“Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!”
(Mt 25,8)
BÀI ĐỌC I: Kn 6, 13-17 (Hl 12-16)
“Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước.
Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình, vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết sức ân cần đón tiếp họ.
ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 7-8
Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước. – Đáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. – Đáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. – Đáp.
4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Tx 4, 13-14 (hoặc 13-18)
“Nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.
Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Đức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi. Vì thế, anh em hãy dùng những lời đó mà an ủi nhau.
TIN MỪNG: Mt 25,1-13
1 “Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.
3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. 4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. 5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. 6 Nửa đêm, có tiếng la lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!”
7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. 8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” 9 Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” 10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.
11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” 12 Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”
13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
CANH THỨC SẴN SÀNG
“Các cô dại nói với các cô khôn rằng: ‘Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em sắp tắt rồi.’ Các cô khôn đáp: ‘Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn’.” (Mt 25,9-10)
Suy niệm: Thoạt mới nghe, có lẽ chúng ta cũng thắc mắc: sao các cô khôn lại không thể chia sẻ cho những cô dại chút ít dầu nhỉ? Còn đâu là tinh thần bác ái nữa! Nếu chỉ là chuyện dầu đèn thì thắc mắc như vậy cũng không sai. Nhưng dụ ngôn muốn nói đến những điều đi xa hơn chuyện dầu đèn. Quả thực, có những điều chúng ta có muốn chia sẻ cũng không thể được. Có cảm thông nỗi đau của người bệnh, tôi cũng không thể chia sẻ sức khoẻ của tôi cho họ được; người thân của tôi đang hấp hối, muốn ‘chuyển khoản’ cho họ chút ít thời gian để họ sống thêm với mình cũng đành bất lực… Vâng, cuộc đời là một cuộc hành trình mà mỗi người phải tự đi, không ai thay thế được. Vậy hãy chuẩn bị đầy đủ dầu đèn cho cuộc hành trình ấy: hãy là một ngọn đèn chứa đầy chất dầu của tình yêu thương, và luôn cháy sáng bằng những hành vi ngay chính.
Mời Bạn: Phải chăng cứ ở lì trong nhà thờ đọc kinh là cách tốt nhất để chuẩn bị cho hành trình về đời sau? Chắc chắn là không. Mà là sống kết hiệp thường xuyên với Đức Ki-tô và chu toàn tốt đẹp mọi bổn phận hằng ngày của mình. Phần bạn, có bao giờ bạn nghĩ đến giờ ra đi của mình chưa? Bạn đã chuẩn bị thế nào cho cuộc hành trình đó?
Sống Lời Chúa: Không ai biết mình ra đi lúc nào, hãy năng kết hiệp với Chúa.
Cầu nguyện: Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để cho tôi tớ Chúa được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. (Nunc Dimittis)
B/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
NĂM CÔ TRINH NỮ KHÔN NGOAN
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.
Trên đường về với Chúa, chúng ta thường xuyên bị cản bước tiến, do bởi sự ngu dại của chính mình. Điều mà thế gian cho là khôn ngoan, thì lại là ngu dại đối với Thiên Chúa, ngược lại, khôn ngoan của Thập Giá, thì lại là ngu dại và điên rồ đối với thế gian. Khôn ngoan của thế gian sẽ làm cho chúng ta bị trói buộc, mất tự do; Khôn ngoan của Thập Giá sẽ làm cho chúng ta được thanh thản, hoàn toàn tự do để thực hiện ý Chúa.
Đức khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta trong việc tuân giữ những gì Chúa dạy. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, nhờ ơn khôn ngoan Chúa ban, mà Đanien và các bạn vẫn giữ được Luật Chúa, không ăn những đồ ô uế, ngay tại triều đình vua ngoại đạo: Họ được Chúa ban ơn hiểu nhiều, biết rộng, về tất cả chữ nghĩa, và lẽ khôn ngoan. Chúa cho lòng họ đầy tràn ơn thông hiểu. Khi vua hỏi họ: về bất cứ điều gì, cần đến sự khôn ngoan và tài trí, vua đều được toại lòng. Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Khôn Ngoan, chỉ với vỏn vẹn 5 câu, mà cụm từ “Đức Khôn Ngoan” được lặp đi lặp lại đến 14 lần: Ai tìm kiếm, khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan sẽ cho gặp.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách cho thấy: Do trí khôn mù tối, chúng ta đã tôn thờ gỗ đá, vàng bạc và đồng là những thứ do con người làm ra, và suốt đời, chúng ta sống mà cũng chỉ như đã chết. Chúng ta bị bóng tối bủa vây và chỉ còn nhìn thấy đêm đen dày đặc. Tuy nhiên, Thiên giàu lòng từ bi, Người không để chúng ta chết trong sự ngu muội của mình, cho nên, Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để chúng ta được cùng sống với Người. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 62, vịnh gia đã diễn tả sự khôn ngoan của mình qua niềm khao khát Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: sự khôn ngoan được diễn tả qua việc tỉnh thức và sẵn sàng: Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Bài Tin Mừng cho thấy năm cô khôn ngoan đã mang đèn và mang theo cả chai dầu. Có lẽ, năm cô khôn này cũng đã bị năm cô dại cười nhạo: rườm rà, phiền phức, mất công. Trước khi chàng rể đến, cả mười cô đều như nhau, cũng ngủ cả, nhưng, khi chàng rể đến, thì đã có một sự khác biệt rất lớn, giữa những cô khôn và những cô dại. Tình yêu sẽ làm phát sinh những sáng kiến. Khôn ngoan là ở chỗ đó. Do đó, thánh Autinh nói: Yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu đích thực, thì không bao giờ sai lầm. Thiên Chúa là tình yêu, cho nên, Người không bao giờ sai lầm. Người luôn có những sáng kiến để yêu chiều chúng ta. Sáng kiến vĩ đại của Người chính là sự khôn ngoan của Thập Giá, điều mà thế gian coi là ô nhục, và điên rồ. Niềm khao khát đón gặp chàng rể, khiến các cô khôn chuẩn bị thêm cả chai dầu: dù có phiền phức, vất vả, khó chịu một chút, nhưng, lại là sáng kiến khôn ngoan của tình yêu. Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Ước gì chúng ta biết khước từ sự khôn ngoan của thế gian, để trở nên ngu dại, và điên rồ vì Đức Kitô, hầu chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng với một tình yêu tự do thực thi ý Chúa, để rồi, chúng ta được thong dong cùng Chúa tiến vào Tiệc Cưới.
C/ Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
I. BỐI CẢNH
Mt 25, 1-13 nằm trong loạt bài giảng về cánh chung (Mt 24 – 25), cũng là bài giảng cuối cùng của Đức Giêsu theo bố trí của tác giả Mátthêu. Mệnh lệnh “hãy canh thức” vào cuối dụ ngôn này là mệnh lệnh chính yếu cho thái độ của các tín hữu trong ngày cánh chung. Mệnh lệnh này đã được nhắc đến trong Mt 24,42. Trước dụ ngôn này là dụ ngôn “người đầy tớ trung tín” (Mt 24,45-51), mô tả thái độ và hành động của một người đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Trong dụ ngôn “mười người phụ dâu”, yếu tố khôn ngoan và sẵn sàng cũng được nhấn mạnh. Sau dụ ngôn “mười người phụ dâu” là hai dụ ngôn “những yến bạc” (Mt 25,14-30) và “cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46). Câu chuyện “mười trinh nữ” là dữ liệu riêng của tác giả Mátthêu. Nó nối kết với dụ ngôn “tiệc cưới của con trai nhà vua” (Mt 22,1-14; Lc 14,15-24) vời cùng chủ đề tiệc cưới.
II. CẤU TRÚC
Câu chuyện được cấu trúc dựa trên ba nhóm nhân vật: Chàng rể (xanh lá); năm trinh nữ khờ dại (màu đỏ) và năm trinh nữ khôn ngoan (xanh biển). Chàng rể là nhân vật chủ chốt của câu chuyện, nhưng hai nhóm nhân vật hoạt động chính lại là nhóm trinh nữ khờ dại và trinh nữ khôn ngoan. Danh xưng không ngoan, kéo theo hành động khôn ngoan, trở thành người chuẩn bị, và cuối cùng đi vào tiệc cưới cùng chàng rể. Ngược lại, đặc tính khờ dại, kéo theo hành động khờ dại, trở thành người thiếu chuẩn bị, cuối cùng bị khóa bên ngoài cửa.
Dẫn nhập (c.1): Nước trời giống như mười trinh nữ đi đón chàng rể Năm cô khờ dại, và năm khôn ngoan (c.2) Những cô khờ dại mang đèn không mang theo dầu (c.3) Những cô khôn ngoan mang theo dầu trong bình cùng với đèn (c.4) Tất cả đều buồn ngủ và ngủ (c.5) Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể, hãy đi ra đón chàng (c.6). Tất cả các trinh nữ đều được đánh thức và chuẩn bị đèn (c.7) Những cô khờ dại: Hãy cho chúng tôi từ dầu của các chị (c.8) Những cô khôn ngoan: Chắc chắn không đủ cho chúng tôi và các chị (c.9) Đang khi họ đi mua, chàng rể đến (c.10a) Những người đã chuẩn bị đi vào tiệc cưới – cánh cửa được đóng lại (10b) Những trinh nữ còn lại: “Chúa ơi, Chúa ơi! Hãy mở cửa cho chúng tôi” (c.11) Tôi nói thật với các ngươi, Tôi không biết các ngươi (c.12) Kết Luận: Hãy canh thức vì anh em không biết, ngày nào và giờ nào (c.13) |
III. MỘT SỐ ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Chàng rể: Đức Giêsu được mô tả như chàng rể cả trong truyền thống Nhất Lãm và truyền thống Gioan. Trong câu chuyện tranh luận về việc cần thiết phải ăn chay, Đức Giêsu đã ví mình như chàng rể: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị mang đi, bấy giờ họ mới ăn chay” (Mt 9,15; Mc 2,19-20; Lc 5,34-35). Ông Gioan Tẩy giả mô tả Đức Giêsu như chàng rể: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể, còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng của chàng” Ga 3,29). Sách Khải Huyền nhắc đến tiệc cưới cuối cùng như là “tiệc cưới của Con Chiên” và ai được tham dự tiệc cưới này là một phúc lành (Kh 19,9). Trong dụ ngôn này, chỉ một mình chàng rể được đề cập mà không có cô dâu. Có thể đó là một ngụ ý về Đức Giêsu. Tác giả Mátthêu cũng nhắc đến một tiệc cưới trong Nước Trời (Mt 8,11). Ngài không có cô dâu như một đám cưới bình thường trong nhân loại. Hơn nữa, cuối cùng chàng rể được gọi bằng danh xưng “Chúa/ chủ” khác lạ lùng, rất có thể là cách dùng ám chỉ Đức Giêsu trong ngày cánh chung.[2]
- Cảnh chờ gặp chàng rể: Đám cưới theo phong tục Do Thái gồm có hai giai đoạn. Giai đoạn một, tạm gọi là đính hôn. Là một cam kết hôn nhân được cha mẹ đôi bên sắp xếp. Dù là giai đoạn đính hôn, họ đã chính thức là vợ chồng về mặt luật pháp, và nếu người chồng bỏ vợ phải có một giấy li dị. Đó là trường hợp của Giuse và Maria (Mt 1,18-19). Giai đoạn hai, là đám cưới, gồm có nghi lễ và tiệc cưới, thường kéo dài bảy ngày. Sau tiệc cưới cặp vợ chồng mới chính thức về chung sống với nhau trong một nhà. Thời cổ đại trong văn hoá Do Thái người ta cưới chồng khá sớm. Con gái vào khoảng 12, 13 tuổi, còn con trai vào khoảng 18 tuổi. Lễ cưới (giai đoạn hai) có thể bao gồm lễ hội đón rước trước. Trong lễ hội đón rước có phần đón rước của cô dâu và các phụ dâu (Tv 45,13-15; 1 Mcb 9,37) và đón rước của chú rể và những phụ rể (1 Mc 9,39; cf. Mt 9,15, nơi mà những người con của chú rể là những phụ rể, οἱ υἱοὶ τοῦ νυμφῶνος). Tiệc cưới thường được tổ chức tại nhà của ba mẹ chú rể như trong dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14; cf. Lc 14,16-24). Cảnh được mô tả trong dụ ngôn tiệc cưới này có thể là cảnh chờ chàng rể đến và đi vào phòng tiệc cưới. Có thể chàng rể trước đó đã đi đón cô dâu ở nhà cha mẹ cô dâu, như là nghi thức rước dâu thường thấy trong đám cưới hiện đại. Những cô hầu gái đứng trước phòng tiệc cưới tại nhà của cha mẹ chú rể để làm đoàn rước chú rể đi đón dâu về vào phòng tiệc. Cô dâu không hề được nhắc đến, vì chú rể là trung tâm và những người phụ dâu, là những người đáng chú ý trong dụ ngôn này.[3] Có tác giả cho rằng không thể xác định được nơi mà các trinh nữ đang chờ là nhà cô dâu hay nhà chú rể.[4] Điều chính yếu ở đây là có cảnh chờ đợi và yếu tố sẵn sàng thể hiện qua việc có chiếc đèn còn sáng.[5]
Cảnh đón chàng rể này có thể có bối cảnh trong “Bài ca mừng hôn lễ quân vương”:
“Thiếu nữ thành Tia mang lễ tới, phú hào trong xứ đến cầu ân.
Đẹp lộng lẫy, này đây công chúa, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
Phục sức huy hoàng, được dẫn tới Quân Vương, cùng các trinh nữ theo sau hầu cận.
Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” (Tv 45,13-16).
- Tính từ khôn ngoan (phronimos Mt 24,45; 25,2.4.8.9). Mátthêu dùng tính từ này nhiều hơn bất kỳ tác giả sách Tân Ước nào. Mátthêu dùng đến 7 lần trong khi Luca dùng có 2 lần (Lc 12,42; 16,8) và cả Máccô và Gioan đều không dùng lần nào. Nó được dùng 5 lần trong các thư của thánh Phaolô (Rm 11,25; 12,26; 1 Cr 4,10; 10,15; 2Cr 11,19). Tính từ khôn ngoan được dùng đến 4 lần trong dụ ngôn này. Lần đầu tiên nó đi kèm với danh từ số năm (năm người khôn ngoan), 3 lần sau được dùng như là những danh từ với mạo từ xác định chỉ những kẻ khôn ngoan (những trinh nữ khôn ngoan). Ngoài dụ ngôn này, Mátthêu còn dùng tính từ này 3 lần khác nữa. (1) Mt 7,24 so sánh một người nghe lời Đức Giêsu và đem ra thực hành với một người khôn ngoan xây nhà trên đá. Nhờ vậy, ngôi nhà được chắc chắn dù cho mưa, gió, lũ cũng không thể giật sập được. Sự khôn ngoan của người biết nghe và thực hành Tin Mừng của Chúa. (2) Trong Mt 10,16 Đức Giêsu dạy các môn đệ là Ngài sai các môn đệ như chiên đi vào giữa bầy sói, cho nên các ông phải “khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu”. Đó là sự khôn ngoan để phản ứng, cư xử trước những kẻ bắt bớ. (3) Mt 24,45 nói đến hai hình ảnh của hai người đầy tớ và số phận của họ. Một người thì khôn ngoan và trung tín. Anh ta sẽ được ông chủ đặt lên coi sóc mọi việc, mọi gia nhân trong nhà. Người kia thì xấu xa và sẽ bị ông chủ phanh thây, quăng vào chung với những kẻ giả hình. Ở đó anh ta phải khóc lóc và nghiến răng. Tính từ khôn ngoan rõ ràng là tính từ có tính quyết định trong dụ ngôn này. Sự khôn ngoan của các trinh nữ ở đây được cụ thể hóa bằng việc chuẩn bị thêm một bình dầu. Người khôn ngoan và cẩn thận luôn luôn dự trù mọi phương án xấu nhất có thể và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ.
- Tính từ khờ dại, ngu ngốc (moros). Tính từ này được thánh Mátthêu sử dụng ít hơn (6 lần) so với tính từ khôn ngoan (7 lần). Ngoài 3 lần trong dụ ngôn này (ít hơn khôn ngoan 1 lần), Mátthêu cũng sử dụng tính từ này thêm 3 lần nữa. Trong Mt 5,22 “sự ngu ngốc” được xem như là hình thức chống lại người khác ở mức độ nghiêm trọng nhất (Đức Giêsu liệt kê theo thứ tự 1. Ai giận anh em mình… 2. Ai mắng chửi anh em mình… 3. Ai nói (với anh em mình) là “đồ ngốc”). Hình phạt dành cho kẻ mắng anh em mình là “đồ ngốc” cũng là hình phạt cao nhất: “Đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt” trong khi hình phạt dành cho hai sự xúc phạm đầu tiên lần lượt chỉ là: “đáng bị xét xử” và “đáng bị đưa ra tòa”. Trong Mt 7,26 đối lại với những người nghe lời Đức Giêsu và đem ra thực hành – những người được ví như người khôn xây nhà trên đá – những kẻ nghe lời Đức Giêsu nhưng không đem ra thực hành thì được ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Nhà của họ sẽ bị sụp đổ tan tành trước những trận mưa, lũ và gió bão. Trong Mt 23,17 Đức Giêsu dùng tính từ này cùng với tính từ mù quáng để lên án những Kinh Sư và người Pharisêu, là những kẻ dẫn đường mù quáng, vì họ cho rằng người ta có thể thề bằng đền thờ mà không bị trói buộc, trong khi thờ bằng vàng trong đền thờ thì bị trói buộc. Đức Giêsu cho rằng vàng trong đền thờ thì không quan trọng bằng đền thờ là nơi làm cho vàng được thánh hiến.
Trong dụ ngôn này, đặc tính “ngu ngốc” được thể hiện ở chỗ “mang đèn, mà không mang theo dầu”. Thế giới hiện đại, pin dự phòng là một trong những phương tiện không thể thiếu trong những chuyến đi xa. Sự khôn ngoan, chuẩn bị giúp cho đương sự không phải bị động, lúng túng và nhiều khi bế tắc trong nhiều tình huống cấp bách. Tình huống lúng túng, bị động, phụ thuộc vào người khác của các cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn này là một ví dụ điển hình. Người ta có thể vay mượn từ người khác, hoặc xin xỏ từ người khác, nhưng người khác không bị bắt buộc phải giúp bất cứ ai hỏi xin mình. Trong trường hợp này những trinh nữ khôn ngoan đã trả lời là “không đủ cho cả các chị và cả chúng em”. Những cô trinh nữ khờ dại trở nên lúng túng bị động vì họ đã không chuẩn bị. Họ có thể đi mua, và thực tế họ đã đi mua, và mua được dầu nhưng có mua được cũng không có tác dụng gì nữa. Chàng rể đã vào phòng tiệc cưới và cửa đã đóng lại. Nhiệm vụ đi đón chàng rể của họ đã thất bại thảm hại. Họ phải đón chàng rể chứ không phải chàng rể đón họ. Khi chàng rể vào tiệc cưới rồi thì đèn đầy dầu vừa được mua thêm không còn tác dụng nữa.
- Tính từ sẵn sàng (hetoimos 24,44; 25,10). Đây là một tính từ đặc trưng của Tin Mừng Mátthêu. Tính từ này có nghĩa là được chuẩn bị, hay là sẵn sàng. Trong bối cảnh này nó được dùng như danh từ có mạo từ xác định: Những kẻ đã chuẩn bị, những kẻ đã sẵn sàng, theo chàng rể vào tiệc cưới. Tính từ này xuất hiện 3 lần khác nữa trong Tin Mừng Mátthêu. Trong một dụ ngôn về Nước Trời cũng liên quan đến tiệc cưới (22, 4.8), tiệc cưới, cỗ bàn được ông chủ thông báo với thực khách là đã “được chuẩn bị”, “đã sẵn sàng”, nhưng nhiều thực khách đã không sẵn lòng đến dự. Mt 24,44 là một lời mời gọi mang tính cảnh báo “hãy sẵn sàng” vì Con Người sẽ đến vào ngày và giờ chúng ta không ngờ. Những người sẵn sàng trong dụ ngôn này đồng hóa với những người “những trinh nữ khôn ngoan” họ đã mang theo dầu trong bình, đã thức dậy và chuẩn bị đèn khi nghe tiếng hô.[6]
- Động từ trì hoãn (chronizo)[7] được dùng hai lần trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 24,48; 25,5). Mt 24,48 nói đến việc người đầy tớ có suy nghĩ rằng chủ anh ta trì hoãn, chưa đến, nên anh ta cứ mặc sức đánh đập các đầy tớ đồng môn và ăn uống say xỉn. Chàng rể trong dụ ngôn này cũng trì hoãn, không đến đúng giờ nên các trinh nữ mệt và ngủ thiếp đi. Hành động trì hoãn này có hai tác dụng: (1) Tính bất ngờ và (2) Cơ hội để kiểm chứng sự tốt xấu của các đầy tớ (hay là các trinh nữ trong dụ ngôn này) qua sự chuẩn bị chu đáo và sẵn sàng của họ. Động từ này rất quen thuộc với những ai di chuyển bằng tàu hay máy bay trong thời hiện đại. “Delay” (trì hoãn) là điều chẳng ai muốn nhưng hành khách chẳng thể làm được gì ngoài việc sẵn sàng và chờ đợi.[8]
- Kiểu mẫu hai nhóm người: Trong Tin Mừng Mátthêu, người ta thường thấy kiểu kể chuyện đặt song hành hai nhóm người. Nhóm này khôn – nhóm kia dại, nhóm này sẵn sàng – nhóm kia không, nhóm này vào – nhóm kia ở ngoài, nhóm này bị chối từ – nhóm kia được đón nhận, nhóm này chung vui – nhóm kia buồn bã, thất vọng. Mt 7,13-20 cũng nói đến hai nhóm: Nhóm này chọn cửa rộng – nhóm kia chọn cửa hẹp; dẫn đến nhóm này được cứu và nhóm kia bị diệt vong; một nhóm cây tốt sinh quả tốt và nhóm cây xấu sinh quả sâu. Đặc biệt Mt 7,24-27 nói đến việc một nhóm người nghe và thực hành lời Chúa, được ví như người khôn xây nhà trên đá và dù cho mưa, lũ, gió cũng không làm sập được; nhóm khác nghe lời Đức Giêsu mà không thực hành thì giống như người ngu xây nhà trên cát, khi mưa, lũ, gió đến nó sẽ sụp đổ tan tành. Mt 22,1-14 nói đến hai nhóm khách được mời đến dự tiệc cưới con trai của nhà vua. Nhóm được ưu tiên mời trước lại là nhóm không được dự tiệc cưới, trong khi đó nhóm được mời bất ngờ lại có cơ hội được chung vui tiệc cưới. Mt 24,45-51 nói đến hai đầy tớ, một đầy tớ trung thành và khôn ngoan người sẽ được ông chủ đặt lên coi sóc mọi việc trong nhà và một đầy tớ xấu, sẽ bị ông chủ phanh thây, quẳng vào với những tên giả hình và nơi đó anh ta phải khóc lóc nghiến răng. Mt 24,40-41 nhấn mạnh đến việc một người được đem đi còn người kia bị bỏ lại. Cấu trúc diễn ta hai nhóm người rất phổ biến trong Tin Mừng Mátthêu và nó diễn tả một cách sống động giữa hai sự chọn lựa và dẫn đến hai kết quả trái ngược nhau. Sự phân biệt giữa hai nhóm người này trở nên khắc nghiệt trong bối cảnh cánh chung, vì nó là tình trạng vĩnh viễn, ảnh hưởng đến vận mệnh vĩnh cửu của đời người. Người ở trong và kẻ ở ngoài với hai tình trạng hạnh phúc – đau khổ khác biệt. Trong khi người ở trong chung vui hưởng nếm bữa tiệc, kẻ ở ngoài thành kẻ khóc lóc và nghiến răng.[9]
- Cửa đóng … không biết các ngươi là ai: Cánh cửa thể lý của phòng tiệc đóng lại, nhốt những trinh nữ khờ dại bên ngoài hình ảnh của hình phạt dành cho sự thiếu sẵn sàng của họ. Điều chính yếu không phải là tình trạng “khóa cửa” nhưng là sự “không nhận biết” của ông chủ. Cánh cửa phòng tiệc có thể không luôn luôn đóng trong suốt bữa tiệc,[10] nhưng không được chàng rể nhận biết thì không thể đi vào phòng tiệc. Đây là một dụ ngôn về Nước Trời (Nước Trời giống như…), nên việc được vào tiệc cưới ám chỉ đến việc được vào Nước Trời, và ở ngoài tiệc cưới đồng nghĩa với ở ngoài Nước Trời. Những người Đức Giêsu sẽ tuyên bố là “không biết”, có thể là những người chỉ tuyên xưng Người ngoài miệng, nhưng lại không thi hành lời Người giảng, thậm chí làm những điều xấu xa (Mt 7,21-23; Lc 13,25-27). Hơn nữa, trong Mt 7,24-27 diễn tả về hai hình ảnh đối lập “người khôn” – “kẻ dại”. Người nghe lời Đức Giêsu nói được ví như người khôn xây nhà trên đá, không bao giờ sụp đổ bởi tác động của những hiểm họa thiên nhiên. Kẻ nghe lời Đức Giêsu nói và không mang ra thực hành được ví như “kẻ dại” xây nhà trên cát, sẽ sớm sụp đổ trước tác động của thiên tai. Như thế, tình trạng không sẵn sàng, đèn không có dầu, tắt ngúm, có thể là tình trạng của những người không làm theo lời Đức Giêsu dạy, mà làm những điều xấu xa, bất chính.
- Đèn (đuốc) tắt: Hình ảnh “đèn bị tắt” được suy đoán là không đủ dầu. Hình ảnh những trinh nữ khờ dại “không mang theo dầu” được đề cập lúc đầu là để chuẩn bị cho tình huống này. Cả hai nhóm đều ngủ, và có lẽ đèn của cả hai nhóm đều tắt, nhưng chỉ có những người khôn ngoan có dầu để tiếp tục thắp sáng đèn của mình. Hình ảnh người thiếu dầu dự phòng trong bối cảnh trực tiếp có thể hiểu như là hình ảnh một đầy tớ xấu xa, nghĩ trong lòng rằng: “Ông chủ của tôi (ὁ κύριος) trì hoãn, và bắt đầu đánh đập các đồng đầy tớ, ăn và uống đến say sưa” (Mt 24,48-49). Đó cũng có thể là hình ảnh của người đầy tớ “xấu xa và biếng nhác”, không làm lợi từ nén bạc của ông chủ giao cho mà đem chôn giấu nó dưới đất (Mt 25,24-28). Trong bối cảnh xa hơn, tác giả Hare đề xuất cách hiểu dầu như là những công việc tốt lành, không làm những điều xấu (Mt 5,19); tình yêu dành cho kẻ thù (5,44), tình yêu dành cho người đồng bạn (24,12), sự tha thứ cho người khác (18,21-35); đức tin thật sự (21,21), lòng trung thành với Đức Giêsu (10,32), tình yêu dành Thiên Chúa (22,37).[11]
- Động từ diễn tả sự cảnh báo cao độ: Hãy canh chừng, coi chừng[12] (gregoreo Mt 24,42-43; 25,13; 26,38.41 trong vườn cây dầu). Chúng ta gặp thấy động từ này trong Mt 24,42-43. Trong Mt 24,42 Đức Giêsu cảnh báo là “hãy coi chừng vì anh em không biết Chúa của anh em đến ngày nào”. Đây cũng là động từ được Đức Giêsu dùng để cảnh báo các môn đệ trong vườn cây Dầu (Mt 26,38.41). Họ đã không nghe lời cảnh báo của Đức Giêsu. Họ ngủ li bì trong giờ khắc quyết định, khi Đức Giêsu phải cầu nguyện, lo lắng đến đổ mồ hôi máu. Dĩ nhiên, đây không chỉ nói về giấc ngủ về thể lý nhưng là giấc ngủ về phương diện thiêng liêng. Họ thiếu sự cầu nguyện, niềm tin, lòng can đảm, tín thác và trung thành với Chúa. Và rõ ràng cuối cùng họ đã sa ngã. Họ chạy tán loạn, mỗi người mỗi ngã, mạnh ai nấy chạy bỏ lại thầy bơ vơ một mình. Lời cảnh báo chốt lại dụ ngôn này là: “Hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Lời cảnh báo này cũng xuất hiện dày đặc trong bài giảng cánh chung trong Tin Mừng Mátthêu (Mt 24,36.42.44.50). Như vậy, nó rất quan trọng, buộc những người đọc Tin Mừng Chúa phải quan tâm lưu ý nằm lòng, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Việc chàng rể đến vào lúc nửa đêm là một “bất ngờ” không tưởng, vì chẳng có ai ngờ chàng rể lại đến muộn như thế.[13] Người có thể canh chừng, có thể ứng phó trong tình huống bất ngờ như thế, chứng tỏ là người luôn sẵn sàng trong mọi lúc.
IV. BÌNH LUẬN TỔNG QUÁT
Dụ ngôn mười trinh nữ đi đón chàng rể nằm trong bối cảnh những bài giảng về thời cánh chung (thời cuối cùng) của Tin Mừng Mátthêu (ch.24 – 25). Đây là một trong những dụ ngôn chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu mà thôi.[14] Có nhiều nhà chú giải cho rằng dụ ngôn theo nguyên gốc có thể nói về Tiệc Cưới Nước Trời trong đó Đức Giêsu là chàng rể, chính là Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người và mời gọi họ vào tiệc vui với Ngài. Đối tượng người nghe lúc Đức Giêsu giảng dạy có thể là những người đồng hương Do Thái. Đó cũng là một khả thi. Tuy nhiên, theo cách bố trí của Tin Mừng Mátthêu thì dụ ngôn này rất có thể là nói về thời cánh chung, thời Đức Giêsu đến lần thứ hai để phán xét và ban thưởng luận phạt những người có công và kẻ có tội. Và đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến là tất cả mọi người tin trên toàn thế giới qua mọi thời đại. Dụ ngôn phân rõ ranh giới giữa hai nhóm trinh nữ có cùng nhiệm vụ và cùng vị trí thế nhưng sự chu đáo, sự khôn ngoan thì quá sức khác biệt. Năm người khôn ngoan biết chuẩn bị cho mình phương án dự phòng để họ có thể xoay xở trong tình huống khó khăn. Ngược lại, năm người khờ dại thì rõ ràng thiếu sự tiên liệu và không lo lắng cho đủ. Và hậu quả là như ông bà ta thường nói: “Người không biết lo xa, ắt sẽ buồn gần”. Kết quả đã cho thấy những người có phương án dự phòng cách khôn ngoan thì luôn có khả năng thành công trong mọi việc. Còn kẻ thiếu khôn ngoan, không biết lo lắng, nguy cơ thất bại luôn rình chờ. Trong đời, có những may mắn thế nhưng không có nhiều và không phải lúc nào cũng gặp may được. Người khôn ngoan tự tạo ra sự chắc chắn cho mình chứ không phải cứ trông vào may mắn hay cậy dựa vào người khác. Trên đường đời luôn có những người tốt, thế nhưng, không phải lúc nào gặp khó khăn thì cũng có người tốt để cậy nhờ. Sự từ chối của những cô khôn ngoan không hẳn là sự ích kỷ, nhưng là không đủ cho cả hai, dầu của họ chỉ đủ dùng cho nhiệm vụ của họ. Dầu dùng cho ngày cánh chung được tích góp, chuẩn bị bằng cả cuộc đời của mỗi tín hữu chứ không phải là mua, hay xin xỏ trong chốc lát. Quả thế, những hành động yêu thương, bác ái; những cử chỉ thân thiện, tử tế với bạn hữu; những hy sinh của bản thân; những gọt giũa cho giống hình ảnh Thiên Chúa… tất cả những hoa trái ấy (dầu đèn của đức tin) mỗi cá nhân tự sinh ra mỗi người trong cuộc đời họ, không thể vay mượn của ai được.
Sự trì hoãn và xuất hiện cách bất ngờ (nửa đêm) của chàng rể đã làm cho các trinh nữ giật mình. Và dẫu vậy thì những kẻ đã có sự chuẩn bị chu đáo vẫn có thể trở tay kịp. Còn những kẻ thiếu sự tiên liệu thì trở tay không kịp. Lời cảnh báo của Đức Giêsu “hãy coi chừng” cùng với lý do là “không biết giờ nào, ngày nào”, được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy tầm quan trọng của nó đối với đời người. Đó không đơn giản chỉ là bài học cho sự thành công của những công việc đời thường. Nhưng là, chọn lựa sống còn của con người cả đời này và đời sau nữa. Chàng rể là Đức Giêsu đến lần cuối và những ai được vào tiệc cưới với Ngài là vào vĩnh viễn, còn những ai bị đứng ngoài là đứng ngoài thiên thu vạn đại. Tất cả đều phụ thuộc vào chọn lựa và sống mỗi ngày của chúng ta. Việc có thể vào Nước Trời không phải là một chọn lựa nhất thời. Như kiểu các trinh nữ khờ dại, thấy chàng rể đến thì mới lật đật đi mua dầu. Đó là thái độ của những kẻ toan tính nhất thời. Đời sống kitô hữu phải là những chọn lựa và chiến đấu liên lỷ, không phải là một toan tính vào giờ chót của cuộc đời mình. Dĩ nhiên, Chúa ban ơn cứu độ cho nhiều người vào giờ chót như kẻ trộm lành chẳng hạn. Tuy nhiên, đó là giây phút gặp gỡ và quay về thật sự, chứ không phải anh ta toan tính rằng cả đời mình cứ làm ác, sống thoải mái, phạm đủ thứ tội đi rồi đến gần cuối đời quay trở về là vừa. Đó là toan tính của những kẻ bất chính và những người khờ dại. Vì Chúa đến bất ngờ, chẳng có ai làm chủ được mạng sống của mình và quyết định được giờ chết của mình. Những trinh nữ khôn ngoan chuẩn bị mọi sự chu đáo để làm tròn sứ mạng đón rước chàng rể và được phần thưởng là chung vui với chàng rể. Những người tín hữu phải có sự chuẩn bị hơn thế nữa bởi lẽ người họ chờ đón không chỉ là chàng rể của một buổi tiệc cưới nhưng là người cha yêu thương của họ. Phần thưởng của họ không chỉ là một buổi tiệc cưới với những món ăn ngon và niềm vui trong một đêm (hoặc là bảy ngày bày đêm theo truyền thống tiệc cưới của người Do Thái), nhưng là niềm vui, sự hạnh phúc viên mãn đến tròn kiếp sau. Người kitô hữu khôn ngoan, luôn sống đẹp tình Chúa tình người, cư xử tử tế và đúng mực trong mọi việc với mọi người thì không cần quan tâm ngày giờ nào Chúa đến, vì thực tế Chúa đang ở trong tâm và trong từng hành động của họ rồi.
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI
A.DẪN NHẬP
Con người ai cũng phải nghĩ tới tương lai, một tương lai đầy hy vọng và tốt đẹp. Người khôn ngoan thật là người phải biết chuẩn bị cho tương lai tươi sáng đang đón chờ, tức là phải nhắm đến cái cùng đích của mình. Cùng đích của Kitô hữu là phải chiếm hữu được Nước trời. Cuộc sống ở trần gian này là một thời ước mong và chờ đợi.
Những bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nói về sự chờ đợi đó và sống trong sự chờ đợi này ngõ hầu không phải vỡ mộng vô phương cứu chữa sau khi chờ đợi. Nhưng nhiều người đã vỡ mộng thật! Nếu vào ngày chúng ta chết, vì thiếu khôn ngoan và lo xa, chúng ta lại nghe Chúa phán: “Ta không biết các ngươi”.
Cuộc sống trần gian chỉ là cuộc hành trình về Quê Trời. Đã nói đến hành trình thì phải nói đến hành trang, mà hành trang của Kitô hữu là chiếc đèn đầy dầu, tức là một cuộc sống lành thánh và đầy công phúc. Cuộc sống ở đời này rất bấp bênh, kết thúc lúc nào không ai biết vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”!
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Một khi đã chuẩn bị sẵn sàng thì chúng ta sẽ được bình yên, không còn lo sợ trước cái chết vì “Cẩn tắc vô ưu” mà: cẩn thận đề phòng thì khỏi phải lo phiền.
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Kn 6,13-17
Trong bài đọc 1 này Thánh kinh thôi thúc chúng ta tìm sự khôn ngoan, vì khôn ngoan là món quà cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người. Hãy tìm kiếm khôn ngoan và khôn ngoan sẽ đáp ứng, Khôn ngoan sẽ đến gặp chúng ta như một người bạn. Nhờ có khôn ngoan mà con người biết sống thế nào cho phải, tìm ra cái gì phải tìm. Nhờ có đức tính này mà con người có thể định hướng được cuộc đời của mình mà không sợ lạc hướng.
Đối với người Kitô hữu, sự khôn ngoan ấy được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”. Ai theo Ngài sẽ tiến tới con đường cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 4,13-18
Thánh Phaolô vui mừng vì thấy tín hữu Thessalonica đón nhận Tin mừng do Ngài rao giảng và sống đức tin vững vàng. Nhưng họ có một tâm trạng lo âu: họ đang mong chờ đến ngày tận thế để được gặp Chúa Giêsu, nếu họ chết trước thì họ sẽ không được gặp Ngài.
Nhưng thánh Phaolô làm cho người Thessalonica yên tâm bằng cách cho họ tin chắc rằng: khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài, và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi. Vì thế, họ hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến trong tinh thần tin tưởng.
+ Bài Tin mừng: Mt 25,1-13
Dụ ngôn 10 cô trinh nữ nói lên sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa là biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa quang lâm. Chúa sẽ đến nhưng chúng ta không biết ngày nào giờ nào. Việc chúng ta phải làm là hãy dự trữ đầy đủ dầu đèn tức là phải tỉnh thức. “Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Chắc chúng ta thắc mắc về một chi tiết: 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại vay mượn dầu. Phải chăng chi tiết này nói lên tính ích kỷ của các cô khôn ngoan ? Chắc không phải thế! Chúa Giêsu muốn dùng chi tiết này để nói rằng trước số phận đời đời không ai có thể giúp ai được, mỗi người phải tự lo lấy. Vậy mỗi người phải tự lo bằng cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA:
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
I.BỐI CẢNH CỦA DỤ NGÔN
1.Phong tục cưới hỏi người Do thái
Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do thái.
Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ Palestine. Ông viết: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy ? Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp: “Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành”.
Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Theo ý của công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng: “Kìa, chàng rể đang đến”. Việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra. Dụ ngôn có nhiều chi tiết, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
2.Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn này nhằm cảnh cáo những thính giả gần là người Do thái và những thỉnh giả xa là chúng ta ngày hôm nay là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
* Dụ ngôn nhằm trực tiếp vào người Do thái. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, cả lịch sử của họ đúng ra là một cuộc sửa soạn cho cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa, lẽ ra họ phải chuẩn bị cho Ngài tới. Nhưng họ đã không chuẩn bị đón tiếp Ngài, vì thế họ đã bị loại ra như 5 cô trinh nữ khờ dại.
* Dụ ngôn còn gián tiếp cảnh cáo chúng ta khi chúng ta không chuẩn bị đón tiếp Chúa đến trong ngày tận thế và nhất là trong ngày sau hết của đời mình. Chúng ta quá mải mê với đời sống ở trần gian, chỉ biết tìm hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi hạnh phúc thật đời sau. Chúng ta rất dễ lần lữa trễ nải đến nỗi không còn thời giờ chuẩn bị mình đến gặp Chúa vì Chúa đến rất bất ngờ.
* Dụ ngôn này nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ. Cl Tassin viết: “Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục, Chúa phải là linh hồn của thời gian chờ đợi. Hội thánh sống với lòng mong đợi ngày cánh chung ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày” (Tassin, l’Évangile de Matthieu, Centurion, tr 260).
II.BÀI HỌC ĐƯỢC RÚT RA
Ngày xưa, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do thái không chịu chuẩn bị cho Ngài đến trong việc cứu chuộc loài người, nên họ đã bị loại ra ngoài và dành cho các dân tộc khác. Ngày nay, với dụ ngôn này, Chúa cũng cảnh cáo chúng ta đừng quá mê man sự thế gian mà quên đi giờ chết của mình. Chúa sẽ đến gọi chúng ta ra khỏi đời này một cách bất ngờ và ngày giờ nào chúng ta không biết. Chỉ có một điều chúng ta phải làm là tỉnh thức và sẵn sàng.
1.Mọi người đều phải chết
Kinh nghiệm người đời cho hay: không ai có thể sống mãi. Từ xưa đến nay, người ta đã nỗ lực đi kiếm tìm thuốc trường sinh, nhưng đã thất bại. Bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu vĩ nhân lừng danh thế giới đã qua đi, chỉ còn lưu lại trên sử sách. Vì thế người ta mới đặt một dấu hỏi và tự trả lời: “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết ? Theo Kinh thánh, ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi, tất cả đều đã chết. Vì thế người ta mới nói:
Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
Biết là mọi người sẽ phải chết đấy, nhưng mấy ai nghĩ đến sự chết để dọn mình sẵn sàng.
Nhà nhiếp ảnh Mạnh Đan có chụp một bức hình thần tình. Bức hình trình bày hai nhân vật: một cụ già đang quay lưng đi, một thiếu niên đang quay mặt lại. Và tác giả đã đặt cho bức hình ấy một tên không thể khéo đẹp hơn: QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI.
Thật vậy, quá khứ và tương lai, hay là lớp người già và lớp người trẻ, là hai hạng người ngồi châu lưng lại cho nhau. Lớp người trẻ nhìn về phía trước mặt. Lớp người già nhìn về phía sau lưng. Vì thế Thánh kinh nói: “Trẻ thì mộng tới tương lai, già thì chiêm bao về quá khứ” (Joel 3,1).
Tâm lý trẻ già khác nhau đấy: người thì nhìn về quá khứ, người thì nhìn về tương lai. Nhưng cả hai ít khi nghĩ đến sự chết kể cả người già, vì chết là một cái gì bi quan làm mất đi niềm vui của cuộc sống. Do đó, người ta tạm quên đi để hưởng trọn cuộc đời đầy bấp bênh này.
Tuy nhiên, cũng có những người khôn ngoan biết lo xa để chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn của mình. Vua Ferdinand II của Pháp, ở trong phòng giấy và nơi ngủ, ngài dạy phải viết câu này: “Annos aeternos in mente habui”: Tôi hằng nhớ những năm vô tận.
2.Giờ chết đến bất ngờ
Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng lời khuyên: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Lời khuyên dụ tỉnh thức ở đây giống như câu đầu của dụ ngôn chủ nhà (Mt 24,42) vì không biết ngày nào giờ nào ông chủ về, nên người đầy tớ phải tỉnh thức luôn. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng này giữ con người ở tình trạng thường xuyên sống trong ơn nghĩa Chúa và gia tăng việc lành phúc đức mỗi ngày một hơn.
Truyện: Núi lửa Vésuve
Cách đây hơn 1900 năm, núi lửa Vésuve đã phun lên ở Italia. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompei đã bị chôn dưới lớp phún thạch tới 18 bộ (gần 6 mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần đây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên.
Mọi người cũng phải ngạc nhiên về những điều khám phá được… Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Bằng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân.
Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang cuốn chặt đứa con trong tay mình, hoặc một lính gác Rôma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới lúc cuối cùng… Nhưng cũng có người chết đang lúc nhậu nhẹt, có người đang đánh nhau để tranh giành một số tiền (Cf M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 322-323).
3.Phải chuẩn bị sẵn sàng
Hai bài đọc hôm nay nhắc cho chúng ta phải sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. Khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như 5 trinh nữ khôn ngoan kia không hay lại chẳng chuẩn bị gì như 5 trinh nữ khờ dại ?
a) Phải sống khôn ngoan
Người ta thường nói: “Khôn ba năm dại một giờ” (Tục ngữ). Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải cố gắng suốt cả đời vì “chỉ có ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, chỉ thiếu khôn ngoan một chút là trở thành dại, đem đến sự tai hại khôn lường. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta đâu là sự khôn ngoan đích thực và phải hành động ra sao để có sự khôn ngoan đó.
Như chúng ta đã biết có nhiều loại khôn ngoan: khôn ngoan chủ quan hay khách quan, khôn ngoan do kinh nghiệm hay do học hỏi, khôn ngoan xưa hay ngày nay. Và mọi sự khôn ngoan không luôn có tầm quan trọng như nhau vì có những thứ khôn ngoan chỉ hữu dụng tạm thời hay tuỳ cơ ứng biến, lại có những thứ khôn ngoan có giá trị bất biến mà ai cũng phải công nhận.
Một trong những thứ khôn ngoan quan trọng đó mà dụ ngôn đề cập tới: “Mọi người sống ở trần gian sẽ qua đi, chỉ cần một việc quan trọng là chiếm hữu cho được Nước trời”. Đây là sự khôn ngoan mà Chúa muốn truyền dạy chúng ta như một chân lý căn bản hướng dẫn một cuộc đời và chi phối tận gốc rễ mọi sinh hoạt của con người mong đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban.
Truyện: Diogène bán sự khôn ngoan
Triết gia ngoại đạo Diogène dọn một chỗ ở giữa thành Athènes. Ở đó, ông treo một tấm bảng có đề chữ: “Đây có bán sự khôn ngoan”. Một người kia thấy câu đó, liền sai đầy tớ đem tiền đến mua. Diogène bỏ tiền vào túi rồi trả lời:
– Hãy về thưa lại với chủ câu này: “Trong mọi sự phải nghĩ đến cùng đích”.
Người chủ cho đó là một câu đầy giá trị. Ông truyền khắc câu đó bằng chữ vàng và treo trước cửa nhà. Như vậy, ông muốn nhắc nhở kẻ khác năng nhớ đến mục đích của con người sống trên mặt đất này, vì đó là điều quan trọng nhất.
b) Sẵn sàng đón Chúa đến
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân liên quan đến mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự tỉnh thức và sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi, chứ không phải trong một thời gian nào thôi vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và nhân đức nữa. Đúng như người ta nói: “Đèn không dầu như cầu không nhịp”.
Đèn không dầu thì đốt không cháy, cũng như cầu không nhịp thì người đi bộ cũng như người đi xe có ngày sẽ bị té xuống sông. Con người khôn ngoan phải biết lo cho tương lai. Khôn ngoan của con người phải là cùng đích của mình, mà muốn tới cái cùng đích ấy thì phải chuẩn bị cách tỉnh thức và sẵn sàng vì “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
c) Phận ai người ấy lo
Có một điều làm cho chúng ta suy nghĩ: việc 5 cô trinh nữ khôn ngoan từ chối không cho 5 cô trinh nữ khờ dại vay mượn dầu. Chi tiết này xem ra có vẻ nói về cái tính ích kỷ của 5 cô khôn ngoan, nhưng dầu sao nó cũng có ý nghĩa. Có thể đây là một chi tiết nói lên sự cô độc của con người khi chết. Mỗi người phải tự lo lấy cho mình, không ai giúp ai được. Con người sẽ một mình ra trước mặt Thiên Chúa, cùng với tất cả những gì mình có.
Đây là tư tưởng làm cho triết gia và nhà thần học Đan Mạch Kierkegaard (1813-1855) ông tổ của trào lưu tư tưởng triết học hiện sinh, suy nghĩ và gợi hứng cho ông viết cuốn “Le concept d’angoisse” và suy tư một hệ thống triết học bi quan về thân phận con người.
Tuy nhiên đối với những người công giáo, chúng ta nhận định chân lý trên mà không sợ hãi lo lắng, bi quan. Trái lại, từ chân lý đó ta sẽ cố gắng để sống, định liệu lấy chính đời sống đời đời của ta bằng đời sống hiện tại, vì biết rằng một mình ta sẽ ra trước toà Chúa.
Lúc đó, mỗi người sẽ lãnh nhận lấy hậu quả của mọi hành vi mình trong cuộc sống, hoặc được thưởng hoặc bị phạt. Việc thưởng phạt này do chính lương tâm của ta tự quyết định, vì gieo thứ nào thì gặt thứ ấy như thánh Phaolô đã dạy: “Ai gieo giống nào thì gặt giống ấy” (Gl 6,7):
Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.
Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu (Ngạn ngữ).
Qua tư tưởng các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể rút ra được bài học thực hành: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt. Giờ chết, giờ gặp Chúa của mỗi người chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng có một điều không chắc là không biết nó sẽ xảy ra khi nào. Chúa không muốn ta biết giờ chết vì muốn để ta tập luyện tinh thần phó thác: tin vào Chúa quan phòng và tình thương của Chúa.
Đồng thời chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, phải lo cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách sống tốt lành, sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa. Chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời như người ta nói: “Sống khôn, chết thiêng”.