“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Bài Ðọc I: Ðnl 4, 1-2. 6-8
“Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm”.
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi. Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: ‘Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt’. Không một dân tộc nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở bên cạnh chúng ta, khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như ta trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?”
“Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy”.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 4c-5
Ðáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)
Xướng: Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
Xướng: Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
Xướng: Người dẫu thề điều chi bất lợi, cũng không thay đổi, không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.
Bài Ðọc II: Gc 1, 17-18. 21b-22. 27
“Anh em hãy thực thi lời đã nghe”.
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật.
Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Tin Mừng: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
THỜ CHÚA VỚI CẢ TẤM LÒNG
Đức Giê-su trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta…’.” (Mc 7,6-8)
Suy niệm: Nếu rửa tay trước khi ăn chỉ là vấn đề vệ sinh thường thức thì hẳn không có gì sai. Nhưng đối với những người Pha-ri-sêu thì đây là truyền thống của cha ông mà họ nhất định phải duy trì: Họ cho rằng chỉ bằng những việc rảy nước, những nghi thức bên ngoài là họ có thể tẩy rửa sạch những ô uế trong tâm hồn. Và tệ hại hơn cả là trong khi cẩn thận “duy trì truyền thống của cha ông”, họ lại coi thường, “gạt bỏ điều răn của Chúa”.Đức Giê-su trách họ là “đạo đức giả”. Ngài cho biết những nghi thức bên ngoài chỉ có giá trị khi chúng phát xuất từ tấm lòng bên trong, bởi vì “điều quan trọng nhất trong Lề Luật, là công lý, lòng nhân và thành tín” (Mt 23,23).
Mời Bạn: Thời nay cũng có nhiều người Pha-ri-sêu như thế, như C.S. Lewis viết: “Tôi tin rằng có quá nhiều người đi lễ nhà thờ nhưng không phải là tín hữu”. Người tín hữu đích thực không chỉ siêng năng ‘đọc kinh, xem lễ’ mà còn phải sống tinh thần Tin Mừng, thực thi công bằng bác ái trong cuộc sống. Thánh Gio-an tông đồ khích lệ: đó không phải là điều gì quá khó khăn, bởi vì ai tin vào Đức Ki-tô cũng yêu mến Ngài, và “ai yêu mến Thiên Chúa thì tuân giữ các điều răn của Ngài, mà các điều răn của Ngài thì có nặng nề gì đâu” (1Ga 5,3).
Sống Lời Chúa: Tâm niệm rằng ngày nào tôi chưa làm một hành vi bác ái, ngày đó tôi chưa là Ki-tô hữu đích thực.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con, để lời con tuyên xưng niềm tin tương hợp với lòng con yêu mến Chúa biểu lộ nơi đời sống bác ái bên ngoài của con.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII này đều hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm này chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu này cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
1. Lề Luật là nguồn sống
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…”. Biểu thức này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật này nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời này là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm này, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa này tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn này được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
2. Lề Luật bất khả xâm phạm
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép này nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức này được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCN, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách này” (Kh 22: 18-19).
Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
3. Lề Luật là lẽ khôn ngoan
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn này, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1).
4. Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại này chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”. Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát này rất hiếm kể ra trong tác phẩm này. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc này trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
5. Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người”. Lời khẳng định này đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê này, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
1. Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
2. Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa” gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
3. Đức tin năng động
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiễn: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư này.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư này. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói này vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
1. Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.
2. Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật này không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
3. Ý nghĩa của cuộc tranh luận này
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng này sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá này và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng của Ngài và ban cho họ Lề luật để tuân giữ. Đối với họ, nhiệt thành tuân theo lề luật là một cách thể hiện lòng yêu mến đối với Thiên Chúa. Ai yêu mến Lề luật và đem ra thực hành được kể là người khôn ngoan vì lề luật sẽ trở nên cho họ nguồn phát sinh sự khôn ngoan và đường dẫn tới sự sống và hạnh phúc.
Tuy nhiên, thực hành Lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết nhưng chúng chỉ là những yếu tổ bổ sung và phụ thuộc mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm. Chính cái động lực này đánh giá việc làm của chúng ta : nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình :”Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta”(Is 29,13).
Thiên Chúa đòi chúng ta một tấm lòng yêu mến và chân thành. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ mà chính là lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa thúc đẩy chúng ta làm những công việc đó. Làm việc mà thiếu lòng yêu mến thì tất cả sẽ trở nên vô giá trị và vô ích. Hãy thực hiện lời thánh Augustinô :”Ama et fac quod vis” : Cứ yêu đi rồi làm gì thì làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Đnl 4,1-2,6-8.
Ông Maisen truyền đạt cho dân Israel Lề luật của Thiên Chúa để họ đem ra thực hành. Ông căn dặn dân chúng hãy trung thành giữ Lề luật Chúa, đừng thêm cũng đừng bớt điều gì. Những thánh chỉ của Chúa không phải là gì khác ngoài cách biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài vì không có dân tộc vĩ đại nào đuợc Thần minh ở gần như Đức Chúa của dân Do thái mỗi khi họ kều cầu Ngài.
Do đó, những ai biết nhận ra tầm quan trọng, biết tuân giữ và biết sống theo Lề luật là những người khôn ngoan. Dân ngoại cũng phải nhận định rằng Israel là một dân tộc vĩ đại vì được Thiên Chúa ban cho họ những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề luật mà ông Maisen truyền lại cho họ. Giữ Lề luật là tỏ lòng yêu mến và trung thành với Đức Chúa.
+ Bài đọc 2 : Gc 1,17-18.21b-22.27.
Thánh Giacôbê, tác giả của lá thư này, không phải là một trong mười hai Tông đồ, nhưng là một người bà con của Đức Giêsu. Ngài lãnh trách nhiệm tổ chức và điều hành cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem. Ngài nài xin các tín hữu hãy ân cần đón nhận Lời Chúa vì Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài còn thêm : đón nhận Lời Chúa chưa đủ, còn phải đem ra thực hành để được sinh hoa kết quả. Cụ thể là “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
+ Bài Tin mừng : Mc 7,1—8a.14-15.21-23.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu tranh luận với nhóm biệt phái nhiều điều, nhưng chung qui là vấn đề sạch dơ :
– Họ dựa vào luật để qui định những cái gì sạch, cái gì dơ và từ đó buộc mọi người phải rửa tay trước khi dùng bữa.
– Họ chỉ chú trọng đến những cái gì bên ngoài dơ hay sạch chứ không chú trọng vào bên trong . Còn Đức Giêsu nhắc cho họ phải chú trọng đến vấn đề sạch dơ trong tâm hồn.
– Nhận thấy họ chỉ chú trọng vào những hình thức đạo đức bên ngoài, còn nội tâm thì trống rỗng nên Đức Giêsu coi họ chỉ là những người đạo đức giả :”Dân này thờ kính Ta bằng mội miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
– Ngài kết án việc làm sai trái của họ : lẫn lộn luật Thiên Chúa và tập tục của tiền nhân. Sai trái hơn nữa là họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thèm lòng chứ ai thèm thịt.
Người đời thường nói:”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy”, có nghĩa là người ta đến giỗ tết hiếu hỉ, thăm nom vì quan hệ tình cảm, vì cái lòng tốt đối với nhau chứ không phải cốt để ăn uống hoặc là thèm muốn miếng thịt đem biếu nhau. Trong quan hệ hằng ngày người ta cần cái lòng tốt chứ không cần hình thức bề ngoài. Câu tục ngữ này cũng giúp chúng ta hiểu rằng khi đến với Chúa, ta không cần phải chú trọng quá vào hình thức mà cần tấm lòng của chúng ta đối với Chúa, đó là yêu Chúa và tha nhân.
I. LỀ LUẬT VÀ TRUYỀN THỐNG.
Trong Cựu ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật :
1. Luật thành văn.
Trong hai thứ luật này có cái cổ hơn và quan trọng hơn là Lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
2. Luật truyền khẩu hay truyền thống.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Các luật lệ và qui tắc ấy không hề được viết ra cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
II. TRUYỀN THỐNG TRONG NGHI THỨC RỬA TAY.
1. Tập tục rửa tay.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát vôi vữa sỏi sạn vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những choé đá lớn, hay bình bằng đồng, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để được chắc chắn là chúng không được dùng vào việc gì khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó.
Nghi thức rửa tay phải như thế này : trước hết bàn tay được xoè ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay vẫn còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là cách giải nghĩa cách thức rửa tay bằng mu bàn tay kia : mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia vàø toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa phải chụp các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi tay mới được sạch.
2. Rửa tay là việc quan trọng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài : tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Truyện : Nhịn uống để rửa tay.
Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước.
Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
3. Ý nghĩa việc rửa tay.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm và không khí. Điều đó không phải là quan trọng. Chỉ có một điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn : môi trường đạo đức. Điều xấu là ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm (Flor McCarthy).
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong thánh lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc :”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tôi con phạm xin Ngài thanh tẩy”. Nhưng tiếc thay, nhiều người Do thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói:”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”.
III. SAI LẦM TRONG VIỆC GIỮ TRUYỀN THỐNG.
1. Họ chỉ biết giữ lấy truyền thống.
Đọc bốn sách Tin mừng, ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do thái : họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy :”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”(Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu nghĩ thế nào về họ ? Ngài trách cứ họ hai điều : một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị.
2. Họ là những người giả hình.
Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài :”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người”(Is 29,13).
Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả. Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu :
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó , ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, song người ta không qúi mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn bận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài.
(Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198)
Truyện : Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ : đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận : những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
3. Họ làm đảo lộn giá trị.
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ:”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”. Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
IV. ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY TA.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các tông đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học : cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói:”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa dó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”.Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy.
Chúng ta cần lưu ý rằng luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao ! Ngài biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên mà Ngài đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập tục tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này, mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tính, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).