THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Kỳ Lần Thứ XIV
Về Ơn Gọi Và Sứ Vụ Của Gia Đình Trong Giáo Hội Và Thế Giới Ngày Nay
NHỮNG NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO
Thánh Đô Vatican 2014
Lời nói đầu
Khi kết thúc phiên họp khoáng đại ngoại thường của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về những thách đố mục vụ đối với gia đình trong mối liên hệ với công cuộc loan báo Tin Mừng, mà phiên họp này đã diễn ra vào năm 2014, Đức Thánh Cha phan-xi-cô đã quyết định công bố văn kiện Relatio Synodi (Văn Kiện Đúc Kết của Thượng Hội Đồng Giám Mục). Với văn kiện này, những công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường lần thứ III đã được tổng kết. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng đã xác định rằng, văn kiện này sẽ có vai trò như là Lineamenta (Những Nguyên Tắc Chỉ Đạo) cho phiên họp khoáng đại thường kỳ lần thứ XIV của Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà phiên họp này sẽ diễn ra từ ngày mồng 04 tới ngày 25 tháng 10 năm 2015 với đề tài: Ơn Gọi và Sứ Mạng Của Gia Đình Trong Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay.
Văn kiện Relatio Synodi mà giờ đây nó đã được chuyển đi như là Lineamenta, đã chốt lại với những lời sau: “Những suy tư được trình bày trên đây chính là kết quả từ các buổi làm việc của Thượng Hội Đồng Giám mục, mà các buổi làm việc ấy đã diễn ra trong sự tự do to lớn cũng như trong một thái độ lắng nghe lẫn nhau. Các suy tư này muốn đặt ra những vấn nạn cũng như muốn vạch ra những viễn tượng. Trong năm, tức thời gian kể từ lúc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục Ngoại Thường Về Gia Đình tới khi có phiên họp khoáng đại của Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ lần tới, những suy tư này sẽ phải trở nên chín muồi cũng như phải được giải thích rõ ràng thông qua những suy tư của các Giáo hội địa phương“ (Relatio Synodi Nr. 62).
Để học làm quen với sự tiếp thu của văn kiện, một loạt các câu hỏi sẽ được bổ sung vào trong Lineamenta. Những câu hỏi ấy sẽ hỗ trợ để thúc đẩy việc làm sâu sắc thêm công việc đã được khởi đầu trong phạm vị phiên họp khoáng đại ngoại thường của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Vấn đề ở đây là “tái suy tư về những gì mà sự mạc khải được lưu truyền trong Đức Tin của Giáo hội, nói với chúng ta về vẻ đẹp, về vai trò và về phẩm giá của gia đình, với sự tươi sáng và với niềm hăng hái mới“ (Relatio Synodi, Nr. 4). Trong viễn tượng này, chúng ta được mời gọi, trong năm tới, “hãy làm cho những ý tưởng đã được đề nghị ở đây đạt tới được sự chín muồi trong sự biện phân thực sự có tính tâm linh, và tìm ra cho được những giải pháp cụ thể cho tất cả những khó khăn cũng như cho vô vàn những thách đố mà các gia đình đang phải đối mặt với“ (ĐTC Phan-xi-cô, Diễn Văn Bế Mạc THĐGM, ngày 18 tháng 10 năm 2014). Cùng với văn kiện Relatio Synodi, kết quả của cuộc trưng cầu ý kiến sẽ đóng vai trò như là chất liệu cho Instrumentum laboris (Văn Kiện Làm Việc) của phiên họp thường kỳ lần thứ XIV của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2015.
“Các Hội Đồng Giám Mục được mời gọi hãy chọn lựa những phương thức tương ứng với mục tiêu này để giới thiệu với tất cả mọi thành viên của Giáo hội địa phương, của các cơ sở giáo dục, các tổ chức, các hiệp hội và của các cơ quan khác của Giáo hội“.
PHẦN I: RELATIO SYNODI – VĂN KIỆN ĐÚC KẾT CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC NGOẠI THƯỜNG LẦN THỨ BA
(từ ngày mồng 05 tới 19 tháng 10 năm 2014)
“Những Thách Đố Mục Vụ Trong Mối Liên Hệ Với Việc Loan Báo Tin Mừng“
LỜI NÓI ĐẦU
1. Được quy tụ chung quanh Đức Thánh Cha, Thượng Hội Đồng Giám mục hướng sự suy tư của mình về tất cả các gia đình trên toàn thế giới với những vui mừng và lo âu cũng như với những niềm hy vọng của họ. Một cách đặc biệt, Thượng Hội Đồng Giám Mục cảm thấy có bổn phận phải tạ ơn Thiên Chúa về sự trung tín lớn lao mà với nó nhiều gia đình Ki-tô giáo đã đáp lại ơn gọi cũng như sứ mạng của mình. Họ thực hiện điều đó với niềm vui và trong Đức Tin, ngay cả khi họ bất ngờ phát hiện ra những giới hạn, những hiểu lầm và những đau khổ trên con đường với tư cách là các gia đình. Sự kính trọng, lòng biết ơn và sự khích lệ của toàn thể Giáo hội cũng như của Thượng Hội Đồng Giám Mục này được dành cho các gia đình. Trong buổi canh thức cầu nguyện tại quảng trường Thánh Phê-rô vào chiều tối thứ Bảy ngày mồng 04 tháng 10 năm 2014, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã lưu ý tới tính trung tâm nơi kinh nghiệm của các gia đình trong đời sống mỗi người, nhằm chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng Giám Mục qua hình thức đơn giản và cụ thể, khi Ngài nói rằng: “Trong lúc này, màn chiều đang dần buông xuống trên cuộc đoàn tụ của chúng ta. Đây là thời gian mà nhiều người thích trở về nhà, muốn được đoàn tụ chung quanh chiếc bàn, trong tình thân thiện thẳm sâu, trong sức mạnh của những điều tốt lành đã hoàn thành và được đón nhận, của những cuộc gặp gỡ mà chúng sưởi ấm con tim và làm cho nó phát triển, – của rượu ngon mà nó tiên đoán ngày đại tiệc không hề lụi tàn trong con người. Đây cũng là giờ khắc khó khăn nhất đối với những con người đang phải đối phó với nỗi cô đơn riêng đang đập vào mắt mình, trong lúc hoàng hôn đầy cay đắng của những giấc mơ đã bị vỡ tung và của những kế hoạch đã bị đổ sập: có biết bao nhiêu con người đang kéo lê những ngày sống trong tình trạng bế tắc vì sự nản chí, vì sự thất vọng hay ít nhất là vì sự oán hận. Có biết bao nhiêu những căn nhà đang bị thiếu rượu niềm vui, và do đó thiếu đi hương vị của cuộc sống, thiếu đi chân lý của chính cuộc sống (…). Vậy trong buổi chiều hôm nay, chúng ta hãy đưa hết người này đến người khác vào trong lời cầu nguyện dành cho tất cả, qua giọng hát cùng với những lời nguyện cầu của chúng ta.“
2. Với tư cách là trung tâm của niềm vui cũng như của những thử thách, của mối thân thiện sâu xa cũng như của những mối quan hệ đôi khi bị gây tổn thương, trong thực tế, gia đình chình là “ngôi trường của sự nhân ái“ (xc. GS, 52), và chúng ta cảm thấy mình cần đến điều đó rất nhiều như thế nào. Bất chấp rất nhiều những dấu hiệu về một sự khủng hoảng nơi cấu trúc gia đình, trong những môi trường khác nhau của “ngôi làng toàn cầu“, niềm mong muốn cho gia đình được sinh động vẫn đang tồn tại, đặc biệt là trong số những người trẻ. Họ giúp Giáo hội có được kinh nghiệm trong sự nhân ái và trung thành với sứ vụ của mình, hầu loan báo “Tin Mừng Gia Đình“ một cách không ngừng, cũng như trong sự xác tín thẳm sâu mà nó được ủy thác cho Giáo hội với sự mạc khải của Tình Yêu Thiên Chúa trong Chúa Giê-su Ki-tô, và được thúc đẩy bởi các Giáo Phụ, các vị Thầy của đời sống tâm linh, và bởi quyền giáo huấn của Giáo hội, không hề bị đứt quãng. Đối với Giáo hội, gia đình có một tầm quan trọng hoàn toàn đặc biệt, và trong phút giây mà trong đó tất cả các tín hữu đều được mời gọi hãy đi ra khỏi chính mình, sẽ trở nên cần thiết rằng, gia đình tái khám phá ra mình như là chủ thể không thể thiếu được của việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy nghĩ tới chứng tá truyền giáo của nhiều gia đình.
3. Đức Giám Mục thành Rô-ma đã thúc đẩy Thượng Hội Đồng Giám Mục, trong phiên họp khoáng đại bất thường của mình vào tháng Mười vừa qua, hãy suy tư về thực tại chính yếu và đầy giá trị của gia đình, hầu đào sâu những suy tư ấy trong phiên họp khoáng đại thường kỳ của Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2015, cũng như trong suốt mười hai tháng giữa hai biến cố của Thượng Hội Đồng Giám Mục. “Sự kiện ´convenire in unum – hiệp nhất trong một` chung quanh Đức Giám Mục thành Rô-ma đã là một biến cố thuộc về ân sủng, mà trong đó tinh thần tập thể của Giám Mục đoàn thể hiện trên con đường biện phân thiêng liêng và mục vụ“ (ĐTC Phan-xi-cô, Diễn Văn ngày mồng 04.10.2014). Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mô tả về kinh nghiệm của Thượng Hội Đồng Giám Mục như thế, và đã chỉ ra bổn phận phải lắng nghe kép: Lắng nghe trước những dấu chỉ của Thiên Chúa, và lắng nghe trước những câu chuyện của con người, cũng như sứ mạng phải trung tín kép và duy nhất mà nó đi theo sau việc lắng nghe kép ấy.
Trong ánh sáng của bài diễn văn này, chúng tôi đã tập hợp những kết quả từ những suy tư và những cuộc đối thoại của chúng tôi trong ba phần sau đây: Lắng nghe để có thể nhận ra thực tế của gia đình ngày nay trong nhiều tầng lớp của nó, cả với ánh sáng lẫn bóng tối; Hướng nhìn về Chúa Ki-tô để suy tư với sự tươi sáng cũng như với sự hăng hái mới về điều mà nó nói cho chúng ta biết về sự mạc khải được lưu truyền trong Đức Tin của Giáo hội, về vẻ đẹp, về vai trò và về phẩm giá của gia đình; Biện phân với sự đối chiếu trong ánh sáng của Chúa Giê-su để nhận ra xem Giáo hội và cộng đoàn chúng ta có thể trao đi những xung lượng mới như thế nào trong việc lưu tâm của mình tới gia đình mà nó được đặt nền tảng trên đời sống hôn nhân giữa người nam và người nữ.
MỤC I
LẮNG NGHE: BỐI CẢNH VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA CÁC GIA ĐÌNH
Bối cảnh văn hóa xã hội
5. Trong sự trung tín đối với Giáo huấn của Chúa Ki-tô, chúng tôi quan sát thực tế của gia đình hôm nay trong toàn bộ tính phức tạp của nó, với mặt sáng cũng như mặt tối của nó. Chúng tôi nghĩ tới những người cha, người mẹ, những cụ ông, cụ bà, nghĩ tới những người anh em và chị em, nghĩ tới những người họ hàng gần xa, và nghĩ tới mối liên kết giữa hai gia đình mà nó được gắn kết với nhau thông qua cuộc hôn nhân ấy. Sự thay đổi văn hóa có tính nhân loại học đang tác động tới mọi khía cạnh của cuộc sống ngày nay, và đòi hỏi một sự thích nghi vừa có tính phân tích lại vừa có tính biện phân. Trước tiên, nó có giá trị trong việc biện phân những khía cạnh tích cực: biểu lộ sự tự do lớn hơn, và sự nhận thức tốt hơn về quyền của phụ nữ và trẻ em, ít nhất là trong một số lãnh vực nào đó. Nhưng mặt khác, những mối nguy hiểm đang phát triển cũng phải được chú trọng y như vậy; những mối nguy hiểm này được thể hiện trong chủ nghĩa cá nhân đang phát triển theo xu hướng xấu, tức xu hướng đang làm cho những mối tương quan của gia đình bị biến dạng, và đạt tới cực điểm của nó trong việc nhìn xem các thành viên của gia đình như những ốc đảo. Như vậy, trong một số trường hợp, sự trình diễn của một chủ thể sẽ có ảnh hưởng lớn hơn, khi chủ thể ấy chỉ được hình thành theo những mong muốn riêng, và khi nó bị tách ly khỏi tất cả. Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng Đức Tin đang có liên hệ đến nhiều người Công Giáo, cũng như thường được nhìn thấy nơi gốc rễ của nó từ sự khủng hoảng của đời sống hôn nhân và gia đình.
6. Một hiện tượng nghèo nàn lớn nhất của nền văn hóa ngày nay chính là sự cô đơn như là kết quả của việc thiếu vắng Thiên Chúa trong đời sống nhân loại và sự đổ vỡ của các mối tương quan. Ngoài ra còn có một cảm nhận chung về sự bất lực khi chứng kiến thực tại kinh tế xã hội mà nó thường dẫn tới chỗ các gia đình sẽ bị nghiền nát. Điều đó có lẽ cũng có giá trị với cái nhìn về sự nghèo túng đang lớn dần, và các mối quan hệ khó khăn trong công việc mà đôi khi chúng bị kinh qua như là một cơn ác mộng thực sự, hay như một gánh rất nặng về thuế má đang đè nén, mà chắc chắn chúng đang khuyến khích người trẻ không lập gia đình nữa. Thường thì nhiều gia đình cảm thấy bị bỏ rơi bởi sự thờ ơ lãnh đạm, và bởi mối quan tâm ít ỏi từ phía các cơ quan. Những hậu quả tiêu cực đối với sự thống nhất của cộng đồng đang được nhìn thấy ở khắp nơi: từ cuộc khủng hoảng về nhân khẩu học tới những khó khăn nơi sự giáo dục, từ sự do dự trong việc đón nhận sự sống chưa được sinh ra tới việc coi người già như là gánh nặng, và tới sự lan rộng của một chứng lãnh cảm mà đôi khi chúng đạt tới đỉnh điểm trong bạo lực. Nhà nước có trách nhiệm phải tạo ra những điều kiện hợp pháp và kinh tế mà chúng bảo đảm cho những người trẻ một tương lai, cũng như trợ giúp họ trong kế hoạch lập gia đình.
7. Một số những bối cảnh thuộc về văn hóa và tôn giáo đang thể hiện những thách đố đặc biệt. Trong một số cộng đồng cũng vẫn đang còn tồn tại chế độ đa hôn, và trong một số bối cảnh thuộc về truyền thống cũng vẫn đang còn tồn tại những phong tục “hôn nhân trong từng thời kỳ“. Trong những bối cảnh khác, định chế hôn nhân bị sắp xếp cũng vẫn đang còn được duy trì. Tại nhiều quốc gia mà trong đó sự hiện diện của Giáo hội Công Giáo rất ít ỏi, vẫn có nhiều những cuộc hôi nhân tôn giáo hỗn hợp, với những nền văn hóa khác biệt, và với tất cả những khó khăn quen thuộc liên quan đến hình thức pháp lý của chúng, của việc cử hành Bí Tích Thanh Tẩy và của việc giáo dục con cái, cũng như với cái nhìn trên sự tôn trọng lẫn nhau đối với tín ngưỡng khác. Trong những cuộc hôn nhân như thế, mối nguy hiểm của chủ thuyết tương đối hay của sự thờ ơ là có thể có, nhưng chúng cũng có thể thúc đẩy tinh thần đại kết và công cuộc đối thoại liên tôn của các cộng đồng đang chung sống một cách hài hòa. Trong nhiều khu vực, không chỉ riêng tại Tây Phương, cuộc sống chung của các cặp trai gái trước hôn nhân đang tiếp tục bị khuếch tán, kể cả những cuộc chung sống hoàn toàn không hề có mục đích trao cho người bạn đời một sự gắn bó được thể chế hóa. Điều đó thường dẫn tới một sự ban hành luật dân sự mà bộ luật ấy lại gây tổn thương cho đời sống hôn nhân và gia đình. Do sự thế tục hóa, mối gắn bó với Thiên Chúa đã bị giảm xuống một cách mạnh mẽ tại nhiều nơi trên trái đất, và Đức Tin không còn là di sản chung mang tính cộng đồng nữa.
8. Nhiều em bé sẽ bị sinh ra ngoài hôn nhân, đặc biệt là trong một số quốc gia, và nhiều em bé trong những quốc gia ấy sẽ lớn lên với chỉ một bên hoặc bố hoặc mẹ, hay trong một hoàn cảnh gia đình đã được phát triển hoặc được tái cơ cấu. Con số những vụ ly dị đang lớn lên, và không hiếm khi những quyết định chỉ được xác định bởi những yếu tố kinh tế. Các em bé thường xuyên trở thành đối tượng tranh cãi của cha mẹ chúng, và rồi những đứa con ấy lại trở thành nạn nhân thực sự của những vụ bất hòa trong gia đình. Những người cha thường vắng mặt, không chỉ vì những lý do kinh tế, mà còn thiếu vắng ngay tại nơi mà ở đó, những người cha cần phải đảm nhận một cách rõ ràng trách nhiệm đối với con cái và gia đình. Sự nhìn nhận về phẩm giá của người phụ nữ vẫn còn phải được phổ biến và thúc đẩy. Trong thực tế, người phụ nữ thời nay vẫn nhiều khi bị đặt trong tình trạng phân biệt đối xử, và hồng ân của việc làm mẹ lại cũng thường xuyên dẫn tới những bất lợi hơn là được coi trọng. Chúng ta không được phép quên những bạo lực nhắm vào giới phụ nữ đang ngày một tăng, tiếc rằng đôi khi nó lại xảy ra ngay trong gia đình, và thật tồi tệ với việc cắt xén bộ phận sinh dục vẫn còn đang được phổ biến trong một số nền văn hóa. Sau cùng, sự bóc lột tình dục trẻ em đang là một thực tế xấu xa và đồi bại nhất của xã hội ngày nay. Ngay cả những cộng đồng bị gây thiệt hại bởi bạo lực do chiến tranh, bởi chủ nghĩa khủng bố, hay bởi các tổ chức tội phạm, cũng đều nhận thấy rằng, tình trạng của các gia đình đang ngày một xấu đi. Trước hết là trong những đô thị lớn và những vùng ngoại ô của các đô thị này, hiện tượng của cái được gọi là trẻ em đường phố đang phát triển. Di dân là một đặc điểm tiếp theo của thời đại, và phải được hiểu cũng như phải được giải quyết đối với gia đình trước tất cả những gánh nặng của họ.
Tầm quan trọng của đời sống tình cảm
9. Trong bối cảnh xã hội đã được vạch ra, tại nhiều vùng miền khác nhau trên thế giới, nhu cầu cá nhân đang chứng tỏ việc phải quan tâm nhiều hơn nữa đến nhân vị của mình, hầu khám phá ra điều nội tại, để sống trong sự hòa điệu tốt hơn với những cảm nhận và với những cảm xúc riêng, hầu tìm kiếm những người bạn đời có đầy đủ các phẩm chất tốt; sự cố gắng đi tới một cách hợp pháp này có thể dẫn tới niềm mong ước muốn kiến tạo nên các mối quan hệ mà chúng đặt nền móng trên sự trao hiến cũng như trên sự phát triển lẫn nhau một cách đầy trách nhiệm, liên đới, giống như bất cứ một gia đình nào. Nhưng mối nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân và cơn cám dỗ muốn sống theo lối ích kỷ lại rất lớn. Giáo hội được đòi hỏi phải giúp đỡ các đôi vợ chồng trong sự chín muồi về xúc cảm cũng như trong sự phát triển mối tương quan gắn bó thuộc về tình cảm của họ, bằng cách thúc đẩy việc đối thoại, thúc đẩy các phẩm hạnh cũng như thúc đẩy niềm tín thác vào Tình Yêu nhân hậu của Thiên Chúa. Sự tham gia trọn vẹn mà một cuộc hôn nhân Ki-tô giáo được mời gọi, có thể trở nên một phương tiện mạnh mẽ nhằm chống lại những cơn cám dỗ của một chủ nghĩa cá nhân ích kỷ.
10. Trong thế giới ngày nay không thiếu những khuynh hướng văn hóa mà chúng đang tuyên truyền cho một đời sống tình cảm không giới hạn, trong đó tất cả mọi khía cạnh đều nên được xem xét kỹ càng. Và như thế, đó là vấn nạn về sự đổ vỡ của giác cảm mà nó đang xô đẩy bất cứ con người nào. Đang có một đời sống tình cảm tự kỷ, không bền vững và dễ thay đổi mà nó không luôn giúp con người đạt tới sự chín muồi. Sự sợ hãi đang kích thích một sự phát tán nào đó của sự khiêu dâm và của việc thương mại hóa cơ thể, được tạo điều kiện thông qua việc lạm dụng Internet. Điều này dẫn tới tình trạng đáng phàn nàn của những người bị cưỡng ép phải hoạt động mại dâm. Trong bối cảnh chung này, đôi khi các cặp vợ chồng lại thiếu kiên quyết, do dự, ngập ngừng và không cố gắng tìm ra những cách thế mà qua đó họ có thể phát triển. Nhiều cặp vợ chồng nghiêng theo chiều hướng đó, để ở lì mãi trong những giai đoạn trước kia, trong cuộc sống tình cảm và tính dục của mình. Cuộc khủng hoảng của các mối quan hệ vợ chồng sẽ làm mất ổn định trong gia đình, và có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng đối với những người đã trưởng thành, đối với trẻ em và đối với toàn thể xã hội, thông qua những rạn nứt và những ly tán, bằng cách làm cho các cá nhân cũng như các mối quan hệ xã hội trở nên yếu nhược. Ngay cả sự suy giảm về nhân khẩu học, bị gây ra bởi một tâm tính thù địch với sự sinh sản, và một chính sách đẩy mạnh sự ngừa thai trên toàn thế giới, cũng không chỉ dẫn tới một tình trạng mà trong đó việc thay đổi các thế hệ không còn được đảm bảo nữa, nhưng với thời gian, còn dẫn tới nguy cơ xảy ra một cuộc bần cùng hóa về mặt kinh tế, cũng như dẫn tới việc đánh mất đi niềm tin tưởng vào tương lai. Sự phát triển của công nghệ sinh học cũng đã gây ra một tác động mạnh mẽ đến tỉ lệ sinh sản.
Những thách đố trong việc mục vụ
11. Trong mối liên hệ này, Giáo hội cảm thấy cần thiết phải nói lên một lời của chân lý và của niềm hy vọng. Chúng ta nên khởi đi từ niềm xác tín rằng, con người đến từ Thiên Chúa, và do đó dẫn tới một suy tư, mà nó tái đặt ra những vấn nạn lớn liên quan đến tầm quan trọng của kiếp nhân sinh, có thể rơi xuống trên một mảnh đất màu mỡ, khi chứng kiến những khát vọng sâu xa nhất của nhân loại. Giá trị to lớn của đời sống hôn nhân và gia đình Ki-tô giáo tương ứng với bất cứ sự tìm kiếm nào mà nó chạy băng qua bất kỳ cuộc hiện sinh nhân loại nào, ngay cả trong một thời đại bị đánh dấu bởi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa khoái lạc. Người ta phải đón nhận con người trong cuộc hiện sinh cụ thể của họ, phải giúp đỡ họ trong cuộc kiếm tìm của họ, phải khích lệ họ trong sự khát khao của họ đối với Thiên Chúa, và trong niềm mong mỏi của họ muốn được tham dự một cách trọn vẹn vào trong Giáo hội, cũng như những ai đã trải qua một kinh nghiệm về sự tan vỡ, hay đã lâm vào những tình huống tuyệt vọng. Sứ điệp Ki-tô giáo vẫn luôn chứa đựng thực tại và sự năng động của lòng khoan hậu cũng như của chân lý, mà trong Chúa Ki-tô, chúng là một và là chính Ngài.
MỤC II
NGƯỚC NHÌN LÊN CHÚA KI-TÔ: TIN MỪNG GIA ĐÌNH
Ngước nhìn lên Chúa Giê-su và khoa sư phạm của Thiên Chúa trong thánh sử
12. “Vì khi chúng ta thực sự muốn đối chiếu những bước đi của chúng ta trên địa bàn của những thách đố hiện tại, cần phải có một điều kiện mang tính quyết định rằng, dán chặt ánh nhìn vào Chúa Giê-su Ki-tô, dừng lại trong sự chiêm nghiệm và tôn thờ thánh nhan Ngài (…). Vì mỗi lần, khi chúng ta trở lại với nguồn cội của sự kinh nghiệm về Chúa Ki-tô, chúng ta sẽ mở con tim mình ra cho những con đường mới và những khả năng mới không được đoán trước“ (ĐTC Phan-xi-cô, Diễn Văn ngày 04.10.2014). Chúa Giê-su đã hướng cái nhìn với tình yêu và sự trìu mến của Ngài trên những người nam và những người nữ mà họ gặp gỡ Ngài, và Ngài đã đồng hành với những bước đi của họ bằng chân lý, bằng lòng khoan dung và bằng tình thương xót, khi Ngài công bố những đòi hỏi mà Triều Đại Thiên Chúa đặt ra cho chúng ta.
13. Vì trật tự của các thụ tạo được xác định bởi sự quy hướng về Chúa Ki-tô, nên chúng ta phải – không được phân tách chúng khỏi nhau – biện phân những cấp độ khác biệt mà nhờ đó, Thiên Chúa giới thiệu cho nhân loại biết về ơn hiệp thông với Ngài. Theo kế hoạch giáo dục của Thiên Chúa dành cho nhân loại, trật tự của các thụ tạo ấy phát triển theo từng bước để đạt tới ơn cứu độ. Khoa sư phạm của Thiên Chúa đối với nhân loại hàm chứa trong việc này: trật tự của các thụ tạo phát triển từng bước trong trật tự của ơn cứu độ. Và như thế, điều mới mẻ nơi Bí Tích Hôn Phối Ki-tô giáo cũng phải được hiểu trong sự liên tục của hôn nhân tự nhiên kể từ lúc bắt đầu lịch sử nhân loại. Và vì vậy, ở đây người ta nhận ra nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa kể cả trong thế giới thụ tạo lẫn trong lối sống Ki-tô giáo. Trong thế giới thụ tạo: Vì tất cả đều được tác thành thông qua Chúa Ki-tô cũng như trong Chúa Ki-tô (xc. Col 1, 16), do đó các Ki-tô hữu nên “khám phá ra những hạt giống của Lời, với niềm vui và sự tôn kính (…), mà những hạt giống ấy được cất giấu trong thế giới thụ tạo. Nhưng họ cũng nên nhận ra quá trình biến đổi sâu xa mà nó đang diễn ra trong các dân tộc ấy“ (AG. 11). Trong lối sống Ki-tô giáo: trong mối quan hệ này, người Ki-tô hữu được đặt vào trong Giáo hội nhờ Bí Tích Thanh Tẩy, được thúc đẩy bởi Giáo hội tại gia, tức gia đình của mình, người Ki-tô hữu bước vào trong một “tiến trình năng động qua từng cấp độ tương ứng với sự thu nạp đang triển nở của ân sủng Thiên Chúa“ (Familiaris Consortio, 9), thông qua việc thường xuyên quay về lại với Đức Ái, mà Đức Ái ấy giải thoát khỏi tội lỗi cũng như ban tặng sự sống dồi dào.
14. Chính Chúa Giê-su đã xác định mối liên kết gắn bó không thể chia tách giữa người chồng và người vợ, khi Ngài nói về kế hoạch sáng tạo dành cho đời sống hôn nhân, và do đó Ngài lập luận rằng: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu“ (Mt. 19, 8). Sự bất khả phân ly của hôn nhân [“Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly“ (Mt. 19, 6)] không được hiểu như là một chiếc “ách“ được đặt lên con người, nhưng như một ân sủng đối với những người được liên kết trong hôn nhân. Bằng phương cách ấy, Chúa Giê-su đã chỉ cho thấy sự tốt lành của Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành với con đường của nhân loại, chữa lành những con tim chai cứng, biến đổi chúng nhờ vào ân sủng của Ngài, cũng như định hướng cho chúng trên con đường Thập Giá, và trên căn nguyên của chúng như thế nào. Có thể thấy tấm gương của Chúa Giê-su một cách rõ ràng từ trong các sách Tin Mừng, Ngài là mẫu gương của Giáo hội. Chính Chúa Giê-su đã chấp nhận một gia đình, Ngài đã thực hiện dấu chỉ đầu tiên của mình tại tiệc cưới Ca-na, Ngài đã công bố sứ điệp về tầm quan trọng của hôn nhân như là sự thành toàn của công cuộc mạc khải, mà nó phục hồi nguyên trạng kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (Mt. 19, 3). Nhưng đồng thời, Chúa Giê-su đã thực hành giáo huấn được công bố, và do đó đã mạc khải ý nghĩa đích thực của lòng khoan hậu. Điều đó có thể thấy một cách rõ ràng từ những cuộc gặp gỡ của Ngài với những người Samaria (Ga. 4, 1-30), và với người phụ nữ ngoại tình (Ga. 8, 1-11), qua đó, bằng một tình yêu đầy tràn đối với con người tội lỗi, Chúa Giê-su đã dẫn họ tới với sự hoán cải và sự sám hối như là điều kiện đối với ơn tha thứ [“Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa!“].
Gia đình trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa
15. Những lời về đời sống vĩnh cửu mà Chúa Giê-su đã để lại cho các môn đệ của Ngài, khép lại giáo huấn về đời sống hôn nhân và gia đình. Giáo huấn ấy của Chúa Giê-su làm cho chúng ta nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa trong ba giai đoạn có tính nền tảng. Ngay từ sự khởi đầu của kế hoạch này, gia đình nguyên thủy đã xuất hiện, và với gia đình ấy, Thiên Chúa – Đầng Sáng Tạo – đã an bài để cuộc hôn nhân nguyên thủy giữa A-đam và E-và trở nên nền tảng vững chắc cho gia đình. Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người không chỉ với tính cách là nam hay là nữ (St 1, 27), nhưng Ngài cũng đã chúc phúc cho cả hai, để họ trở nên phong nhiêu và tăng trưởng (St 1, 28). Vì thế, “người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt“ (St 2, 24). Sự hiệp nhất này đã bị gây thương tổn bợi tội lỗi, và dẫn tới hình thức mang tính lịch sử của hôn nhân trong Dân Chúa mà ông Mô-sê đã trao cho họ khả năng được phép ly dị (xc. Đnl 24, 1tt.). Điều này vẫn còn là cách thức thực hành phổ biến trong thời Chúa Giê-su. Nhưng với cuộc giáng thế của Chúa Ki-tô, cũng như cuộc giao hòa với thế gian tội lỗi mà Ngài đã thực hiện thông qua cái chết cứu độ của Ngài, triều đại của Mô-sê đã chấm dứt.
16. Thiên Chúa, Đấng đã giao hòa tất cả trong chính Ngài, đã làm cho hôn nhân và gia đình trở về lại với thể thức nguyên thủy của chúng (xc. Mc 10, 1-12). Chúa Giê-su đã giải thoát hôn nhân và gia đình (xc. Eph 5, 21-32) và tái phục hồi chúng theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, theo mầu nhiệm mà bất cứ Tình Yêu nào cũng bắt nguồn từ đó. Khế ước hôn nhân mà nó được an bài trong công cuộc sáng tạo cũng như được mạc khải trong thánh sử, tiếp nhận sự mạc khải trọn vẹn về ý nghĩa của nó trong Chúa Ki-tô và Giáo hội của Người. Nhờ Chúa Ki-tô, hôn nhân và gia đình tiếp nhận ân sủng không thể cải biến để làm chứng cho Tình Yêu của Thiên Chúa, cũng như để sống với tư cách là sự hiệp nhất. Tin Mừng Gia Đình là một thành tố trong lịch sử thế giới, kể từ lúc con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa (xc. St 1, 26-27) tới sự thành toàn của mầu nhiệm hiệp thông trong Chúa Ki-tô vào lúc cùng tận của thời gian với tiệc cưới của Chiên Con (xc. Kh. 19, 9; ĐTC Gio-an Phao-lô II, Bài Giáo Lý về Tình Yêu nhân loại).
Gia đình trong các văn bản của Giáo Hội
17. “Trong suốt nhiều thế kỷ, Giáo hội đã không bao giờ để cho Giáo huấn thường xuyên về hôn nhân và gia đình bị khuyết thiếu. Một trong những hình thức diễn tả cao nhất của giáo huấn này đã được trình bày trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) của Công Đồng Vatican II. Hiến Chế này đã dành hẳn một chương để khích lệ phẩm giá của hôn nhân và gia đình (xc. GS, 47-52). Ở đây, hôn nhân được định nghĩa như là mối hiệp thông của cuộc sống và Tình Yêu (xc GS, 48), cùng lúc đó, Tình Yêu được đặt trong trung tâm của gia đình, và đồng thời chân lý của Tình Yêu này đã được biểu lộ khi chứng kiến những hình thức khác nhau của khuynh hướng đơn giản hóa sự vật bằng quan điểm cho rằng, tổng thể là phép cộng đơn thuần của từng thành phần, như chúng đang tồn tại trong nền văn hóa ngày nay. “Tình Yêu đích thực giữa người vợ và người chồng“ (GS, 49) bao gồm sự trao hiến chính bản thân mình cho nhau, và theo kế hoạch của Thiên Chúa, cũng bao hàm chiều kích và sự hưng phấn thuộc về tính dục, cũng như thống nhất chúng (xc. GS, 48-49). Vượt xa vấn đề đó, Hiến Chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) ở số 48 đã nhấn mạnh tới sự bén rễ sâu của đời sống hôn nhân trong Chúa Ki-tô: Chúa Ki-tô “gặp gỡ đôi vợ chồng Ki-tô giáo trong Bí Tích Hôn Phối“, và lưu lại bên họ. Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người, Ngài đã tiếp nhận Tình Yêu nhân loại, thanh tẩy Tình Yêu ấy và đưa nó đến với sự viên mãn, và với Thần Khí của Ngài, ban cho cặp vợ chồng khả năng để sống trong Tình Yêu đã được Ngài làm cho nên viên mãn, bằng cách Ngài băng qua toàn bộ cuộc sống với Đức Tin, niềm Hy Vọng và Tình Yêu của họ. Với phương cách ấy, đôi vợ chồng có thể được coi là đã được thánh hiến và sẽ kiến tạo nên thân mình Chúa Ki-tô nhờ vào một đặc sủng riêng, bằng cách họ hình thành nên một Giáo hội tại gia (xc. LG, 11). Dó đó, Giáo hội nhìn vào gia đình Ki-tô giáo, tức gia đình đang biểu lộ chính mình trong một cách thế hoàn toàn đặc biệt, để hiểu về mầu nhiệm riêng của mình trong sự viên mãn“ (Instrumentum Laboris, 4).
18. “Cùng với cách nhìn của Công Đồng Vatican II, quyền giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng đã đào sâu hơn nữa giáo huấn về đời sống hôn nhân và gia đình. Đặc biệt là Đức Phao-lô VI, với Thông Điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người), đã đề cao mối liên kết nội tại giữa tình yêu hôn nhân và việc tiếp tục trao đi sự sống trong ánh sáng. Đức Tân Hiển Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, qua các bài Giáo Lý của Ngài về Tình Yêu Nhân Loại, qua bức thư gửi tới các gia đình (Gratissimam Sane), và trước hết, qua Tông Huấn Familiaris Consortio (Mối quan hệ hỗ tương trong gia đình), đã gửi đến gia đình một mối quan tâm đặc biệt. Trong các văn kiện ấy, Đức Gio-an Phao-lô II đã mô tả gia đình như là “con đường của Giáo hội“, và đã trình bày một cái nhìn tổng quan về ơn gọi của người chồng và người vợ trước Tình Yêu. Đồng thời Ngài cũng đã đưa ra những đường lối có tính nền tảng đối với công tác mục vụ gia đình cũng như đối với sự hiện diện của gia đình trong cộng đồng xã hội. Trước hết, trong mối liên hệ với Tình Yêu hôn nhân (xc. FC, 13), Ngài đã phác họa ra những cách thế mà trong đó đôi vợ chồng đón nhận ân sủng của Thần Khí Chúa Ki-tô trong Tình Yêu hỗ tương của mình, cũng như sống ơn gọi nên thánh của mình“ (Instrumentum Laboris, 5).
19. “Trong Thông Điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa Là Tình Yêu), Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã tái sáng tỏ hóa để tài về chân lý của Tình Yêu giữa người chồng và người vợ, mà đề tài đó chỉ hoàn toàn trở nên rõ ràng trong ánh sáng của Tình Yêu Chúa Ki-tô chịu đóng đinh (Deus Caritas est, 2). Đức nguyên Giáo Hoàng đã nhấn mạnh rằng: “Cuộc hôn nhân được đặt căn cứ trên một Tình Yêu duy nhất và triệt để, sẽ trở nên sự diễn tả về mối tương quan của Thiên Chúa đối với dân Người và ngược lại: cách thức, như Thiên Chúa yêu thương, sẽ trở thành thước đo cho Tình Yêu nhân loại“ (Deus Caritas est, 11). Liên quan tới điều đó, Thông Điệp Caritas in Veritate (Đức Ái trong Chân Lý) đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của Tình Yêu như là nguyên lý của cuộc sống trong cộng đồng xã hội (xc. Caritas in Veritate, 44), nơi mà người ta học biết kinh nghiệm về phúc lợi cộng đồng“ (Instrumentum Laboris, 6).
20. “Trong Thông Điệp Lumen fidei (Ánh Sáng Đức Tin), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã làm sáng tỏ mối tương quan của gia đình với Đức Tin, và Ngài viết: “Gặp gỡ Chúa Ki-tô và để cho mình được khích lệ bởi tình yêu của Ngài, cũng như để cho mình tiếp tục được dẫn đưa tới đường chân trời của cuộc sống, và trao cho nó một niềm hy vọng vững chắc mà niềm hy vọng đó không hề gây ra sự lụi tàn. Đức Tin không phải là nơi trú ẩn dành cho những người thiếu sự can đảm, hơn nữa, Đức Tin làm cho cuộc sống được mở rộng. Đức Tin cho phép khám phá ra một ơn gọi lớn lao, tức ơn gọi để yêu thương, và Đức Tin bảo đảm rằng, Tình Yêu ấy đáng tin cậy và xứng đáng để tự hiến bản thân mình cho nó, vì nền tảng của nó được đặt trên sự trung tín với Thiên Chúa, nó mạnh mẽ hơn tất cả mọi yếu hèn của chúng ta“ (Lumen Fidei, 53) (Instrumentum Laboris, 7).
Sự bất khả phân ly của hôn nhân và niềm vui của cuộc sống chung
21. Ân sủng hỗ tương được thể hiện trong Bí Tích Hôn Phối, có nguồn cội của nó trong ân sủng của Bí Tích Thanh Tẩy, mà Bí Tích này đặt nền tảng cho giao ước giữa Chúa Ki-tô và Giáo hội của Người. Trong việc đón nhận nhau và với ân sủng của Chúa Ki-tô, đôi vợ chồng đoan hứa sẽ trao hiến trọn vẹn cho nhau, chung thủy và mở ra cho cuộc sống. Họ thừa nhận những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban tặng cho họ như là những thành tố cấu thành nên đời sống hôn nhân, và nhân danh Giáo hội, nhận lấy trách nhiệm của mình đối với nhau một cách nghiêm túc. Trong Đức Tin, việc đón nhận những điều tốt lành của hôn nhân như là những trách vụ, sẽ trở nên có thể. Những trách vụ ấy có thể được thực hiện tốt hơn nhờ vào ân sủng của các Bí Tích. Thiên Chúa thánh hóa Tình Yêu của đôi vợ chồng và chứng thực về sự bất khả phân ly của họ, bằng cách giúp họ sống chung thủy với nhau cũng như trao hiến bản thân cho nhau, và mở ra với cuộc sống. Vì thế, Giáo hội nhìn đôi vợ chồng như là con tim của toàn gia đình, và về phía mình, gia đình ấy hướng cái nhìn lên Chúa Giê-su.
22. Trong viễn tượng ấy, Công Đồng Vatican II đã thực hiện cho mình một học thuyết riêng mang tính Tông truyền, theo đó, toàn thể thế giới thụ tạo đều được hình dung trong Chúa Ki-tô và quy hướng về Người; bằng tất cả sự kính trọng của mình, Công Đồng đã nói về hôn nhân tự nhiên cũng như về những yếu tố đầy giá trị mà chúng có sẵn trong các tôn giáo khác, bất chấp những ranh giới cũng như những hạn chế của các tôn giáo ấy (xc. Nostra Aetate, 2). Sự hiện hữu của “semina Verbi“ (Hạt Giống Lời) trong các nền văn hóa (xc Ad Gentes, 11) cũng có thể được ứng dụng từng phần đối với đời sống hôn nhân và gia đình trong nhiều nền văn hóa không phải là Ki-tô giáo. Như thế, cũng có những yếu tố hợp pháp nơi hôn nhân ngoài Ki-tô giáo – cho tới bao lâu chúng vẫn còn đặt nền tảng trên mối tương quan lâu bền và chân thực giữa người chồng và người vợ -, tức những yếu tố mà trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta đều coi như là được định hướng nhắm vào hôn nhân. Với cái nhìn của mình về sự khôn ngoan nhân loại của các dân tộc cũng như của các nền văn hóa, Giáo hội cũng nhìn nhận những gia đình ấy như là đơn vị nền tảng vừa cần thiết và cũng vừa phong phú trong cuộc sống chung của con người.
Chân lý và vẻ đẹp của gia đình cũng như lòng khoan hậu đối với những gia đình bị tổn thương và yếu nhược
23. Giáo hội nhìn về các gia đình đang sống trong sự trung tín với giáo huấn của Tin Mừng, bằng một niềm vui lớn lao và một niềm an ủi sâu xa. Giáo hội cám ơn những gia đình ấy về chứng tá của họ, cũng như khuyến khích họ tiếp tục việc làm chứng đó. Nhờ vào những gia đình ấy, vẻ đẹp của hôn nhân bất khả xâm phạm cũng như sự chung thủy luôn bền vững của họ đã trở nên đáng tin cậy. Trong gia đình mà người ta có thể gọi là “Giáo hội tại gia“ (LG, 11), kinh nghiệm đầu tiên mang tính Ki-tô giáo của sự hiệp thông giữa những con người sẽ dần lớn lên, mà trong kinh nghiệm đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh sẽ bừng sáng thông qua những ân sủng. “Ở đây người ta học biết sự kiên định và niềm vui bên công việc, học biết về Tình Yêu huynh đệ, học biết sự bao dung của những lần tha thứ không ngừng lập đi lập lại, và tiên vàn, học biết sự phụng thờ Thiên Chúa trong cầu nguyện và trong sự hiến trao cuộc sống” (Sách GLHTCG, số 1657). Thánh Gia Na-za-reth là một mẫu gương tuyệt vời của các gia đình, nhờ vào ngôi trường gia đình Thánh Gia, chúng ta “hiểu được lý do tại sao chúng ta phải giữ một sự kỷ luật về tinh thần khi chúng ta đi theo giáo huấn của Tin Mừng Chúa Giê-su, cũng như muốn trở nên những người môn đệ của Chúa Ki-tô“ (ĐTC Phao-lô VI, Diễn Văn tại Na-za-reth ngày 05.01.1964). Tin Mừng về gia đình cũng chăm sóc từng hạt giống mà chúng chưa đạt tới được sự sinh trưởng, và phải chăm sóc từng ngọn cây đã bị héo khô, cũng như không được phép xao nhãng hay bỏ mặc chúng.
24. Mặc dù Giáo hội nhận thức rằng, không có một khế ước hôn nhân nào khác đối với những người đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, ngoài khế ước mang tính Bí Tích, và bất cứ sự rạn nứt nào của Bí Tích này cũng đều trái ngược với chính Thánh Ý của Thiên Chúa, nhưng với tư cách là nữ giáo viên đáng tin cậy và cũng là một người Mẹ đầy chu đáo, Giáo hội cũng biết về những điều yếu đuối nơi nhiều con cái của mình, mà những người con ấy đang thực hiện cuộc hành trình Đức Tin một cách nặng nề. “Vì thế, để không giảm nhẹ giá trị của Tin Mừng vào trong một ý tưởng được vạch sẵn, người ta phải đồng hành với những mức độ yếu đuối có thể của những con người đang được tái thiết mỗi ngày, với lòng khoan hậu và sự kiên nhẫn (…). Một bước đi nho nhỏ trong giữa những giới hạn lớn lao của con người lại có thể làm cho Thiên Chúa hài lòng hơn là một cuộc sống cụ thể theo dáng bên ngoài của một con người mà họ trải qua ngày sống của mình nhưng không hề đụng chạm tới những khó khăn đáng kể nào. Tất cả mọi người đều phải được động chạm tới bởi niềm an ủi cũng như bởi sự khích lệ từ Tình Yêu cứu chuộc của Thiên Chúa, Đấng tác động một cách đầy nhiệm màu trong mỗi con người, vượt quá những khiếm khuyết hay những thiếu sót của họ“ (Evangelii Gaudium, 44).
25. Theo cách tiếp cận mục vụ của mình, Giáo hội có sứ mạng phải chỉ ra cho những người mà họ đã chỉ được lập gia đình theo tính cách dân sự, hay đã ly dị và đã tái hôn, hoặc chỉ sống chung với nhau một cách đơn thuần, về khoa sư phạm của ân sủng Thiên Chúa trong cuộc sống của họ, cũng như giúp họ đạt tới được sự thành toàn trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đi theo ánh sáng của Chúa Ki-tô, mà ánh sáng của Người đang chiếu giãi trên bất cứ con người nào (xc. Ga. 1, 9; Gaudium et Spes, 22), với trọn Tình Yêu, Giáo hội hướng về bất cứ ai đang tham dự vào đời sống của Giáo hội bằng một cách thế vẫn còn dang dở. Giáo hội nhìn nhận rằng, ân sủng của Thiên Chúa cũng vẫn đang hoạt động trong cuộc sống của họ, và khuyến khích họ hãy thực hiện những điều tốt lành hầu quan tâm chăm sóc cho nhau với trọn tình yêu, cũng như thi hành nhiệm vụ của họ đối với cộng đồng xã hội mà họ đang sống và đang làm việc trong đó.
26. Với sự lo âu, Giáo hội hướng cái nhìn về sự bất trung của nhiều người trẻ đối với lời thề ước hôn phối của họ. Giáo hội đau khổ biết chừng nào trước việc nhiều tín hữu nhanh chóng hủy bỏ khế ước đã được ký kết và chuyển sang thực hiện một khế ước mới. Các tín hữu vẫn thuộc về Giáo hội ấy, cần tới một sự chăm sóc mục vụ đầy khoan hậu và khích lệ, hầu giúp họ có được sự cân bằng để biện phân những tình huống đó. Những tín hữu còn trẻ nên được khích lệ để không ngập ngừng trước sự phong phú mà Bí Tích Hôn Phối mang đến cho sự nhận thức của họ về Tình Yêu, được tăng cường bởi ơn trợ giúp của ân sủng Chúa Ki-tô cũng như khả năng có thể tham dự một cách hoàn toàn vào với đời sống Giáo hội.
27. Trong ý nghĩa ấy, công cuộc mục vụ dành cho các gia đình chứa đựng một chiều kích mới, bằng cách dấn thân cho thực tại của hôn nhân dân sự giữa người chồng và người vợ, dấn thân cho đời sống hôn nhân theo những phong tục tập quán xưa cũ, và trước hết là với sự biện phân thỏa đáng – cũng như dấn thân cho các cặp vợ chồng sống chung nhưng không thành hôn. Nếu một sự kết hợp thông qua một khế ước công khai và rõ ràng đòi hỏi tính bền vững một cách hiển nhiên, nếu sự kết hợp ấy được in dấu bởi mối thiện cảm sâu xa, bởi trách nhiệm đối với con cái, bởi khả năng tồn tại trước những thử thách, thì điều đó có thể trở thành lý do để đồng hành với họ trên con đường dẫn tới Bí Tích Hôn Phối. Nhưng rất thường khi sự quyết định cho cuộc sống chung sẽ bị thất bại nếu như không có bất cứ một kế hoạch nào cho một cuộc lập gia đình trong tương lại, hay không có bất cứ một dự tính nào cho một cuộc kết hợp có tính định chế.
28. Trong sự hòa hợp với lòng thương xót của Chúa Ki-tô, Giáo hội phải đồng hành một cách ân cần và đầy chu đáo đối với những người con yếu đuối nhất của mình, tức những người đang phải đau khổ vì Tình Yêu bị gây tổn thương và bị lạc mất, và phải trao cho họ sự vững tin cũng như niềm hy vọng, giống như ánh sáng của một ngọn hải đăng trong một hải cảng, hay của một bó đuốc được mang đến cho con người để soi sáng cho những ai đã bị lạc hướng hay đang quay quắt trong một trận cuồng phong. Trong việc ý thức rằng, lòng khoan hậu to lớn nhất hàm chứa trong việc nói về sự thật với tình yêu thương, điều đó cần thiết đối với chúng ta hơn là sự thương hại. Tình Yêu khoan hậu cuốn hút và làm cho nên hiệp nhất thế nào thì nó cũng biến đổi và nâng cao như thế. Tình Yêu ấy mời gọi hoán cải. Và như thế chúng ta cũng hiểu được thái độ của Chúa Giê-su, Đấng đã không kết án người phụ nữ ngoại tình, nhưng đã khích lệ bà để bà đừng phạm tội nữa (xc. Ga. 8, 1-11).
MỤC III
SỰ QUAN TÂM: NHỮNG VIỄN TƯỢNG MỤC VỤ
Công bố Tin Mừng về gia đình hôm nay trong các bối cảnh khác nhau của cuộc sống
29. Cuộc trao đổi của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã bận tâm tới một số mong muốn khẩn thiết về mục vụ mà nó phải được trao phó riêng cho các Giáo hội Đông Phuơng trong sự hiệp thông được cụ thể hóa “cum Petro et sub Petro“ (cùng với Phê-rô và trong Phê-rô). Việc công bố Tin Mừng về gia đình thể hiện tính cấp bách đối với việc tái rao giảng Tin Mừng. Giáo hội được kêu gọi thực thi việc tái rao giảng Tin Mừng ấy với sự trìu mến của một người Mẹ, và với tính cách rõ ràng của một nữ giáo viên (xc. Eph 4, 15), trong sự trung tín với Kenosis (sự tự hủy) đầy khoan hậu của Chúa Ki-tô. Chân lý tiếp nhận xác thể trong sự yếu đuối của con người, không phải để kết án nó, nhưng để cứu độ nó (xc. Ga 3, 16-17).
30. Việc rao giảng Tin Mừng là một trách nhiệm của toàn dân Chúa, và của bất cứ ai, theo nhiệm vụ và đoàn sủng riêng. Không có chứng tá vui mừng của các cặp vợ chồng và của các gia đình, tức của các Giáo hội tại gia, thì việc loan báo Tin Mừng – ngay cả khi nó được thực hiện một cách hợp lý – cũng vẫn sẽ có nguy cơ ở lỳ mãi trong sự mơ hồ, hay có nguy cơ rơi xuống đại dương của những lời nói mà nó là dấu hiệu đặc trưng của cộng đồng chúng ta (xc. Novo Millennio Ineunte, 50). Các Nghị Phụ đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, thông qua hiệu năng của ân sủng nơi Bí Tích Hôn Phối, các gia đình Ki-tô giáo được kêu gọi để trở nên chính chủ thể năng động của công cuộc mục vụ chăm sóc gia đình.
31. Điều qua trọng nhất là việc nhấn mạnh đến tính ưu việt của ân sủng và những khả năng mà Chúa Thánh Thần ban tặng trong Bí Tích. Vấn đề nằm ở chỗ là, làm sao để hiểu được rằng, Tin Mừng về Gia Đình là một niềm vui mà nó “lấp đầy con tim và toàn bộ cuộc sống“, vì trong Chúa Ki-tô, chúng ta đã được giải thoát “khỏi tội lỗi, khỏi sự buồn rầu, khỏi sự trống vắng nội tâm và khỏi cảnh cô đơn“ (Evangelii Gaudium, 1). Trong ánh sáng của dụ ngôn người đi gieo giống (xc. Mt 13, 3), nhiệm vụ của chúng ta chính là việc cộng tác với hạt giống: việc còn lại là công việc của Thiên Chúa. Người ta cũng không được phép quên rằng, Giáo hội, tức người rao giảng về gia đình, chính là dấu chỉ của sự chống đối.
32. Vì thế, một cuộc trở về với sứ vụ truyền giáo cũng đang được đòi hỏi từ toàn thể Giáo hội. Người ta không được đứng lỳ ra mãi trong một việc loan báo thuần lý thuyết, mà nó bị tách rời khỏi những vấn đề thực tế của nhân loại. Không bao giờ được phép quên rằng, cuộc khủng hoảng Đức Tin đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng về hôn nhân và gia đình, và như là hệ quả, việc tiếp tục truyền giao Đức Tin từ các bậc cha mẹ sang con cái, thậm chí còn thường xuyên bị gián đoạn. Khi chứng kiến một Đức Tin mạnh mẽ, những quan điểm văn hóa mà chúng làm yếu nhược gia đình và hôn nhân, sẽ không thể chiến thắng.
33. Điều ngược lại cũng liên quan đến cả cách nói, để chúng thực sự đạt tới được sức mạnh của ý nghĩa. Việc loan báo Tin Mừng phải được thực hiện làm sao để người ta có thể hiểu được rằng, Tin Mừng về gia đình chính là câu trả lời cho những trông chờ sâu kín nhất của con người: trên phẩm giá của họ cũng như trong việc hiện thực hóa các mối quan hệ hỗ tương, trong sự hiệp thông và trong sự phong nhiêu. Không đơn thuần chỉ là việc đưa ra một khuôn mẫu có tính chuẩn mực, nhưng còn là việc giới thiệu các giá trị mà chúng đáp lại sự khát mong tương ứng về những điều vừa nêu; đây là một sự khát mong mà trong thời đại hôm nay người ta đang bắt gặp trong chính những quốc gia đã bị tục hóa nhất.
34. Lời Chúa là nguồn mạch của đời sống cũng như của linh đạo gia đình. Toàn bộ công cuộc mục vụ gia đình sẽ được tạo hình từ bên trong và phải cho phép các thành viên của Giáo hội tại gia được phát triển nhờ vào việc đọc Lời Chúa theo cách thức chiêm ngưỡng, và theo cách của Giáo hội. Lời Chúa không chỉ là Tin Mừng đối với cuộc sống riêng tư của con người, nhưng cũng còn là một tiêu chuẩn của sự phán đoán, cũng như là ánh sáng giúp biện phân những thách đố khác nhau, mà với chúng, các cặp vợ chồng và các gia đình đang phải bận tâm.
35. Đồng thời, nhiều Nghị Phụ đã nhấn mạnh đến một sự tiếp cận tích cực trước sự phong phú của những kinh nghiệm tôn giáo khác nhau mà không hề giấu giếm những khó khăn. Trong những thực tại tôn giáo khác biệt ấy, và trong sự khác biệt to lớn về văn hóa mà chúng để lại dấu ấn nơi các quốc gia, việc coi trọng trước hết đối với những khả năng tính cực cũng như việc định giá trong ánh sáng của Tin Mừng, về những giới hạn và những khuyết phạm, là điều hợp lý.
36. Đời sống hôn nhân Ki-tô giáo là một ơn gọi mà người ta đón nhận thông qua một sự chuẩn bị hợp lý trên con đường Đức Tin, và với một khả năng đánh giá chín chắn. Đời sống ấy không chỉ được hiểu như là truyền thống văn hóa hay là một sự đòi hỏi mang tính xã hội hoặc luật pháp. Vì thế, người ta phải phát triển những con đường để đồng hành với con người và đồng hành với các cặp vợ chồng, đến độ sự dàn xếp giữa nội dung của Đức Tin với kinh nghiệm về cuộc sống sẽ được gắn kết, mà sự dàn xếp ấy sẽ giới thiệu toàn bộ sự hiệp thông của Giáo hội.
37. Sự cần thiết trong việc khôi phục một cách triệt để các thực hành mục vụ trong ánh sáng của Tin Mừng về gia đình, vẫn luôn được nhấn mạnh, hầu thắng vượt những cách nhìn theo chủ nghĩa cá nhân, mà hiện tại chúng vẫn đang còn thể hiện các đặc tính của chúng. Vì thế, cần phải kiên trì hơn nữa trước một cuộc canh tân đối với việc đào tạo các Linh Mục, Phó tế, và các Giáo Lý viên cũng như các cộng tác viên khác trong việc mục vụ, thông qua một sự liên hệ mạnh mẽ hơn nữa đối với các gia đình.
38. Cũng trong một cách thế giống như vậy, sự cần thiết của một cuộc loan báo Tin Mừng cũng phải được nhấn mạnh, mà cuộc loan báo Tin Mừng ấy công khai tố giác những lệ thuộc đối với nền văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế, mà sự ảnh hưởng một cách mãnh liệt của chúng trên cách lý luận manh tính thị trường mà nó đang ngăn cản một đời sống gia đình đích thực, cũng như đang dẫn đưa tới với những sự phân biệt đối xử, tới sự nghèo túng, tới việc bị đẩy ra bên lề cuộc sống và tới bạo lực như thế nào. Vì thế, một cuộc đối thoại và một sự cộng tác với những cấu trúc xã hội cần phải được phát triển, và nó có giá trị trong việc khuyến khích các Giáo dân cũng như hỗ trợ họ tham gia vào trong những lãnh vực văn hóa, chính trị và xã hội, với tư cách là các Ki-tô hữu.
Hướng dẫn cặp uyên ương trên con đường chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân
39. Thực tại mang tính giai tầng xã hội và những thách đố mà các gia đình ngày nay đang phải đối diện, thúc đẩy một sự tham gia lớn hơn nữa cho toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu, hầu chuẩn bị cho những đôi uyên ương trước đời sống hôn nhân. Điều đó có giá trị trong việc nhắc nhớ đến tầm quan trọng của các phẩm hạnh. Trong số những phẩm hạnh đó, sự trinh bạch tỏ ra như là điều kiện tiên quyết đầy giá trị đối với một sự phát triển đích thực của Tình Yêu giữa những con người. Với cái nhìn về sự cần thiết ấy, các Nghị Phụ đã tán thành về việc đưa ra lời kêu gọi hãy liên kết với toàn thể cồng đồng một cách mạnh mẽ hơn nữa và hãy ưu tiên cho việc làm chứng của chính các gia đình. Vả lại, sự chuẩn bị cho đời sống hôn nhân nên được bén rễ trên con đường tiến tới việc gia nhập Ki-tô giáo, trong đó, mối liên hệ giữa đời sống hôn nhân và Bí Tích Thánh Tẩy cũng như các Bí Tích khác được nhấn mạnh. Đồng thời, sự cần thiết của những khóa học đặc biệt nhằm chuẩn bị cho sự kết hôn đang chờ để được hoàn tất, cũng phải được nhấn mạnh, mà những khóa học ấy tạo điều kiện để có được một kinh nghiệm thực sự về việc tham dự vào với đời sống Giáo hội, cũng như đào sâu hơn nữa các khía cạnh khác biệt của đời sống gia đình.
Đồng hành với những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân
40. Những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân là một giai đoạn quan trọng và khó khăn, mà trong thời gian này đôi vợ chồng sẽ lớn lên trong sự ý thức về những thách đố và về ý nghĩa của đời sống hôn nhân. Điều này sẽ dẫn tới sự đòi hỏi đối với một cuộc đồng hành mục vụ, mà cuộc đồng hành này được tiếp tục thực hiện sau việc cử hành Bí Tích (vgl. Familiaris Consortio, phần III). Sự hiện diện của những cặp vợ chồng có kinh nghiệm trong công tác mục vụ này chứng tỏ cho thấy tầm quan trọng to lớn của vấn đề. Giáo xứ được hiểu như là nơi mà các cặp vợ chồng có kinh nghiệm có thể để cho những đôi vợ chồng trẻ hơn tùy nghi tham khảo ý kiến, có thể dưới sự giúp đỡ của những hiệp hội, của các phong trào trực thuộc Giáo hội và của những cộng đồng mới. Các cặp vợ chồng phải được khích lệ để có thái độ đúng đắn trong việc đón nhận con cái như là một hồng ân to lớn. Đồng thời cũng có ý nghĩa trong việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của linh đạo về gia đình, nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và việc tham dự hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa Nhật. Các đôi vợ chồng nên được khích lệ để gặp gỡ nhau thường xuyên, hầu thúc đẩy sự phát triển đời sống tinh thần cũng như tình liên đới trong những thách đố cụ thể của cuộc sống. Phụng Vụ, đời sống cầu nguyện và Bí Tích Thánh Thể đối với các gia đình, đặc biệt là vào ngày Lễ Hôn Phối, được đề cập đến như là một sự quan trọng nhằm thúc đẩy việc loan báo Tin Mừng.
Công tác mục vụ cho những người chung sống trong một cuộc hôn nhân dân sự hay không có hôn thú
41. Trong lúc Thượng Hội Đồng Giám Mục vẫn đang tiếp tục công bố và khuyến khích đời sống hôn nhân Ki-tô giáo, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng khích lệ một sự biện phân mục vụ trước những tình huống khác nhau của nhiều người không còn sống thực tại này nữa. Việc bước vào trong một cuộc đối thoại mục vụ với những con người ấy hầu có thể nhấn mạnh đến các yếu tố trong cuộc sống của họ, là điều thật quan trọng. Những yếu tố được nhắc tới ở đây có thể dẫn tới một sự mở ra lớn hơn đối với Tin Mừng về hôn nhân trong sự viên mãn của nó. Các mục tử phải nhận ra được các yếu tố mà chúng có thể thôi thúc việc loan báo Tin Mừng cũng như có thể thôi thúc sự phát triển cả về nhân bản lẫn tâm linh. Một sự nhạy cảm mới của công tác mục vụ ngày nay hàm chứa trong việc nhận thức được bất cứ yếu tố tích cực nào mà chúng có sẵn trong những cuộc hôn nhân dân sự, và – với sự biện phân thích đáng – trong cuộc sống chung không có hôn thú. Ngay cả khi chúng ta đề cao sứ điệp Ki-tô giáo với tất cả sự rõ ràng, thì chúng ta, qua việc giới thiệu về Giáo hội, trong tinh thần xây dựng, cũng phải chỉ ra những yếu tố trong bất cứ tình huống nào mà chúng chưa tương ứng hay không còn tương ứng với Giáo hội nữa.
42. Được chỉ cho thấy rằng, tại nhiều quốc gia, “con số những cặp đôi chung sống để ‚ad experimentum‘ (sống thử) nhưng không có việc tổ chức cưới xin, cả về phương diện Giáo hội lẫn phương diện dân sự, đang tăng lên“ (Instrumentum Laboris, 81). Nơi một số quốc gia, sự kiện ấy đang diễn ra trước hết là trong những cuộc hôn nhân truyền thống mà chúng được tán thành giữa các gia đình và thường được thực hiện trong nhiều chặng khác nhau. Trái lại, tại những quốc gia khác, con số những cặp hôn nhân, sau một cuộc chung sống lâu dài, muốn xin tổ chức một cuộc lễ cưới về phương diện Giáo hội, lại đang phát triển. Cuộc sống chung đơn giản thường được chọn lựa vì tâm lý chung là muốn chống lại những thể chế cũng như những cam kết dứt khoát, nhưng cũng vì một sự chờ mong trước một sự an toàn có tính sinh tồn (công việc và khoản thu nhập chắc chắn). Sau cùng, những cuộc phối hợp thực tế tại nhiều quốc gia khác lại nhiều vô kể, không phải chỉ vì những giá trị của gia đình và của đời sống hôn nhân bị từ chối, nhưng trước hết, còn vì việc thành hôn được coi như là một sự xa xỉ, đến độ sự nghèo túng vật chất đẩy người ta tới với những cuộc hôn phối thực tế ấy.
43. Tất cả những tình huống đó đều phải được giải quyết trong những phương thế mang tính xây dựng, bằng cách cố gắng biến chúng thành những cơ hội cho một con đường dẫn tới sự viên mãn của đời sống hôn nhân và gia đình, trong ánh sáng của Tin Mừng. Vấn đề ở đây là đón nhận và đi theo chúng với sự kiên nhẫn và tinh tế. Trong vấn đề này, chứng tá có tính hấp dẫn của các gia đình Ki-tô giáo thực sự, với tư cách là những chủ thể trong công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình, là điều rất quan trọng.
Chữa lành những gia đình bị tổn thương (những người đang sống trong sự chia ly, những người ly dị không tái kết hôn, những người ly dị tái kết hôn, những cha mẹ đơn thân)
44. Khi những cặp vợ chồng trải qua những khó khăn trong các mối tương quan của họ, họ phải có thể đặt lòng tin vào sự giúp đỡ cũng như sự đồng hành của Giáo hội. Sự mục vụ của tình bác ái tha nhân và của lòng nhân hậu được thực hiện nhằm tái cổ vũ các cá nhân, cũng như tái khôi phục các mối quan hệ. Kinh nghiệm cho thấy rằng, một tỷ lệ lớn các cuộc khủng hoảng hôn nhân đã được vượt qua nhờ vào một sự giúp đỡ hợp lý cũng như nhờ vào sức mạnh hòa giải của ân sủng trong một cách thế thỏa mãn. Việc có thể tha thứ và kinh nghiệm về sự tha thứ chính là một kinh nghiệm có tính căn bản trong cuộc sống gia đình. Sự tha thứ lẫn cho nhau của các đôi vợ chồng cho phép họ kinh qua một tình yêu mà nó hiện hữu luôn luôn và không bao giờ tan biến (xc. 1 Cor. 13, 8). Nhưng thỉnh thoảng cũng có chuyện một người đã đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa lại cảm thấy rất khó trong việc cố gắng để mình có được sức mạnh hầu có thể tha thứ một cách chân thành, mà sự tha thứ ấy canh tân con người.
45. Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự cần thiết của những quyết định can đảm về mục vụ đã trở nên rõ ràng. Các Nghị Phụ đã khẳng định một cách mạnh mẽ về sự trung tín đối với Tin Mừng gia đình, và đã nhận thức được rằng, sự chia tách và ly dị bao giờ cũng là một nỗi đớn đau, nó gây ra một sự đau khổ thẳm sâu đối với những cặp vợ chồng và những đứa con có liên quan. Do đó, các Nghị Phụ nhìn thấy tính cấp thiết của những con đường mục vụ mới mà chúng xuất phát từ hiện thực thực tế, nơi tính mỏng giòn của các gia đình, trong sự hiểu biết rằng, sự ly thân và sự ly dị thường “bị gánh chịu“ bởi sự đớn đau hơn là được chọn lựa một cách tự do. Đó là những tình huống khác nhau do những nhân tố vừa mang tính cá nhân lại cũng vừa mang tính văn hóa và kinh tế xã hội. Nó đòi hỏi một cái nhìn có tính biện phân như Đức Tân Hiển Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng đã từng giới thiệu (xc. Familiaris Consortio, 84).
46. Bất cứ gia đình nào cũng phải được lắng nghe, trước tiên là với sự kính trọng và với tình yêu, bằng cách người ta biến mình thành những người bạn đường, như Chúa Ki-tô đã thực hiện cho các môn đệ trên đường đến Emmaus. Đối với những tình huống ấy, những lời sau đây của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô có một ý nghĩa đặc biệt: “Giáo hội cần phải hướng dẫn các thành viên của mình – Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân – đi vào trong ´nghệ thuật của sự đồng hành` ấy, để tất cả thường xuyên học hỏi, hầu tự mình cúi xuống để chạm đến những đôi dép dưới những bàn chân, trước thánh địa của người khác (xc. Xh. 3, 5). Chúng ta phải mang đến cho lối sống của chúng ta nhịp điệu thuận lợi của sự quan tâm, với một cái nhìn đầy kính trọng từ lòng trắc ẩn, nhưng đồng thời cái nhìn đó cũng mang đến sự chữa lành, sự giải phóng, cũng như khích lệ sự trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo“ (Evangelii Gaudium, 169).
47. Một khả năng phán đoán đặc biệt là điều cần thiết để đồng hành mục vụ với những người đang ly thân, với những người ly dị và với những người đang bị bỏ mặc. Trước hết, sự đau khổ của những người mà họ đã phải chịu đựng trước sự ly thân hay ly dị một cách bất công, hoặc đang bị bỏ mặc, hay đang gượng gạo vì sự ngược đãi của người bạn đời, để từ bỏ cuộc sống chung, cần phải được ghi nhận và chú ý. Sự tha thứ cho sự bất công đã phải chịu đựng là điều không đơn giản, nhưng đó là một con đường mà nó được mở ra bởi ân sủng. Điều đó dẫn đến một sự cần thiết đối với một sự chăm sóc mục vụ hòa giải và kiến tạo bình an, thông qua những hoạt động đặc biệt để lắng nghe, mà những hoạt động đó được tổ chức nơi các Giáo phận. Trong một cách thế tương tự, phải được thường xuyên nhấn mạnh rằng, việc quan tâm đến những hậu quả của sự ly thân hay ly dị đối với con cái, mà trong bất cứ trường hợp nào, chúng vẫn đều là những nạn nhân vô tội của tình trạng này, bằng một cách thế chân thành và xây dựng, là điều thực sự cần thiết. Con cái không được phép trở thành “chủ thể của các cuộc tranh cãi“, thay vào đó, những con đường tốt nhất phải được tìm kiếm hầu thắng vượt những điều đang gây ra các chấn thương từ sự chia rẽ trong gia đình, và tạo điều kiện cho con cái có được một sự phát triển một cách hồn nhiên trong mức độ tối đa có thể. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, Giáo hội cũng sẽ phải luôn luôn nêu ra sự bất công mà nó rất thường nảy sinh từ tình trạng ly dị. Một sự quan tâm đặc biệt cũng được coi là sự đồng hành với những người cha hoặc những người mẹ đơn thân, mà trước hết, phải có sự hỗ trợ đối với những phụ nữ đang một mình gánh vác cả trách nhiệm nội trợ lẫn việc giáo dục con cái.
48. Một số lớn các Nghị Phụ đã nhấn mạnh tới sự cần thiết trong việc trình bày những cách thức mang tính dễ tiếp cận hơn, cũng như dễ thích ứng hơn với việc công nhận sự vô hiệu của hôn nhân, và khước từ hoàn toàn mọi cước phí có thể. Do đó, những đề nghị sau đây đã được đưa ra: hủy bỏ tính cần thiết của hai bản án tương đồng; khả năng ấn định một cơ quan hành chính dưới sự phụ trách của Giám mục Giáo phận; thủ tục tố tụng khẩn cấp trong những vụ bất thành sự một cách rõ ràng. Tuy nhiên, một số Nghị Phụ đã bày tỏ quan điểm chống lại những đề nghị vừa nêu, vì chúng sẽ không bảo đảm cho một bản án đáng tin cậy. Điều này được nhấn mạnh rằng, trong tất cả những trường hợp ấy, vấn đề nằm ở chỗ phải xác định được tính chân thật về sự hợp pháp của khế ước hôn nhân. Theo những đề nghị khác, phương án giải quyết nên được tính đến việc tạo thêm trọng lượng cho vai trò của Đức Tin mà các cặp hôn nhân đang có, với cái nhìn về tính hiệu lực của Bí Tích, mà qua đó không hề gây ra sự nguy hiểm, bởi trong số những người đã được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, tất cả các cuộc hôn nhân thành sự đều là một Bí Tích.
49. Với cái nhìn về một sự nghiêm minh trong quá trình hôn nhân, được đòi hỏi từ nhiều người, bên cạnh việc đào tạo đầy đủ cho các cộng tác viên – các Giáo sĩ cũng như những người Giáo dân -, mà họ ưu tiên dấn thân cho sứ vụ này, trách nhiệm của Giám mục Giáo phận cần phải được nhấn mạnh. Ngài có thể trao phó cho các tư vấn viên đã được chuẩn bị một cách thích đáng, họ sẽ tư vấn cho các bên về tính hợp pháp trong hôn nhân của họ một cách miễn phí. Những nhiệm vụ ấy có thể được trao cho một cơ quan hay cho những người có chuyên môn (xc. Dignitas Connubii, Art. 113, 1).
50. Những người ly dị nhưng không tái kết hôn, mà họ thường thực hiện những chứng tá đối với sự chung thủy của hôn nhân, nên được khích lệ để tìm thấy sự nuôi dưỡng trong Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích này sẽ nâng đỡ họ trong hoàn cảnh của họ. Các cộng đoàn địa phương và các vị mục tử cần phải đồng hành với những con người ấy một cách ân cần, đặc biệt là khi họ có con cái hay khi họ đang phải chịu đựng một sự túng thiếu nặng nề.
51. Ngay cả tình trạng của những người đã ly dị nhưng lại tái kết hôn cũng cần tới một sự nhận biết đầy ân cần và một sự đồng hành với sự kính trọng to lớn. Trong vấn đề này, bất cứ cách thức diễn đạt hay bất cứ thái độ nào khác cũng đều phải được ngăn ngừa. Đối với đời sống của cộng đoàn Ki-tô giáo, sự chăm sóc mục vụ này không có nghĩa là làm giảm sút Đức Tin của họ, hay làm giảm sút những chứng tá của họ về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Trái lại, nó diễn tả Đức Ái của họ đối với tha nhân ngay trong sự chăm sóc mục vụ này.
52. Các Nghị Phụ đã suy tư về khả năng cho phép những người đã ly dị nhưng tái kết hôn, được lãnh nhận Bí Tích Thống Hối và Bí Tích Thánh Thể. Nhiều Nghị Phụ đã kiên trì với quy luật hiện hành, và thực ra là, một mặt vì mối tương quan có tính cơ bản giữa sự tham dự vào Bí Tích Thánh Thể cũng như tham dự vào trong mối hiệp thông với Giáo hội, và mặt khác, vì giáo huấn của Giáo hội về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Các Nghị Phụ khác đã tỏ ý bênh vực cho một sự tiếp nhận vào bàn tiệc Thánh Thể nhưng không quá tổng quát hóa – và cụ thể là, trong một số tình huống đặc biệt, và dưới những điều kiện đã được ấn định, trước hết, khi đó là những trường hợp không thể đảo ngược, với những trách nhiệm luân lý đối với con cái, mà chúng đã phải chịu đựng một cách bất công. Một con đường thống hối, dưới trách nhiệm của Giám mục Giáo phận, phải xuất hiện trước khi có sự tiếp cận có thể đối với các Bí Tích. Nhưng vấn nạn còn phải được đào sâu, trong khi đó, sự phân biệt giữa một hoàn cảnh mang tính khách quan của tội lỗi và những tình tiết giảm nhẹ là điều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, vì “sự đủ điều kiện của một hành vi có trách nhiệm đối với hành vi đó (…) có thể được giảm bớt nhờ vào (…) những yếu tố tâm lý hay xã hội, và thậm chí còn có thể bị thủ tiêu“ (sách GLHTCG, số 1735).
53. Một số Nghị Phụ đã xác tín rằng, những người ly dị tái kết hôn, hay cùng sống chung với một người bạn đời, vẫn có thể tham dự vào việc hiệp Lễ thiêng liêng trong một cách thế phong phú. Về điều đó, một số Nghị Phụ lại đặt ra câu hỏi, tại sao họ không thể đón nhận Bí Tích Thánh Thể theo nghĩa thực tế. Và như thế, một sự đào sâu thêm của chủ đề này đã được đề ra nhằm nhấn mạnh tới đặc tính riêng của cả hai hình thức và mối quan hệ của chúng với Thần Học về đời sống hôn nhân.
54. Các vấn đề liên quan đến hôn nhân hỗn hợp tôn giáo vẫn luôn được đề cập đến trong những đóng góp của các Nghị Phụ. Sự khác biệt về luật hôn nhân của Giáo hội Chính thống giáo đang đưa tới những vấn đề trong một số mối liên hệ, mà chúng phải được suy tư trong công cuộc đại kết. Tương tự, sự hợp tác trong công cuộc đối thoại liên tôn cũng sẽ có nhiều ý nghĩa đối với hôn nhân liên tôn.
Sự quan tâm mục vụ đối với những người có xu hướng đồng tính
55. Một số gia đình đã trải qua kinh nghiệm rằng, một số người giữa họ đang sống với xu hướng đồng tính. Trong mối liên hệ đến điều đó, người ta đã tự hỏi, sự quan tậm mục vụ nào sẽ phù hợp trong những trường hợp ấy, trong khi người ta liên hệ tới điều mà Giáo hội dậy: “Tuyệt nhiên không hề có cơ sở nền tảng đối với chuyện thiết lập nên những điều tương tự giữa cuộc sống chung đồng giới và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, cũng không hề có như vậy ngay cả trong một ý nghĩa rộng hơn“. Tuy nhiên, những người nam và những người nữ mang khuynh hướng đồng giới, cần phải được đón nhận với sự kính trọng và với sự tinh tế. “Người ta hãy canh chừng trước việc đối xử bất công với họ bằng bất cứ cách nào“ (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Những cân nhắc đối với những dự án của một áp dụng hợp lý trước sự chung sống giữa những người đồng tính, 4).
56. Hoàn toàn không thể chấp nhận được rằng, áp lực sẽ bị tác động trên các vị mục tử của Giáo hội trong vấn nạn này, và cũng không thể chấp nhận được rằng, các tổ chức quốc tế trợ giúp cho các quốc gia nghèo sẽ bị phụ thuộc vào việc họ giới thiệu một cuộc “hôn nhân“ giữa những người cùng giới tính trong sự ban hành luật pháp của mình.
Truyền sinh và thách thức của việc giảm sinh
57. Thật dễ dàng để nhận ra rằng, đang có sự lan rộng của một tâm lý muốn cắt giảm việc truyền sinh bằng một sự thay đổi trong kế hoạch của một cá nhân hay của một cặp vợ chồng. Các điều kiện kinh tế đôi khi tác động như một trọng lực mang tính quyết định và góp phần mạnh mẽ trong việc làm sút giảm những ca sinh nở, và sự giảm sút sinh nở này sẽ làm kiệt lực mạng lưới xã hội, gây hại cho mối tương quan giữa các thế hệ, và làm mất đi sự tự tin trong cái nhìn về tương lai. Việc mở ra đối với sự sống là một đòi hỏi thuộc về bản chất của Tình Yêu hôn nhân. Trong ánh sáng ấy, Giáo hội ủng hộ những gia đình đón nhận những đứa con bị tàn tật để làm con nuôi, giáo dục và bao bọc chúng bằng Tình Yêu của mình.
58. Ngay cả trên lĩnh vực này, người ta cũng phải bắt đầu từ những gì mà con người nói và tạo điều kiện cho vẻ đẹp cũng như chân lý của một sự mở ra vô điều kiện đối với sự sống theo quyền lợi của nó, cũng như cái mà Tình Yêu nhân loại cần có để được sống trong sự viên mãn của mình. Trên nền tảng đó, một giáo huấn hợp lý về những phương pháp tự nhiên cũng có thể hỗ trợ cho một sự sinh sản có trách nhiệm. Giáo huấn ấy sẽ tạo điều kiện để sống một cách hài hòa và ý thức về sự hiệp thông giữa những cặp vợ chồng trong tất cả mọi chiều kích của nó và với trách nhiệm mô phỏng. Thật hữu ích trong việc tái khám phá ra sứ điệp của Thông Điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người) mà Đức Phao-lô VI đã ban hành, sứ điệp ấy nhấn mạnh rằng, phẩm giá con người phải được kính trọng trong sự đánh giá mang tính luân lý của những biện pháp hạn chế sinh sản. Việc đón nhận những em bé mồ côi hay bị ruồng rẫy để làm con nuôi là một hình thức đặc biệt của công cuộc chăm sóc mục vụ gia đình (xc. Apostolicam Actuositatem, III, 11). Quyền giáo huấn đã nhiều lần đưa ra sự chỉ dẫn cũng như khích lệ về điều đó (xc. Familiaris Consortio, III, II;Evangelium Vitae, IV, 93). Việc quyết định nhận con nuôi hay trở thành người giám hộ diễn tả kinh nghiệm về sự phong nhiêu của Tình Yêu hôn nhân trong một cách thế đặc biệt; và điều đó sẽ không chỉ như thế nếu quyết định ấy bị dán mác bởi sự vô sinh. Một quyết định như thế là một chỉ dấu có sức diễn cảm của Tình Yêu gia đình. Nó cho phép làm chứng cho Đức Tin riêng và trao lại phẩm giá của một em nhỏ cho những em đã bị đánh mất phẩm giá ấy.
59. Điều đó cũng có giá trị để sống tình yêu ngay cả trong khế ước hôn nhân như là con đường của sự chín muồi, trong sự đón nhận ngày càng sâu xa với người khác cũng như trong sự trao hiến ngày càng trọn vẹn. Trong mối tương quan ấy, vấn đề phải được khẳng định rằng, những phương pháp giáo dục mà chúng củng cố đời sống hôn nhân, cần phải được giới thiệu; hơn nữa, cũng cần phải khẳng định rằng, điều đó cần tới những người giáo dân biết giới thiệu một sự đồng hành thông qua chứng tá sống động của họ. Gương sáng của một Tình Yêu chung thủy và thẳm sâu là một sự trợ giúp to lớn; nó được khắc ghi bởi sự dịu hiền và sự kính trọng, nó liên tục phát triển với thời gian, và trong sự cởi mở cụ thể của nó với sự truyền sinh, Tình Yêu ấy mở ra kinh nghiệm về một mầu nhiệm vượt quá chúng ta.
Thách đố trong việc giáo dục và vai trò của gia đình trong việc loan báo Tin Mừng
60. Một trong những thách đố có tính nền tảng đối với các gia đình ngày nay, tất nhiên hàm chứa trong sự giáo dục. Thậm chí thách đố này ngày càng trở nên khắt khe và phức tạp hơn bởi thực tế văn hóa hiện tại cũng như tác động lớn của các phương tiện truyền thông. Mặc dù thế, nó có giá trị hầu lưu ý một cách thích đáng tới những đòi hỏi cũng như những trông chờ của các gia đình mà họ đang ở trong tình trạng để hiện diện trong những nơi phát triển và tiếp tục trao đi một cách hoàn toàn bất cứ nhân đức nào trong cuộc sống hằng ngày, mà các nhân đức ấy tạo nên kiểu dáng cho sự hiện hữu. Điều đó có nghĩa là, cha mẹ phải có sự tự do trong việc tìm kiếm những cách thức giáo dục dành cho con cái mình, mà cách thức ấy tương ứng với những điều xác tín của họ.
61. Căn cứ trên việc kết nạp vào Ki-tô giáo thông qua những cộng đoàn sẵn sàng đón nhận, Giáo hội đóng một va trò quý giá trong việc hỗ trợ các gia đình. Vì thế, Giáo hội được đòi hỏi nhiều hơn nữa trong việc hỗ trợ các gia đình nơi sứ mạng giáo dục, kể cả trong những tình huống bình thường lẫn trong những tình huống đặc biệt, và đồng hành với các em nhỏ cũng như với giới thanh thiếu niên, trong sự phát triển của chúng. Điều này diễn ra thông qua những con đường mà chúng được làm cho thích hợp với từng nhân vị, hầu hướng dẫn chúng đi vào một ý nghĩa toàn diện về cuộc sống, cũng như giúp chúng đưa ra những quyết định và tiếp nhận tinh thần trách nhiệm, mà tinh thần trách nhiệm ấy được sống trong ánh sáng của Tin Mừng. Trong sự dịu hiền, cũng như trong lòng nhân hậu và tình thương từ mẫu của Người, Đức Maria sẽ có thể làm thỏa mãn cơn đói khái về nhân tính và sự sống. Công cuộc mục vụ và sự tôn kính Đức Maria sẽ là những điểm khởi phát tốt đẹp nhằm công bố Tin Mừng về gia đình.
KẾT LUẬN
62. Những suy tư được trình bày trên đây chính là kết quả từ các buổi làm việc của Thượng Hội Đồng Giám mục, mà các buổi làm việc ấy đã diễn ra trong sự tự do to lớn cũng như trong một thái độ lắng nghe lẫn nhau. Các suy tư này muốn đặt ra những vấn nạn cũng như muốn vạch ra những viễn tượng. Trong năm, tức thời gian kể từ lúc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường về gia đình tới khi có phiên họp khoáng đại của Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ lần tới, những suy tư này sẽ phải trở nên chín muồi cũng như phải được giải thích rõ ràng thông qua những suy tư của các Giáo hội địa phương; cứ sự thường, Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2015, và sẽ được dành để nghiên cứu về ơn gọi và sứ vụ của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới hôm nay. Nó sẽ không phải là những quyết định đã được đưa ra cũng chẳng phải là những viễn tượng đơn giản. Nhưng con đường tập thể tính của các Giám mục và sự bao hàm của toàn thể dân Chúa dưới tác động của Chúa Thánh Thần và việc hướng nhìn lên mẫu gương gia đình Thánh Gia sẽ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc tìm thấy được con đường của chân lý và lòng khoan hậu đối với tất cả. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã hướng đến chúng tôi niềm mong muốn ấy ngay từ khi bắt đầu những công việc của chúng tôi, và Ngài đã mời gọi chúng tôi hãy có sự can đảm của Đức Tin, và hãy đón nhận chân lý trong Đức Ái một cách khiêm nhượng và chân thành.
Phần II
NHỮNG CÂU HỎI NHẰM TIẾP THU VÀ ĐÀO SÂU VĂN KIỆN RELATIO SYNODI
Câu hỏi giới thiệu liên quan đến tất cả các mục của Relatio Synodi
Liệu bản tường trình có tương ứng với thực tế gia đình như văn kiện Relatio Synodi đang bận rộn với điều mà nó có thể được nhận biết trong Giáo hội và xã hội trong thời đại hôm nay hay không? Những khía cạnh nào còn thiếu mà chúng có thể cần phải được bổ sung thêm?
I. NHỮNG CÂU HỎI DÀNH CHO MỤC THỨ NHẤT: Lắng Nghe – Ngữ Cảnh Và Những Thách Đố Đối Với Các Gia Đình
Như được khẳng định trong lời giới thiệu (số 1-4), Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường muốn hướng về tất cả các gia đình trên toàn thế giới, để chia sẻ với họ những niềm vui, những mối lo âu và những niềm hy vọng của họ. Vì thế, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã hướng cái nhìn đầy kính trọng đến các gia đình Ki-tô giáo đang trung tín với ơn gọi của mình, và khích lệ các gia đình hãy đặt mình một cách đầy cương quyết vào trong giờ mà “Giáo hội đang đi ra khỏi chính mình“, và ở đây tái nhận ra mình như là những chủ thể không thể thiếu của việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt khi vấn đề nằm ở chỗ là nuôi dưỡng “nỗi nhớ nhung gia đình“ cho chính mình cũng như cho các gia đình trong những khó khăn, mà nỗi nhớ nhung đó vẫn luôn sống động và có ý nghĩa như là nền tảng của việc làm chứng rằng, “việc tái lên đường từ chính gia đình“ để công bố điều cốt lõi của Tin Mừng một cách đầy công hiệu, là điều đang hết sức cần thiết.
Con đường được canh tân và được phác thảo bởi Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường đang tự sáp nhập vào trong một mối liên hệ rộng mở mang tính Giáo hội, như nó được trình bày bởi Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong Thông Điệp Evangelii Gaudium, mà cụ thể là đi đến với “những vùng ngoại vi của kiếp hiện sinh“, một công cuộc mục vụ được ghi dấu bởi “nền văn hóa gặp gỡ“ mà nó đang ở trong tình trạng nhận ra những hành động đầy tự do của Thiên Chúa, ngay cả khi những hành động ấy nằm ở bên ngoài những kiểu mẫu quen thuộc của chúng ta, nhưng không hề lúng túng và bối rối trong việc tiếp nhận bất cứ nét đặc trưng nào của “một bệnh viện dã chiến“ mà nó đang rất hữu ích đối với việc loan báo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Những đoạn viết trong mục thứ nhất của văn kiện Relatio Synodi đã trả lời cho những thách đố trên, và trong những đoạn ấy, bất cứ khía cạnh nào mà chúng thể hiện những phạm vi trong mối tương quan cụ thể đối với tình trạng thực tế của gia đình, và qua những tình trạng đó, những suy tư sẽ tiếp tục được đào sâu, đều sẽ được đề cập đến.
Những đề tài đã được nêu ra trong mục đầu của văn kiện Relatio Synodi với những tham chiếu rõ ràng, cũng như những câu hỏi đã được đặt ra ở đó, có chủ đích nhằm đơn giản hóa óc thực tế cần thiết trong những suy tư của mỗi Hội Đồng Giám Mục, hầu ngăn ngừa những câu trả lời mà chúng sẽ được đưa ra một cách lẻ tẻ bởi những khuôn mẫu và những cách nhìn như thế, tức những khuôn mẫu và những cách nhìn của riêng vấn đề mục vụ mà nó chỉ vận dụng giáo lý, và bằng cách thức ấy, sẽ không lưu ý tới những kết luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường, và để cho những suy tư riêng của mình bị dẫn dắt bởi con đường đã được vạch sẵn.
Bối cảnh văn hóa xã hội (số 5-8):
1. Có những sáng kiến nào đối với những thách đố mà gia đình đang đặt ra trước chúng những mâu thuẫn về văn hóa (xc. Số 6-7), cũng như những sáng kiến nào đã được lên kế hoạch trong mối liên hệ đến vấn đề vừa nêu? Ở đây, vấn đề là những chương trình mà chúng muốn tái nhích tới gần sự nhận thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống các gia đình; những chương trình muốn nuôi dưỡng mối tương quan liên ngôi vị một cách chắc chắn cũng như muốn làm cho mối tương quan ấy được bền vững; những chương trình có chủ đích khai thác những biện pháp xã hội và kinh đế để đưa đến mối lợi cho gia đình; những chương trình muốn làm nhẹ hóa những khó khăn, tức những chương trình được liên kết với việc chăm sóc trẻ em, người già, và các thành viên đau yếu trong gia đình; những chương trình thích hợp để quan tâm tới ngữ cảnh văn hóa đặc biệt mà mỗi Giáo hội địa phương đang sống trong ngữ cảnh đó.
2. Những công cụ có tính phân tích nào sẽ được sử dụng, và về phương diện này, những công cụ nào sẽ là những kết quả quan trọng nhất trong mối liên hệ đến những khía cạnh, kể cả tích cực lẫn tiêu cực, của việc biến đổi về văn hóa mang tính nhân loại học (xc. Số 5)? Liệu những biến cố ấy có cho phép nhìn nhận khả năng trong việc tìm ra được những yếu tố chung trong sự đa dạng về văn hóa hay không?
3. Bên cạnh việc loan báo Tin Mừng và việc quở trách, những phương tiện nào khác sẽ được chọn để, với tư cách là Giáo hội, gần gũi với các gia đình đang trong những hoàn cảnh ngặt nghèo (xc. Số 8)? Có những giải pháp sư phạm nào để ngăn ngừa những hoàn cảnh ngặt nghèo ấy? Điều gì có thể được thực hiện để hỗ trợ và củng cố các gia đình tín hữu mà họ đang trung tín với khế ước hôn nhân?
4. Hoạt động mục vụ của Giáo hội sẽ phản ứng như thế nào trước chủ nghĩa thực tế có tính văn hóa đang phát tán trong xã hội tục hóa, và trước sự khước từ của rất nhiều người đối với mô hình gia đình được tạo thành thông qua khế ước hôn nhân của người chồng và người vợ, mà gia đình ấy mở ra đối với việc sinh sản con cái?
Tầm quan trọng của đời sống tình cảm (số 9-10):
5. Các gia đình Ki-tô giáo sẽ được tham gia bằng cách nào và thông qua những hoạt động nào, khi vấn đề đi tới chỗ là chứng thực cho những thế hệ mới về sự tiến bộ nơi sự chín muồi về mặt tình cảm (xc. Số 9-10)? Điều gì có thể sẽ có nhiều ích lợi hơn trong việc đào tạo những người có trách nhiệm mà họ đã được thánh hiến, đối với đề tài này? Những loại cộng tác viên nào có trình độ phù hợp trong lãnh vực mục vụ sẽ được đoán biết là đặc biệt cấp thiết?
Thách đố đối với hoạt động mục vụ (số 11):
6. Công cuộc mục vụ gia đình thường kỳ được dành cho những người đang đứng từ xa, đang được thực hiện ở mức nào và thông qua những phương cách nào (xc. Số 11)? Những cách thức hành động nào sẽ được chọn để gợi lên và kính trọng “việc ước ao đời sống gia đình“ mà nó được Đấng Sáng Tạo rắc gieo vào trong tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là đang có sẵn nơi những người trẻ, ngay cả nơi những người mà họ đang sống trong một tình trạng gia đình không tương thích với quan điểm Ki-tô giáo? Những hoa trái nào có thể xác định được nơi những sáng kiến mà chúng được hướng đến với họ? Con số những cặp hôn nhân tự nhiên trong số những người chưa được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, kể cả đối với niềm mong ước muốn lập gia đình của những người trẻ, cao đến mức nào?
II. NHỮNG CÂU HỎI DÀNH CHO MỤC THỨ HAI: Hướng Nhìn Lên Chúa Ki-Tô – Tin Mừng Về Gia Đình
Tin Mừng về gia đình, tức Tin Mừng được Giáo hội bảo vệ một cách cẩn mật dựa trên những vết tích của mạc khải Ki-tô giáo đã được viết ra cũng như đã được lưu truyền, phải được công bố trong thế giới ngày nay với niềm vui và niềm hy vọng đã được canh tân, trong khi thường xuyên hướng nhìn lên Chúa Giê-su Ki-tô. Ơn gọi và sứ mạng của gia đình biểu lộ nơi mô hình trọn vẹn của mình, trong trật tự tạo thành mà nó bước vào trong trật tự cứu độ. Công Đồng Vatican II đã tóm tắt về ơn gọi và sứ mạng của gia đình trong niềm mong ước rằng: “Chính các đôi vợ chồng, được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa và được an định trong cấp bậc của các nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương ái, đồng tâm hiệp ý và thánh hóa lẫn nhau, để trong khi đi theo Chúa Kitô là nguyên lý sự sống, giữa những nỗi vui mừng và hy sinh của ơn gọi, và qua Tình Yêu chung thủy, họ trở nên chứng nhân của mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của Người“ (Gaudium et Spes, 52; xc. Sách GLHTCG số 1533-1535).
Trong ánh sáng ấy sẽ có những câu hỏi mà chúng dẫn đến mục tiêu của Relatio Synodi là gợi ra ở nơi các vị chủ chăn và trong dân Chúa những câu trả lời trung thực và can đảm hầu có thể canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình.
Hướng nhìn lên Chúa Giê-su và khoa sư phạm của Thiên Chúa trong Thánh Sử (số 12-14):
Tiếp nhận lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, Giáo hội hướng nhìn lên Chúa Ki-tô trong chân lý bất biến và trong sự mới mẻ không bao giờ cạn khô của Người, Đấng cũng đang chiếu sáng bất cứ gia đình nào: “Chúa Ki-tô là ´Tin Mừng vĩnh cửu` (Kh 14,6), và Ngài chính là Đấng ´hôm qua cũng như hôm nay và trong sự vĩnh cửu` (Dt 13,8), nhưng sự giầu sang và vẻ đẹp của Ngài thì khôn cùng. Ngài vẫn luôn trẻ trung và là nguồn mạch bất biến của mọi điều mới mẻ“ (Evangelii Gaudium, 11).
7. Cái nhìn hướng lên Chúa Ki-tô sẽ mở ra những khả năng mới. “Vì mỗi lần, khi chúng ta quay trở về lại với nguồn mạch của kinh nghiệm Ki-tô giáo, thì rồi những con đường mới cũng như những khả năng chưa từng có sẽ mở ra“ (số 12). Vậy những giáo huấn trong Thánh Kinh sẽ được sử dụng như thế nào đối với công cuộc mục vụ gia đình? Một cái nhìn như thế sẽ dưỡng nuôi một công cuộc mục vụ đầy can đảm và trung tín đối với các gia đình trong mức độ nào?
8. Những người trẻ và những cặp vợ chồng sẽ quan sát thấy những giá trị nào của đời sống hôn nhân và gia đình khi nó được thực hành trong đời sống của họ? Và trong hình thức nào? Có những giá trị mà chúng có thể được đưa ra trước ánh sáng không (xc. Số 13)? Những giá trị nào có thể được sử dụng để phòng tránh và thắng vượt mọi chiều kích của tội lỗi?
9. Khoa sư phạm nhân loại nào – trong sự tương hợp với khoa sự phạm của Thiên Chúa – nên được vận dụng để hiểu tốt hơn những gì đang được đòi hỏi từ công cuộc mục vụ của Giáo hội đối với sự phát triển trong đời sống hôn nhân cũng như đối với đời sống hôn nhân trong tương lai?
10. Việc khám phá ra sự vĩ đại và vẻ đẹp của hồng ân không thể phân ly, hầu cho niềm ước ao sống hồng ân đó và việc càng ngày càng ước muốn kiến tạo nó, được gợi lên, để làm gì (xc. Số 14)?
11. Bằng cách nào người ta có thể giúp để hiểu rằng, mối tương quan với Thiên Chúa tạo điều kiện cho người ta vượt thắng được những yếu đuối mà chúng cũng được ghi vào trong các mối tương quan của đời sống hôn nhân (xc. Số 14)? Phúc lành của Thiên Chúa đồng hành với mỗi cuộc hôn nhân đích thực có thể được làm chứng như thế nào? Người ta sẽ chứng minh như thế nào về việc ân sủng của Bí Tích sẽ hỗ trợ cặp vợ chồng trên toàn bộ cuộc sống của họ?
Gia đình trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa (số 15-16):
Lời mời gọi yêu thương giữa người chồng và người vợ tiếp nhận thể thức viên mãn của nó từ biến cố phục sinh của Chúa Ki-tô, Đấng đã không ngần ngại trao hiến chính bản thân mình, cũng như đã làm cho Giáo hội trở nên thân mình mầu nhiệm của Ngài với cũng một cách thế như vậy. Bằng cách kín múc từ ân sủng của Chúa Ki-tô, đời sống hôn nhân Ki-tô giáo trở thành con đường, mà trên đó, bất cứ ai được kêu gọi để đi trên con đường này, cũng đều đi đến với sự viên mãn của Tình Yêu mà nó hàm chứa trong sự thánh thiện.
12. Người ta có thể làm cho mình nhận thức được như thế nào trước việc đời sống hôn nhân Ki-tô giáo tương thích với ý định ban đầu của Thiên Chúa, và bằng cách thức ấy, hôn nhân chính là một kinh nghiệm về sự tròn đầy cũng như là một kinh nghiệm của những giới hạn?
13. Gia đình có thể được coi là “Giáo hội tại gia“ như thế nào (xc LG 11), mà Giáo hội tại gia ấy chính là chủ thể và cũng là đối tượng của công cuộc loan báo Tin Mừng trong sự phục vụ Nước Thiên Chúa?
14. Niềm ý thức về bổn phận truyền giáo của gia đình đang được thúc đẩy thế nào?
Gia đình trong các văn kiện của Giáo hội (số 17-20):
Quyền giáo huấn của Giáo hội phải được nhận thức tốt hơn trong toàn bộ sự phong phú của Dân Chúa. Linh đạo của đời sống hôn nhân tự nuôi sống mình bằng giáo huấn thường xuyên của các vị mục tử biết chăm lo cho đoàn chiên, và linh đạo ấy phát triển nhờ vào việc thường xuyên lắng nghe Lời Chúa, nhờ vào các Bí Tích Đức Tin và Đức Ái.
15. Gia đình Ki-tô hữu sống dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thiên Chúa và lớn lên trong sự hiệp thông với Ngài như là cộng đoàn đích thực của sự sống và Đức Ái. Linh đạo về gia đình có thể được phát triển cũng như có thể được đưa ra để giúp đỡ các gia đình như thế nào hầu trở thành một nơi của đời sống mới trong Chúa Ki-tô (xc. Số 21)?
16. Những sáng kiến trong việc dậy Giáo Lý, mà những sáng kiến ấy làm cho giáo huấn của Giáo hội về gia đình được nhận thức, và qua đó giúp các gia đình sống những giáo huấn ấy hầu thúc đẩy việc vượt qua những khoảng cách có thể có giữa điều được sống và giữa điều được công bố, cũng như tạo điều kiện cho những con đường hoán cải, sẽ được thúc đẩy như thế nào?
Sự bất khả phân ly của hôn nhân và niềm vui của đời sống chung (số 21-22):
“Tình Yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong Tình Yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu độ của Chúa Ki-tô và hoạt động cứu rỗi của Giáo Hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ và kiện cường trong nhiệm vụ cao cả là làm cha mẹ. Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh hiến bằng một Bí Tích riêng để được lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ; nhờ sức mạnh của Bí Tích này, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô hầu chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau; và bởi đấy, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa“ (Gaudium et Spes, 48).
17. Điều gì được thực hiện để có thể hiểu về giá trị của hôn nhân bất khả phân ly và phong nhiêu như là một con đường phát triển ngôi vị một cách hoàn toàn (xc. Số 21)?
18. Gia đình có thể được trình bày như là một nơi duy nhất trong nhiều cách để đạt được niềm vui của con người như thế nào?
19. Công Đồng Vatican II đã bày tỏ niềm kính trọng đối với hôn nhân tự nhiên, và do đó đã canh tân một truyền thống cổ kính trong Giáo hội. Công cuộc mục vụ của các Giáo phận đang đạt được sự thành công tới mức nào trong việc kính trọng sự khôn ngoan ấy của các dân tộc mà nó cũng là nền tảng đối với nền văn hóa chung và xã hội (xc. Số 22)?
Chân lý và vẻ đẹp của gia đình cũng như lòng thương xót đối với những gia đình yếu đuối và bị tổn thương (số 23-28):
Sau khi đã lưu ý đến vẻ đẹp của hôn nhân thành toàn và của những gia đình vững vàng, cũng như đã thể hiện niềm kính trọng đối với chứng tá quảng đại của những người vẫn hằng trung tín với khế ước hôn nhân ngay cả khi họ bị bỏ rơi bởi người bạn đời, các mục tử được quy tụ lại trong Thượng Hội Đồng Giám Mục – trong một cách thức đầy cởi mở và can đảm, nhưng không phải là không băn khoăn và thận trọng – đã đặt ra câu hỏi: Giáo hội phải hướng cái nhìn nào về những người Công Giáo mà họ vẫn đang còng chung sống, cũng như những người đã ly dị sau một cuộc hôn nhân thành sự nhưng lại tái hôn về mặt dân sự?
Trong sự ý thức về những giới hạn và những bất toàn một cách hiển nhiên, mà những giới hạn và những bất toàn ấy đang có mặt ngay trong những trạng huống rất khác nhau, các Nghị Phụ đã đón nhận một cách tích cực những cách nhìn được đưa ra bởi Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, tương ứng với điều mà người ta “phải đồng hành với lòng thương xót và sự kiên nhẫn, với những cấp độ phát triển có thể của những người, mà những cấp độ phát triển ấy đang được kiến tạo từng ngày, nhưng không hề có chuyện hạ thấp những giá trị của lý tưởng được phác thảo bởi Tin Mừng“ (Evangelii Gaudium, 44).
20. Trong vấn đề này, người ta có thể giúp đỡ thế nào để hiểu rằng, không ai bị loại ra khỏi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và chân lý này có thể được diễn tả như thế nào trong hoạt động mục vụ của Giáo hội đối với các gia đình, đặc biệt là đối với những gia đình yếu đuối và đang bị tổn thương (xc. Số 28)?
21. Các tín hữu có thể chỉ ra một thái độ của sự đón nhận và của sự đồng hành đầy tin tưởng đối với những người mà họ chưa đạt tới được sự hiểu biết hoàn toàn về ân sủng nơi Tình Yêu của Chúa Ki-tô như thế nào mà không hề có chuyện khước từ việc công bố những đòi hỏi của Tin Mừng ở một lúc nào đó (xc. Số 24)?
22. Trong trường hợp của những hình thức liên kết khác nhau, mà trong đó những giá trị nhân loại khác nhau có thể được nhận biết, thì điều gì có thể được thực hiện để những người nam và những người nữ cảm thấy được sự kính trọng từ phía Giáo hội, cảm thấy mình được tín nhiệm và được động viên để lớn lên trong sự tốt lành, và họ có thể được hỗ trợ như thế nào để đạt tới được sự viên mãn của đời sống hôn nhân Ki-tô giáo (xc. Số 25)?
III. NHỮNG CÂU HỎI DÀNH CHO MỤC THỨ BA: Sự Quan Tâm – Những Viễn Tượng Mục Vụ
Trong khi đào sâu mục thứ ba của Relatio Synodi, vấn đề tùy thuộc ở chỗ là để cho mình được dẫn dắt bởi khúc quanh mục vụ, điều mà Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường đã bắt đầu trình bày trong mối liên hệ đến Công Đồng Vatican II và quyền Giáo huấn của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô. Còn vấn đề nằm ở nơi các Hội Đồng Giám Mục chính là việc tiếp tục đào sâu văn kiện này, và cụ thể hóa nó trong bối cảnh đặc trưng riêng biệt của mình, và ở đây, trong một cách thế phù hợp nhất, cũng bao hàm tất cả mọi thành viên của Giáo hội. Việc làm cho tất cả không phải tái bắt đầu lại từ con số không, nhưng làm cho con đường đã được chọn hướng bởi Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường, sẽ được tiếp nhận như là điểm khởi hành, là điều rất cần thiết.
Công bố Tin Mừng về gia đình cho thời đại hôm nay trong những bối cảnh khác nhau:
Khi chứng kiện sự cần thiết của gia đình, và đồng thời khi chứng kiến những thách đố đa dạng và phức tạp mà chúng đang có trong thế giới chúng ta, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc tái dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình một cách rõ ràng và đáng kể.
23. Chiều kích gia đình sẽ được trình bày như thế nào trong việc đào tạo các Linh Mục cũng như trong việc đào tạo những người khác để hoạt động mục vụ? Trong vấn đề này, bản thân các gia đình có được bao gồm trong đó không?
24. Người ta có ý thức được rằng, sự phát triển nhanh chóng của xã hội đang đòi hỏi một mối quan tâm liên tục đối với ngôn ngữ trong giao tiếp mục vụ không? Người ta có thể làm chứng như thế nào về quyền ưu tiên của ân sủng để đời sống gia đình có thể được lên kế hoạch và được sống như là nơi tiếp nhận Chúa Thánh Thần?
25. Trong công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình, người ta có thể tạo ra những điều kiện như thế nào, để mỗi gia đình đều trở nên như điều mà Thiên Chúa muốn họ là, và được nhìn nhận chung trong phẩm giá và sứ mạng của họ? “Sự thay đổi có tính mục vụ“ nào và những việc tiếp tục đào sâu nào sẽ được thực hiện trong hướng đi này?
26. Sự cộng tác với các cơ quan xã hội và chính trị nhằm phục vụ các gia đình, có được nhìn nhận trong ý nghĩa trọn vẹn của nó không? Nó sẽ được thực hiện trong thực tế như thế nào? Người ta nên để cho mình được dẫn dắt bởi những tiêu chuẩn nào? Các hiệp hội gia đình có thể đóng vai trò nào trong vấn đề này? Sự cộng tác này cũng có thể được thực hiện như thế nào bởi sự tố cáo công khai của những tiến trình văn hóa, kinh tề và chính trị, mà chúng đang đe dọa tới định chế gia đình?
27. Người ta có thể hỗ trợ mối tương quan giữa gia đình, xã hội và chính trị như thế nào để đưa đến niềm hạnh phúc cho gia đình? Sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và của các chính phủ đối với gia đình sẽ có thể được thúc đẩy như thế nào?
Hướng dẫn những người đã được hứa hôn trên con đường chuẩn bị hôn nhân (số 39-40):
Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhìn nhận những bước đi mà chúng đã được thực hiện trong những năm vừa qua hầu tạo điều kiện cho một sự chuẩn bị cân xứng đối với những người trẻ trên con đường tiến tới đời sống hôn nhân. Nhưng Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng đã nhấn mạnh tới sự cần thiết của một sự dấn thân rộng lớn hơn từ phía toàn thể cộng đoàn Ki-tô giáo, không chỉ trong thời gian chuẩn bị, nhưng trong cả những năm đầu tiên của cuộc sống gia đình.
28. Những con đường chuẩn bị cho đời sống hôn nhân sẽ có thể được trình bày như thế nào đến độ ơn gọi và sứ mạng của gia đình sẽ được trình bày một cách tương ứng với Đức Tin vào Chúa Ki-tô? Phải chăng những con đường ấy sẽ được tái trình bày như là lời giới thiệu về một kinh nghiệm Ki-tô giáo đích thực? Chúng có thể được canh tân và cải thiện như thế nào?
29. Việc dậy Giáo lý sẽ trình bày về sự mở ra đối với ơn gọi và sứ mạng của gia đình như thế nào trong mối liên hệ với việc gia nhập Ki-tô giáo? Những bước đi nào sẽ được coi là đặc biệt khẩn thiết? Mối liên hệ giữa Bí Tích Thanh Tẩy, Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hôn Nhân sẽ được trình bày như thế nào? Đặc tính giáo lý và đặc tính cứu độ sẽ có thể được nêu bật trong những phương cách nào mà những con đường chuẩn bị hôn nhân phải có chúng? Cộng đồng có thể được bao gồm như thế nào trong sự chuẩn bị này?
Đồng hành với những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân (số 40):
30. Phải chăng, sự cống hiến quan trọng trong lúc chuẩn bị và trong việc đồng hành với những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân, mà chứng tá và sự hỗ trợ từ phía các gia đình, các hiệp hội gia đình và các phong trào có thể thực hiện, đã được kính trọng một cách tương xứng? Những kinh nghiệm tích cực nào có thể tiếp tục được trao đi trong lãnh vực này?
31. Hoạt động mục vụ bằng việc đồng hành với các cặp tân hôn trong những năm đầu tiên của đời sống gia đình – mà nó đã được xác nhận trong những cuộc thảo luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục – cần phải được tiếp tục phát triển. Vậy trong mối liên hệ ấy, những sáng kiến nào là những sáng kiến có tầm quan trọng nhất mà chúng đã được thực hiện rồi? Những phương diện nào nên được tăng cường trên bình diện Giáo xứ, Giáo phận hay trong địa bàn của các hiệp hội và các phong trào?
Chăm sóc mục vụ cho những người đang cùng sống với nhau trong một hôn nhân dân sự hay hôn nhân không hôn thú:
Trong các thảo luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục, người ta đã nhắc tới sự khác nhau trong những trạng huống đã nảy sinh từ nguyên nhân của vô vàn những yếu tố cả về văn hóa lẫn kinh tế, những phương pháp thực hành đã bén rễ trong truyền thống, hay thông qua những khó khăn của những người trẻ đối với việc tự ràng buộc mình trong những quyết định về một cuộc sống hoàn toàn.
32. Những tiêu chuẩn nào đối với một sự biện phân mục vụ đích thực của những trạng huống cá biệt có thể được hình dung trong ánh sáng giáo huấn của Giáo hội mà đối với chúng, những nét đặc trưng của sự hiệp nhất trong hôn nhân chính là sự bất khả phân ly và việc mở ra đối với sự sống?
33. Cộng đoàn Ki-tô hữu có đang ở trong tình trạng để được bao gồm trong những trạng huống ấy về phương diện mục vụ không? Trong vẫn đề này, cộng đoàn ấy sẽ giúp ích thế nào để biện phân những yếu tố tích cực này khỏi những yếu tố tiêu cực trong cuộc sống con người, mà những yếu tố ấy được liên kết trong hôn nhân dân sự, hầu định hướng và hỗ trợ đời sống hôn nhân này trên con đường phát triển và sự quay về với Bí Tích Hôn Phối? Những người chỉ mới đang sống chung với nhau thôi sẽ có thể được giúp đỡ như thế nào để họ đưa ra quyết định cho đời sống hôn nhân?
34. Và rồi những câu trả lời nào sẽ nên được đưa ra cho toàn bộ những vấn đề mà chúng là kết quả từ sự tiếp tục tồn tại của những hình thức hôn nhân trên từng chặng theo truyền thống, hay là kết quả của những cuộc hôn nhân được thỏa thuận bởi gia đình đôi bên?
Chữa lành những gia đình bị thương tổn (Những người ly thân, những người ly dị nhưng không tái kết hôn, những người ly dị tái kết hôn và những người cha hoặc người mẹ đơn thân) (số 44-54):
Trong các thảo luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự cần thiết của một hoạt động mục vụ mà nó được thực hiện bởi nghệ thuật của sự đồng hành, đã được vạch ra. “Chúng ta phải tạo cho sự biến đổi của chúng ta một nhịp điệu thuận lợi, với một cái nhìn đầy kính trọng của sự cảm thông hoàn toàn, nhưng đồng thời cũng là cái nhìn chữa lành, cái nhìn giải phóng và thúc đẩy sự chín muồi trong đời sống Ki-tô giáo“ (Evangelii Gaudium, 169).
35. Cộng đoàn Ki-tô hữu có sẵn sàng trong việc đón nhận về cho mình những gia đình bị thương tổn hầu làm cho họ cảm nghiệm được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha không? Chúng ta có thể làm điều chi để loại bỏ những yếu tố xã hội và kinh tế mà chúng thường chi phối các gia đình ấy? Những bước đi nào cần phải được thực hiện đối với sự phát triển của hoạt động này, và sự phát triển ý thức truyền giáo mà hoạt động ấy mang theo; những bước đi nào vẫn còn phải được tiếp tục thực hiện?
36. Điều gì cần được thực hiện để thúc đẩy các nguyên tắc chỉ đạo chung về mục vụ trên bình diện Giáo hội địa phương? Cuộc đối thoại liên quan đến vấn đề này có thể được thúc đẩy như thế nào giữa các Giáo hội địa phương khác nhau “cum Petro e sub Petro“ (với Phê-rô và cùng Phê-rô)?
37. Những tiến trình nhằm xác minh hôn nhân bất thành sự một cách cởi mở hơn, nhanh hơn, và có khả năng miễn phí sẽ có thể được trình bày như thế nào (số 48)?
38. Mục vụ Bí Tích đối với những người ly dị tái kết hôn cần phải được tiếp tục đào sâu, mà trong hoạt động mục vụ này, những cách thực hành của Giáo hội Chính thống sẽ được đem ra để cân nhắc, cũng như “sự phân biệt giữa một hoàn cảnh khách quan của tội và những tình tiết giảm nhẹ“ (số 52) nên được giữ lại trong hiện tại. Ở đây, người ta có thể chuyển động trong những triển vọng nào? Đâu là những bước đi khả thi? Có những lời đề nghị nào để tránh những hình thức rào cản không cần thiết và không thích hợp?
39. Có cần phải cho phép những cơ chế pháp lý hiện hành nhằm đưa ra những câu trả lời hữu ích cho những thách đố mà những cuộc hôn nhân hỗn hợp cũng như những cuộc hôn nhân liên tôn đặt ra trước chúng ta không? Những yếu tố khác có còn cần phải được lưu ý tới không?
Sự quan tâm mục vụ đối với những người có khuynh hướng đồng tính (số 55-56):
Hoạt động chăm sóc mục vụ đối với những người có khuynh hướng đồng tính đang đặt thời đại hôm nay trước những thách đố mới, mà theo một cách thế nào đó, họ cũng đang bị người khác mang nợ, chẳng hạn như quyền lợi của họ được lưu ý đến thế nào xét về khía cạnh xã hội.
40. Cộng đoàn Ki-tô hữu hướng sự lưu tâm mục vụ của mình như thế nào về những gia đình mà những người có khuynh hướng đồng tính đang sống trong đó? Người ta có thể chăm sóc cho những con người đang ở trong những hoàn cảnh ấy dưới ánh sáng của Tin Mừng, và trong vấn đề này, có thể ngăn chặn mọi hình thức kỳ thị bất công như thế nào? Người ta có thể làm cho họ thấy rõ về những đòi hỏi của Thánh Ý Thiên Chúa trong tình trạng của họ như thế nào?
Sự truyền sinh và thách đố của việc giảm tỉ lệ sinh sản (số 57-59):
Sự truyền sinh là một cấu tố nền tảng của ơn gọi và sứ mạng gia đình: “Bổn phận truyền sinh và giáo dục phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với Tình Yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa và như trở thành những kẻ diễn đạt Tình Yêu của Ngài“ (Gaudium et Spes, 50).
41. Những bước đi nào là bước đi quan trọng nhất cần được thực hiện để công bố và thúc đẩy sự mở ra đối với sự sống và vẻ đẹp cũng như nhân phẩm của việc trở thành mẹ và trở thành cha, chẳng hạn như trong ánh sáng của Thông Điệp Humanae Vitae do Đức Thánh Cha Phao-lô VI công bố? Việc đối thoại với khoa y sinh học cũng như với các kỹ thuật tương ứng sẽ có thể được thúc đẩy như thế nào để các hệ sinh thái của con người về việc sinh sản được tôn trọng?
42. Việc làm cha mẹ một cách quảng đại cần tới những cấu trúc và những công cụ. Phải chăng cộng đoàn Ki-tô hữu đã sống một tình liên đớn và một tình tương thân tương ái cách hữu hiệu? Cộng đoàn ấy sống điều này như thế nào? Họ có can đảm để đề nghị những giải pháp khả thi ngay cả trên những bình diện thuộc xã hội và chính trị không? Người ta có thể được khích lệ như thế nào để nhận con nuôi và nhận lãnh trách nhiệm giám hộ như là những chỉ dấu cao vời của một sự quảng đại đầy phong nhiêu? Sự chăm sóc và sự kính trọng đối với con cái có thể được thúc đẩy như thế nào?
43. Người Ki-tô hữu sống tư cách làm cha mẹ như là câu trả lời trước một lời mời gọi. Phải chăng lời mời gọi này đang được nêu bật một cách đầy đủ trong việc dậy Giáo Lý? Những phương pháp giáo dục nào sẽ được đề nghị để trong thực tế, việc giáo dục ấy sẽ hướng dẫn lương tâm của các cặp vợ chồng? Người ta có ý thức về những hậu quả nghiêm trọng của việc thay đổi dân số học không?
44. Giáo hội đang đấu tranh để ngăn ngừa tai họa của việc phá thai như thế nào; và Giáo hội đang thúc đẩy một nền văn hóa sự sống đầy hiệu nghiệm như thế nào?
Thách đố của việc giáo dục và vai trò của gia đình trong công cuộc loan báo Tin Mừng (số 60-61):
45. Việc thực thi sứ mạng giáo dục của mình không luôn luôn là điều dễ dàng đối với các bậc cha mẹ: Họ có thấy được tình liên đới và sự hỗ trợ trong cộng đoàn Ki-tô hữu không? Những phương pháp giáo dục nào nên được đề nghị? Những bước đi nào cần phải được thực hiện hầu cho sứ mạng giáo dục của các bậc cha mẹ phải được nhìn nhận ngay cả trên bình diện xã hội và chính trị?
46. Sự ý thức về bổn phận phải tiếp tục chuyển giao Đức Tin có được thúc đẩy nơi các bậc cha mẹ và trong các gia đình Ki-tô hữu, như là chiều kích cố hữu và nội tại của căn tính Ki-tô giáo không?
Ban Thư Ký Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới
Cập nhật ngày 09 tháng 12 năm 2014
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – chuyển ngữ