“Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống”.
Bài Ðọc I: Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b
“Chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa, vì chính Người là Thiên Chúa chúng tôi”.
Trích sách ông Giosuê.
Trong những ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này: “Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Dân trả lời rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào”.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19. 20-21. 22-23
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai.
Xướng: Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ; Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát.
Xướng: Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Thiên Chúa luôn luôn giải thoát. Người giữ gìn họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy.
Xướng: Sự độc dữ sẽ sát hại đứa ác nhân; kẻ ghét người hiền sẽ phải đích thân đền tội. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
Bài Ðọc II: Ep 5, 21-32
“Mầu nhiệm này thật lớn lao: trong Ðức Kitô và trong Hội Thánh”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Ðức Kitô. Người vợ hãy phục tùng chồng mình, như đối với Chúa: vì chồng là đầu người vợ, như Ðức Kitô là đầu Hội Thánh: chính Người là Ðấng Cứu Chuộc thân thể mình. Nhưng như Hội Thánh phục tùng Ðức Kitô thể nào, thì người vợ cũng phục tùng chồng mình trong mọi sự như vậy. Hỡi những người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền. Cũng thế, người chồng phải yêu thương vợ mình như chính thân mình. Ai yêu thương vợ mình, là yêu thương chính mình. Vì không ai ghét thân xác mình bao giờ, nhưng nuôi dưỡng và nâng niu nó, như Ðức Kitô đối với Hội Thánh: vì chúng ta là chi thể của thân xác Người, do xương thịt Người. Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình: và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội Thánh.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta”. – Alleluia.
Tin Mừng: Ga 6, 61-70
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!” Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: “Ðiều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin”. Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: “Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”. Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
ĐI CHO ĐẾN CÙNG!
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68).
Suy niệm: “Trước khi từ bỏ, hãy nghĩ đến lý do khiến bạn bắt đầu.” Trong tiểu thuyết “Nhà Giả Kim”, chàng trai trẻ Santiago ước mơ đi khắp thế giới. Trong hành trình thực hiện ước mơ ấy, cậu gặp vô số khó khăn, thậm chí suýt mất mạng. Thế nhưng, tất cả thử thách không đè bẹp nổi ý chí sắt đá của cậu. Cuối cùng, cậu đã thành tựu, tìm thấy kho tàng, hoàn thành ước nguyện.
Một số người theo Chúa Giê-su đã ‘rẽ đường’ vì không chấp nhận lời giảng ‘chói tai’: “Làm sao ông này lấy thịt ông cho chúng ta ăn được!” Đối lại, Phê-rô vẫn vững một lập trường: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có sự sống đời đời.” Phê-rô tin mình không lầm khi chọn Thầy là Đường để bước theo. Nhờ niềm tin kiên định cùng với ơn Chúa ban Phê-rô đi đến cùng con đường ơn gọi của mình, là dùng cái chết để minh chứng cho niềm tin yêu vào Thầy.
Mời Bạn: Trong nhiều thời kỳ bách hại của Giáo Hội, bạn dễ dàng nhận ra hai thái độ rõ rệt: trung kiên theo Chúa đến cùng, cho dù phải bỏ mạng, hoặc chọn giải pháp ‘bỏ của chạy lấy người.’ Lịch sử ấy, dưới một hình thức khác, cũng đang lặp lại trong thế giới hiện đại này; thế giới hôm nay cũng thách đố người Ki-tô hữu khi đối diện cám dỗ chọn lựa tiền của, danh vọng hay là Thiên Chúa và đức tin của mình. Mời bạn làm cuộc xét mình và chia sẻ với người khác lựa chọn thiêng liêng của bạn.
Sống Lời Chúa: Dành ít phút trong ngày thân thưa với Chúa Giê-su về những thách đố đức tin bạn gặp phải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con luôn cậy trông vào Chúa, không bao giờ thất vọng dù gặp gian nan. Amen.
B/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI có thể được tóm gọn ở nơi diễn ngữ này: “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.
Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b
Bài Đọc I nhắc lại việc ông Gio-suê đưa ra cho dân Ít-ra-en ngay khi họ định cư ở miền đất ngoại giáo một sự chọn lựa dứt khoát: phụng thờ ngẫu tượng hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền đất mà Ngài đã hứa ban cho tổ tiên của họ.
Ep 5: 21-32
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô sánh ví tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo với sự kết hiệp bất khả phân ly của Đức Giê-su với Hội Thánh của Người.
Ga 6: 54a, 60-69
Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và vào lời hứa ban thịt và máu của Người, hay từ chối tin vào Người và không chấp nhận mầu nhiệm này. Đây là thời điểm chọn lựa giữa lòng trung tín và thái độ khước từ.
BÀI ĐỌC I (Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b)
Sách Gio-suê được đặt liền ngay sau bộ Ngũ Thư; sách này thuật lại việc dân Thiên Chúa định cư ở đất Ca-na-an (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên), những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en.
1. Một sự chọn lựa dứt khoát
Ông Gio-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái. Ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn căn dặn dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem.
Địa danh mà ông chọn, ở trung tâm Đất Hứa. Xét về phương diện địa lý, địa danh này rất thuận tiện (sau này miền này được gọi là Sa-ma-ri). Ngoài ra, miền này chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất có ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham trú ngụ đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa (St 12: 6-8). Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những tượng thần linh ngoại giáo mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, đây là dấu chỉ của việc từ bỏ phụng thờ các thần linh của họ (St 33: 18-20). Hành động này báo hiệu cách đặc biệt việc thờ phượng chỉ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cũng một cách như vậy, ông Gio-suê đòi hỏi dân Ít-ra-en phải dứt khoát từ bỏ thờ lạy các thần linh và cam đoan phụng thờ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của họ.
2. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa
Đoạn văn hôm nay trích từ bài diễn từ của ông Gio-suê được đặt vào trong khung cảnh phụng vụ: ông Gio-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “ra trình diện trước nhan Thiên Chúa”. Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn Hòm Giao Ước được đặt ở nơi thánh địa này).
Ông Gio-suê đưa ra cho toàn dân Ít-ra-en một chọn lựa triệt để: phụng thờ các vị thần linh của dân ngoại hay chỉ một mình Đức Chúa. Sự quyến rũ của việc phụng thờ các thần linh có thể xuất xứ từ đa thần giáo của tổ tiên họ, hay từ dân bản địa mà họ cùng chung sống trên đất Ca-na-an. Dân Ít-ra-en phải chọn lựa một trong hai. Ông Gio-suê đòi hỏi họ long trọng tái cam kết. Lập luận cốt yếu mà ông đưa ra dựa trên sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đã dẫn đưa họ đến tận Đất Hứa này, bất chấp mọi trở ngại đã giữ trọn lời hứa của Ngài với cha ông họ. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách tái cam kết phụng thờ chỉ một mình Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
3. Giao ước ở Si-khem
Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy cho thấy là cần thiết để tái tổ chức toàn thể dân Chúa chọn thành một dân duy nhất, bởi lẽ dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống, và gặp lại những hậu duệ đã không cùng họ rời quê hương sang Ai-cập. Việc sáp nhập những hậu duệ này vào các chi tộc của cuộc Xuất Hành quả là cần thiết. Cuối cùng, cũng cần phải hiệp nhất các chi tộc trước khi họ phân tán khắp xứ sở Ca-na-an. Để được như vậy, chỉ có chung một niềm tin mới có thể gắn kết những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.
Nhưng về phương diện lịch sử, Giao Ước Si-khem chắc chắn là bản sao chép phụng vụ mà dân Ít-ra-en cử hành hằng năm để long trọng lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều này, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ của bài diễn từ ông Gio-suê; hay nói chính xác hơn, ông Mô-sê căn dặn dân Ít-ra-en hằng năm phải tưởng nhớ lời cam kết của mình đối với Đức Chúa. Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”. Hằng năm, vào ngày đại lễ đó, người ta lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước Xi-nai (thật lạ thường, bài diễn từ của ông Gio-suê ở Si-khem không được nhắc đến).
Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng vào năm 931 trước Công Nguyên sự thống nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc tự tách mình ra khỏi vương triều Đa-vít để thiết lập vương quốc Ít-ra-en, mà kinh đô là Sa-ma-ri; trong khi hai chi tộc còn lại vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, được gọi vương quốc Giu-đa, mà kinh đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn này là phản đề cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem.
BÀI ĐỌC II (Ep 5: 21-32)
Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-xô, đây là phần luân lý và khuyến dụ.
Sau khi đã nói về đời sống mới của người Kitô hữu qua phép Rửa, thánh nhân đưa ra vài lời căn dặn liên quan đến đời sống gia đình: thánh nhân tuần tự gợi lên những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ. Đoạn trích hôm nay đề cập đến mối liên hệ giữa chồng và vợ.
Chúng ta cần phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn này: khía cạnh lỗi thời, việc khai triễn của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời đề nghị của thánh nhân không còn thích hợp nữa; và khía cạnh bất khả đổi thay, luôn luôn có giá trị và luôn luôn mang tính thời sự: sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội của Người được sánh ví với sự hiệp nhất bất khả phân ly của chồng với vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo.
1. Khía cạnh lỗi thời
Bản văn của thánh Phao-lô không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân, lời khuyên “vợ phải tùng phục chồng” cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với “quyền bình đẳng nam nữ” trong thế giới hiện nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn quan niệm bổn phận của người vợ theo truyền thống Do thái. Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, về phương diện pháp lý, bổn phận người vợ phải phục tùng chồng trước đây ở Đông Phương rất phổ biến, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu”, đã bị hủy bỏ từ lâu rồi. Do đó, chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời đề nghị này: Giáo Hội tùng phục Đức Ki-tô, chấp nhận Tin Mừng của Người và tuân giữ các huấn lệnh của Người như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy.
Còn đối với lời khuyên: “người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là xúc phạm đến người bạn đời của mình sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài, đã vượt qua những quan niệm như vậy. Tình nghĩa vợ chồng sống theo tinh thần Ki-tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, quên đi bản thân mình mà yêu người bạn đời của mình như chính người ấy. Không phải thánh Phao-lô đã tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki-tô, Người đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?
Vì thế, trước tiên phải vượt qua những quan niệm này mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân, chủ yếu thuộc loại suy.
2. Truyền thống Kinh Thánh
Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki-tô và Hội Thánh của Ngươi ngôn từ của các ngôn sứ, các ngài đã diễn tả tình yêu của Đức Chúa dành cho dân Ít-ra-en bằng những từ ngữ hôn nhân. Khởi đi từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ngôn sứ Hô-sê đã trình bày hình ảnh hôn ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài bằng những ngôn từ thật thống thiết; từ đó, hình ảnh này trở thành kinh điển. Chúng ta gặp lại hình ảnh này nhất là tại các ngôn sứ: Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị. Hình ảnh này xuất hiện một lần nữa và được thiêng liêng hóa trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong truyền thống Kinh Thánh này mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.
Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa của Đức Chúa với Dân Người thật là tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều xứng hợp. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ đồng hóa Đức Ki-tô với người chồng được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền, và Dân Người với người vợ xem ra hoàn toàn phụ thuộc, có nhiều khuyết điểm, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.
Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những lời thề non hẹn biển của mình; trong khi dân Do thái là vị hôn thê thường bội thề, bất trung với Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.
Vì so sánh như vậy, người chồng phải yêu thương vợ mình “như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”. Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ này tạo nên một dấu nhấn mới gây xôn xao ở giữa lòng xã hội ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị: Lv 20: 10; Đnl 22: 22, tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).
3. Hội Thánh là Hiền Thê và Thân Thể của Đức Ki tô
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô này khai triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đó là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Thân Thể Đức Kitô”.
Đức Ki-tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh “bằng nước và lời hằng sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.
Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”; đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Người khi nuôi dưỡng Hội Thánh bằng Mình và Máu của Người.
4. Chiều kích cao cả của hôn nhân
Sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại. Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại này siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm hôn nhân thật là cao cả vì là hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh.
TIN MỪNG (Ga 6: 54a, 60-69)
Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất. Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ Bánh Hằng Sống; Người đã loan báo ân ban thịt và máu của Người bằng những từ ngữ hiện thực nhất. Như vậy, Đức Giê-su đặt để các môn đệ của Người trước một sự lựa chọn: tin vào những lời công bố không thể nào tin được này hay từ chối mà ra đi vì “lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
1. Nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Đức Giê-su nữa
Chúa Giê-su vừa mới công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”. Các môn đệ, tức một nhóm đông hơn nhiều nhóm Mười Hai, đã hiểu những lời của Đức Giê-su theo nghĩa thuần túy duy vật: “lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Đức Giê-su thử làm cho họ hiểu rằng để có thể hiểu những lời của Người, có một cách giải thích khác với cách giải thích của họ, không quá duy vật và “xác thể”, nhưng một cách “thần thiêng”: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”. Từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên, có nghĩa sự ngăn trở mà người ta vấp phải, như vấp phải hòn đá trên đường. “Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Người muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Người, khi Người trở về nơi Người đã đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Người nói mới được sáng tỏ: “thịt” và “máu” mà Người ban tặng chính là Thân Thể của Đấng Phục Sinh, là nguồn sống thần linh trao ban vô tận cho loài người, như vậy loài người đón nhận sự sống Người ban mới có sự sống trường sinh trong chính mình.
“Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời của Đức Giê-su “là thần khí và là sự sống”, tức là “Thần Khí làm cho sống”, vì chỉ có Thần Khí mới làm cho người tín hữu thấu hiểu được những lời Đức Giê-su đã nói, những phép lạ Người đã làm (3: 6) và những thực tại thần thiêng Người đã biểu lộ qua bản thân Người (Ga 15: 26a). Trái lại, “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ đóng khung trong ánh sáng của riêng mình, không thể hiểu ân ban mà Đức Giê-su hứa. Như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu hậu phục sinh trung thành với bàn tiệc Thánh Thể dễ hiểu hơn các môn đệ chán chường này.
2. Nỗi buồn của Đức Giê-su
“Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người”. Sự phản bội của ông Giu-đa được kết nối với những môn đệ không tin này: “vì lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Điều này hé mở cho thấy rằng ông Giu-đa đã vấp ngã trên mầu nhiệm Thánh Thể khởi đi từ nghi ngờ giáo huấn của Thầy về Bánh Hằng Sống.
“Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Trước việc các môn đệ rút lui không theo Người nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội, Đức Giê-su buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa , anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”. Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại đời sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Thánh nhân đặt “tin” trước, rồi mới đến “nhận biết”. Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người ta mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân.
Mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải này vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
QUYẾT BƯỚC THEO CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được ? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự :”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe đuợc”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất, xem họ có thái độ thế nào ? Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.
Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa : họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gs 24,1-18.
Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuêâ tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường : tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ ?
Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài ; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2 : Ep 5,21-32.
Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.
Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm :
- a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô.
- b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.
+. Bài Tin mừng : Ga 6,60-69.
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu :”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.
Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn : tin hay không tin, theo hay rời bỏ ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại điều gì trong lời khẳng định của Ngài.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ :”Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao”(Ga 6,67) ? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời :”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6,68).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bỏ Ngài con biết theo ai ?
Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.
I. CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.
1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết : vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ:”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuêâ â:”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không ? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.
2. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.
a) Thái độ của dân Do thái.
Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng như sau :
– Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài:”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông ? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).
– Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài :”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).
– Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca :”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói : Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42) ?
– Khi Ngài phán:”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên:”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).
Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).
b) Thái độ của các môn đệ.
Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu :”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60) ? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài:”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.
c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.
Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu:”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ:”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6 , 70).
Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ , Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
II. LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.
1. Nói về sự lựa chọn.
Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.
Truyện : thần Hercule.
Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói :
– Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.
Người thứ hai nói :
– Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.
Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều . Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy :
Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,
Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là ?
– Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,
Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.
2. Chúng ta chọn Đức Giêsu.
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng : Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là : Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.
Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên :”Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói:”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).
Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !
Vị thần đó là ai ?
Đó là Đức Giêsu Kitô.
Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.
3. Chúng ta tin theo Đức Giêsu.
Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal:”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.
Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.
Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm:”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.
III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không ? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.
Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất : chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.
Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ :
Một nhà hai chủ không hoà,
Hai vua một nuớc ắt là không yên.
Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 :”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,…ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.
Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly ùvì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát ? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng :”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả : chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy ? Có kỳ lạ không ? Có vô lý không ? Có điên khùng không ? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu:”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39) ?
Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi : Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau :
“Bỏ Ngài con biết theo ai”
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
– Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
– Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
– Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu ?
– Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
– Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)
Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng :”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !
Truyện : vua Charles V.
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói :
– Con chọn cái nào ?
Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi :
– Sao con lại chọn thanh kiếm ?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp :
– Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.
Chúng ta đã quen với khẩu hiệu :”Per crucem ad lucem” : qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ øthanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên
Xả thân nếu muốn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.
(Mt 16,24)