơn bởi sự lạm dụng của một số người trong Hội Thánh hơn là sự thánh thiện của các phần tử của mình: đó là lý do tại sao toàn thể Hội Thánh phải hoàn thành một thay đổi quan điểm vững chắc, tức thời và triệt để! Những người trẻ cần các vị thánh là những người tạo ra các vị thánh khác, như thế chứng tỏ rằng “sự thánh thiện là khuôn mặt đẹp nhất của Hội Thánh” (Phanxicô, Gaudete et exsultate, số 9). Có một ngôn ngữ mà tất cả mọi người nam nữ ở mọi thời đại, mọi nơi và mọi nền văn hóa đều có thể hiểu được, bởi vì nó tức thời và rạng ngời: đó là ngôn ngữ của sự thánh thiện.
Được thúc đẩy bởi sự thánh thiện của những người trẻ
167. Chúng tôi thấy rõ ngay từ đầu cuộc hành trình của Thượng Hội Đồng rằng những người trẻ là một phần không thể thiếu được của Hội Thánh. Sự thánh thiện của em cũng như thế, và trong những thập kỷ gần đây, sự thánh thiện ấy đã tạo ra một mùa hoa nở rộ đa diện ở khắp nơi trên thế giới: việc chiêm ngắm và suy niệm trong Thượng Hội Đồng lòng can đảm của nhiều người trẻ đã từ bỏ cuộc sống để trung thành với Tin Mừng đã khiến chúng tôi cảm động; lắng nghe các chứng từ của những người trẻ có mặt tại Thượng Hội Đồng, giữa những cuộc bách hại, đã chọn chia sẻ Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, đã được tái sinh. Nhờ sự thánh thiện của những người trẻ, Hội Thánh có thể làm hồi sinh lòng hăng say tinh thần và sức sống tông đồ của mình. Hương thơm của sự thánh thiện phát sinh từ sự tốt lành của cuộc sống của rất nhiều người trẻ như thế có thể chữa lành các vết thương của Hội Thánh và thế giới, đưa chúng ta trở lại với tình yêu trọn vẹn mà chúng ta luôn luôn được mời gọi: các vị thánh trẻ đẩy chúng ta trở lại tình yêu ban đầu của mình (x. Kh 2, 4).
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
[1] Chú thích của người dịch: “chủ nghĩa hữu thần đạo đức trị liệu” tiếng Pháp là “théisme éthique et thérapeutique” và tiếng Anh là “moralistic therapeutic deism (MTD)”. Đây là một chủ nghĩa không mấy mới lạ, nhưng rất thịnh hành trong giới trẻ. Theo chủ nghĩa này thì Thiên Chúa dựng nên chúng ta và muốn chúng ta ăn ngay ở lành nghĩa là đối xử tốt với nhau là đủ. Ngoài ra Ngài không can thiệp vảo đời sống chúng ta. Còn chúng ta thì chỉ cần đến Thiên Chúa khi gặp khó khăn mà thôi.
[2] Chú thích của người dịch: “Thuyết định mệnh” là thuyết chủ trương rằng mọi sự đã được định đoạt từ trước. Những người Tin Lành theo Calvin tin vào thuyết này. Calvin dạy về “Thuyết Tiền Định Kép (Double Predestination)”, cho rằng Thiên Chúa đã định cho một người hoặc lên Thiên Đàng hoặc xuống Hoả Ngục ngay từ thủa đời đời, không ai có thể làm bất cứ điều gì để thay đồi số phận của mình cả.
[3] Chú thích của người dịch: “Thuyết ngoại tại” là thuyết được Lutherô sáng chế ra. Ông cho rằng sau khi Nguyên Tổ phạm tội, bản tính con người hoàn toàn bị sa hoá, không thế cứu chữa được. Chúa Giêsu xuống thế để làm cho con người được nên công chính bằng cách đền tội thay cho con người. Nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu thì tất cả những ai tin Người và chấp nhận Người là cứu Chúa đều được Thiên Chúa nhìn nhận là công chính. Đây là sự công chính hoá “ngoại tại”, nó không thay đổi nội tâm con người. Còn Hội Thánh thì dạy rằng, con người muốn được cứu rỗi thì phải hợp tác với ân sủng để biến đổi mình càng ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn, chứ tin không thì chưa đủ.
[4] Cũng có thể dịch là việc làm nội tâm
[5] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Thượng Hội Đồng trong đời sống và sứ vụ Hội Thánh, ngày 2 tháng 3 năm 2018, số 9. Ngoài ra, tài liệu này minh họa bản chất của tính hội đồng bằng lời này: “Chiều kích hội đồng của Hội Thánh diễn tả tính cách tích cực của tất cả những người được Rửa Tội, đồng thời, vai trò cụ thể của tác vụ Giám Mục trong sự hiệp thông Giám Mục Đoàn và phẩm trật với Giám Mục Rôma. Nhãn quan Hội Thánh này mời gọi để thúc đẩy việc triển khai sự hiệp thông cách hội đồng giữa “mọi người”, “một số người” và “một người”. Ở các cấp độ khác nhau và dưới các hình thức khác nhau, về các Hội Thánh địa phương, các nhóm của họ ở cấp độ khu vực và của Hội Thánh toàn cầu, tính hội đồng ám chỉ việc thực thi sensus fidei (cảm thức đức tin) của universitas fidelium (toàn thể tín hữu), thừa tác vụ hướng dẫn của Giám Mục Đoàn, mỗi vị với linh mục đoàn (một số người) và tác vụ hiệp nhất của các Giám Mục và Giáo Hoàng (một người). Do đó, trong động lực của tính hội đồng, có khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Chúa, chiều kích (giám mục hay linh mục) đoàn liên quan đến việc thi hành tác vụ Giám Mục và tác vụ tối cao của Giám Mục Rôma. Mối tương quan này khuyến khích singularis conspiratio (sự nhất trí duy nhất) giữa các tín hữu và các Mục Tử, đó là hình ảnh của conspiratio (sự nhất trí) vĩnh cửu đang sống trong Chúa Ba Ngôi” (số 64).
[6] Câu này được dịch theo bản tiếng Ý hay vì tiếng Pháp vì bản tiến Ý rõ ràng hơn.