MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA
(Tóm lược tác phẩm : “Le Père, Dieu en son mystère”
của F. X. Durrwell, Ed. Du Cerf, 1987)
Lm. Phêrô Trần Văn Hội
Giáo Hội có sứ mạng loan báo “Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1,1), đó là Tin Mừng về một Thiên Chúa là Cha, Đấng đã sinh hạ Con của Ngài vào trần gian vì chúng ta (Cv 13,33). Để Tin Mừng về Chúa Cha dễ được đón nhận, cần loại bỏ những hiểu lầm về Ngài bằng cách tái lập sự thật sâu xa nhất của khuôn mặt Ngài : Ngài là Cha.
Suy tư thần học về Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha khởi nguồn từ biến cố trọng tâm của Mạc khải Kitô-giáo : cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô. Chính trong biến cố này mà vai trò làm Cha của Thiên Chúa đối với Con Một của Ngài được thực hiện và biểu lộ trọn vẹn ở trần gian. Cũng chính nơi mầu nhiệm này mà Thánh Thần được tuôn đổ vào trần gian để chúng ta được làm con Thiên Chúa.
Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là đường, là sự thật, là sự sống. “Đường và sự thật và sự sống chính là Ta. Không ai đến được với Cha mà lại không nhờ Ta.” (Ga 14,6). Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con.
I. THIÊN CHÚA LÀ CHA
Thiên Chúa tự mạc khải cho con người. “Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri. Vào thời sau hết, Người đã nói với chúng ta nơi người Con, Đấng là phản ảnh vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người” (Dt 1,1.2). Người Con đó chính là Mạc khải chung cuộc và trọn vẹn, nơi Người “mầu nhiệm đã âm thầm dấu kín từ muôn thưở” được tỏ lộ (Rm 16,25). Khi sinh hạ Đức Giêsu vào trần gian (Cv 13,33), Thiên Chúa đã cho chúng ta biết thánh danh Ngài ; Ngài là Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta (2 Cr 1,3).
“Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu”, đó là mạc khải vô cùng lớn lao, làm đảo lộn mọi suy nghĩ của người Dothái. Ngài không phải là vị Thiên Chúa xa lạ đối với Israel. Chính Ngài đã gọi Israel là con đầu lòng của Ngài (Xh 4,22 ; Gr 31,9 ; Is 63,16). Nhưng nói rằng Thiên Chúa tối cao mà họ tôn thờ, Đấng đã tỏ uy danh của Ngài trong biến cố vượt qua và trên núi Sinai… lại là Cha của con người Giêsu cụ thể, một tử tội chết treo trên thập giá thì quả là báng bổ. Họ lại càng không thể ngờ mọi hoạt động lớn lao của Thiên Chúa, từ việc sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, đến mối thâm tình đầy yêu thương của Ngài đối với Israel đều bắt nguồn từ mối tình Cha của Ngài đối với con người Giêsu đó. Trong thời Cựu Ước, tôn danh Thiên Chúa là “Đấng đã đến để đưa Israel ra khỏi đất Aicập” (Xh 20,2 ; Lv 11,45 ; Ds 15,41…), “Đấng cho chết và cho sống, Đấng đả thương và chữa lành” (Đnl 32,39). Trong thời Tân Ước, thánh danh Ngài là “Đấng đã phục sinh Đức Giêsu từ trong cõi chết” (Rm 4,24 ; 10,9). Sứ mạng của Phaolô, cũng là của Giáo Hội, là loan báo cho muôn dân biết Tin Mừng về một Thiên Chúa là Cha, Đấng để cứu chúng ta, đã sinh hạ Con của Ngài trong trần gian vì chúng ta.
Việc phục sinh Đức Giêsu Kitô là công trình của chính Thiên Chúa trong cương vị làm Cha của Ngài, là mạc khải tuyệt đỉnh về vai trò làm Cha của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu, Con Ngài ; là hành vi Thiên Chúa sinh hạ Đức Giêsu Kitô cho trần gian. “Chúng tôi loan báo Tin mừng cho anh em, lời hứa đã ban cho cha ông, thì Thiên Chúa đã làm trọn cho con cháu là chúng ta, khi Người đã cho Đức Giêsu sống lại, như cũng đã viết trong Thánh vịnh 2 : ‘Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con’” (Cv 13,32-33). Mầu nhiệm Phục sinh chính là sự Nhiệm sinh vĩnh cửu được tỏ lộ trong trần gian. Thiên Chúa là tác giả của mầu nhiệm Phục sinh trong tư cách là Cha ; Đức Giêsu là Đấng được phục sinh trong tư cách là Con (Rm 1,4). Thiên Chúa đã phục sinh Ngài trong Chúa Thánh Thần (Rm 8,11), nên Thánh Thần là quyền năng Phục sinh, cũng là quyền năng sinh hạ của Thiên Chúa. Vì chúng ta mà Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô trong Thánh Thần, vì chúng ta mà Thiên Chúa sinh hạ Đức Giêsu trong trần gian. Thiên Chúa là “Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (2 Cr 1,3), và trong Đức Giêsu, Ngài là Cha chúng ta. Đó là thánh danh Ngài.
A. Ý NGHĨA DANH XƯNG THIÊN CHÚA
Trong Tân Ước, danh xưng Thiên Chúa đồng nghĩa với “Cha của Đức Giêsu”. Và khi gọi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa có nghĩa là tuyên xưng Ngài là Con của Chúa Cha. Phaolô quả quyết : “Đối với ta, thì chỉ có một Thiên Chúa là Cha, do tự Người mà có mọi sự. Và chỉ có một Chúa, Đức Giêsu Kitô, nhờ Ngài mà có mọi sự và cũng nhờ Ngài mà ta được có” (1 Cr 8,6). Từ nay Thiên Chúa được nhận biết là Cha của Đức Giêsu, và đó chính là đặc điểm của vị Thiên Chúa mà Giáo Hội tôn thờ và rao giảng.
Phúc âm nhất lãm dành riêng danh xưng Thiên Chúa để gọi Đấng là Cha của Đức Giêsu. Luca viết : “Đức Giêsu thức suốt đêm để cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12). Đó chính là vị Thiên Chúa mà khi cầu nguyện Đức Giêsu đã gọi là Abba với tất cả sự trìu mến, và đã hướng tới khi đau khổ tột cùng trên thập giá : “Lạy Cha, Con ký thác hồn Con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Trong tác phẩm của Gioan, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha Ta. “Sao người đã được Thiên Chúa thánh hiến và sai đến trong trần gian, các ngươi lại bảo là ông phạm thượng ! Vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa. Nếu ta không làm các việc của Cha Ta, các ngươi đừng tin Ta” (Ga 10,36-37). Đức Giêsu là “Lời ở nơi Thiên Chúa” (Ga 1,1) cũng là “Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha” (Ga 1,18). “Không phải là đã có ai được thấy Cha, trừ phi Đấng đã từ nơi Thiên Chúa mà đến, Đấng ấy đã thấy Cha” (Ga 6,46). Trong mầu nhiệm Vượt qua, Đức Giêsu qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha, cũng là đến cùng Thiên Chúa (Ga 20,17).
Tuy rất khác nhau trong cách diễn tả, thần học của Phaolô và Gioan lại gặp nhau cách sâu xa. Đối với Phaolô, Tin mừng của Thiên Chúa được chứa đựng trong lời rao giảng Mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giêsu, nơi đó Thiên Chúa tỏ bày vai trò làm Cha của Người cho chúng ta. Đối với Gioan, công việc của Chúa Giêsu là mạc khải thánh danh Thiên Chúa là Cha : “Lạy Cha chí công, thế gian không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những kẻ này cũng đã biết là Cha đã sai Con, và Con đã tỏ cho chúng biết Danh Cha” (Ga 17,25-26). Đối với kitô-hữu, cầu nguyện chính là “chúc tụng Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Pr 1,3).
Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, Ngài cũng là Cha của các tín hữu. Thiên Chúa đã thể hiện vai trò làm Cha Đức Giêsu khi phục sinh Ngài, thì cũng chính trong hành vi sinh hạ đó, Thiên Chúa tái sinh các tín hữu để hưởng gia nghiệp dành sẵn cho họ ở trên trời : “Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lượng hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống, nhờ sự Phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 1,3). Nhờ Thánh Thần Thiên Chúa ban nơi Đức Giêsu, mà các kitô-hữu nhận được quyền làm Con Thiên Chúa, và như Đức Giêsu, được gọi Thiên Chúa là Abba, và trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô thể theo ý Thiên Chúa (Gl 4,4-7).
Thánh Gioan làm chứng : Chúa Con ban cho những ai tin Ngài “quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Sau khi Phục sinh, Đức Giêsu gọi họ là anh em : “Hãy nói với anh em Ta, Ta lên cùng Cha Ta và cũng là Cha các ngươi ; Thiên Chúa của Ta cũng là Thiên Chúa của các ngươi” (Ga 20,17). Các tín hữu là những người “sinh bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13) ; họ là con vì được đảm nhận vào trong sự sinh hạ Con duy nhất : “Hãy coi lòng mến lớn lao dường nào, Cha đã ban cho ta, để ta được gọi là con Thiên Chúa, và thực ta là thế” (1 Ga 3,1).
Theo mạc khải Tân ước, Thiên Chúa – Cha của Đức Giêsu cũng chính là Chúa của Israel : “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh tôi tớ Người, Đức Giêsu Kitô” (Cv 3,13). Chúa Giêsu khẳng định : “Chính Cha Ta là Đấng tôn vinh Ta, Đấng mà các ngươi tuyên xưng rằng : Người là Thiên Chúa chúng tôi” (Ga 8,54). Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa với các tổ phụ khi Ngài phục sinh Đức Giêsu (Cv 13,32). Thiên Chúa đã mạc khải phần nào cương vị làm cha của Ngài qua những hoạt động của Ngài trong lịch sử cứu độ, nhưng đó mới chỉ là lời loan báo, là khởi đầu của mạc khải trọn vẹn về vai trò làm cha của Ngài nơi mầu nhiệm Phục sinh.
Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu cũng là Đấng sáng tạo, là chủ tể vũ trụ. “Lạy Cha, là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha…” (Mt 11,25-27). Khi sáng tạo, Thiên Chúa hành động theo chính bản chất của Ngài. Ngài sáng tạo trong tư cách là Cha và sáng tạo trong chính hành vi sinh hạ ra Con Yêu Dấu : “Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự, và không Ngài thì không gì đã thành sự” (Ga 1,3). Dĩ nhiên, sáng tạo là công trình của Ba ngôi, nhưng nếu công trình là chung thì mỗi ngôi hành động theo bản chất của mình ; chỉ mình Cha là Đấng sinh hạ, chỉ mình Con là Đấng được sinh hạ, và chỉ Thánh Thần hành động như là Thánh Thần của Cha và của Con.
B. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG MẠC KHẢI CHA
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa : Ngài là Cha tự bản chất (Père essentiel). Đức Giêsu nói vì Ngài là Lời, là Mạc khải vì Ngài là Con được sinh hạ từ lòng Cha. “Lời đã làm người và đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã chiêm ngắm vinh quang của Ngài, vinh quang như của người Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật” (Ga 1,14). Theo Kinh Thánh, vinh quang chính là sự uy linh của Thiên Chúa khi Ngài tỏ mình ra. Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được chiêm ngưỡng chính vinh quang của Thiên Chúa Cha. “Mầu nhiệm được dấu kín từ muôn đời” (Rm 16,25) được tỏ bày nơi cuộc đời làm con của Đức Giêsu, và sẽ tỏ bày trọn vẹn nơi mầu nhiệm Phục sinh.
Khi được sinh vào trần gian, Đức Giêsu chính là ân sủng Thiên Chúa ban cho con người. “ân nghĩa và sự thật thì nhờ Đức Giêsu mà có” (Ga 1,17). Ân nghĩa đó cho chúng được quyền làm con Thiên Chúa (Ga 1,12). Và sự thật chỉ cho chúng ta đường đến cùng Cha, tức là đến cùng sự sống. “Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật và Đấng Cha đã sai, Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,13). Sứ mạng trao ban sự sống của Chúa Giêsu được Ngài tóm tắt : “Con đã tỏ Danh Cha ra cho những người Cha đã lấy từ giữa thế gian mà ban cho Con” (Ga 17,2). “Cha Ta” đó là thánh danh cứu độ, đồng thời cho chúng ta biết về Thiên Chúa trong tương quan với một người Con. Ngài là Thiên Chúa có ngôi vị, là Thiên Chúa bằng cách trở nên nguồn suối cho một người Con. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Con theo nghĩa tuyệt đối không ai có thể thấu hiểu: “Tất cả đã được Cha Ta trao phó cho Ta, và không ai biết Con trừ ra Cha và cũng không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27).
C. NHỮNG NẺO ĐƯỜNG MẠC KHẢI
Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Cha Ngài bằng nhiều cách : bằng lời nói, việc làm, nhưng nhất là bằng chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Đức Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác (Mt 6,32), noi gương (Mt 5,45-48), nguyện cầu (Lc 11,2), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất (Mt 10,28), là Cha đầy quan tâm ân cần (Mt 6,25-32) và đặc biệt gần gũi những kẻ tội lỗi…
Những tâm tình đó cũng quen thuộc với Israel và thường được các tiên tri nhắc tới, nhưng được Đức Giêsu rao giảng bằng một cung cách hoàn toàn khác. Vị chủ tể trời đất và tốt lành, Đấng đã thương nhận cả Israel là con đầu lòng (Xh 4,22), lại là Cha của riêng Ngài, và Ngài chính là Người Con, người Con Một Yêu Dấu. Trước kia Thiên Chúa được nhìn trong mối ân tình với một dân, nay được nhận biết trong tình cha con với một con người cụ thể – Đức Giêsu. Làm sao có thể tin vào một lời khẳng định như thế ? Nghe nói chưa đủ. Để tin, cần phải thấy. Và Gioan làm chứng : “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang như của người Con Một tự nơi Cha” (Ga 1,14). Các môn đệ đã tin vì họ đã nghe, đã thấy những việc làm chiếu tỏa vinh quang và đã gặp một Đấng mà nơi đó họ đã nhận ra khuôn mặt Thiên Chúa : “Chúng tôi đã cung chiêm và chúng tôi đã làm chứng : là Cha đã sai Con đến làm Đấng cứu thế gian” (1 Ga 4,14).
Như vậy lời nói và việc làm của Chúa Giêsu mạc khải mầu nhiệm làm Con của Ngài. Mối liên hệ Cha-Con đó được Đức Giêsu mạc khải qua lời cầu nguyện trong vườn cây dầu, một lời cầu nguyện phát xuất từ thâm sâu bản thân Ngài. “Abba, lạy Cha, Cha có thể làm mọi sự, xin cất chén này đi khỏi con,…” Cách xưng hô đó, quá thân mật để nói với Thiên Chúa, một xúc phạm đối với người Dothái, nhưng với Chúa Giêsu lại là bình thường. Đức Giêsu dường như không cầu nguyện cách nào khác. Tiếng Abba, thực ra chính là lời đáp trả cho sự hiện diện đầy yêu thương và bao bọc của Thiên Chúa mà Đức Giêsu cảm nhận. Đức Giêsu gọi Abba – Cha ơi, vì trước đó Thiên Chúa đã nói : “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con” (Cv 13,33).
Theo Gioan, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu không những chứng minh nguồn gốc thần linh của Ngài mà còn là mạc khải về Cha : “Đạo lý Ta dạy không phải là của Ta, mà là của Đấng đã sai Ta” (Ga 7,16) ; “và các việc Cha đã ban cho Ta để Ta chu toàn, chính các việc Cha làm đó chứng thực cho Ta là Cha đã sai Ta. Con không thể làm điều gì tự mình, nhưng mọi sự vì đã trông thấy Cha làm, vì điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế nữa” (Ga 5,19). Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng mạc khải Cha bằng cách sống mầu nhiệm bản thân Ngài trong vinh quang của địa vị làm Con : “Phần Con, Con đã ban cho chúng vinh quang Cha đã ban cho Con” (Ga 17,22). Các môn đệ đã nhận biết đó là vinh quang mà Con đã nhận từ nơi Cha (Ga 1,14) và họ hướng về Đấng là nguồn suối vinh quang. Vinh quang mạc khải đó sẽ trọn vẹn nơi mầu nhiệm Phục sinh.
D. CHÚA CHA ĐƯỢC MẠC KHẢI TRONG MẦU NHIỆM VƯỢT QUA CỦA ĐỨC GIÊSU
“Suốt cả thời gian Chúa Giêsu ra vào giữa các môn đệ”, các ông đã linh cảm được phần nào sự thực về mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng phải sau Phục sinh, Gioan mới có thể nói : “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người, vinh quang như của người Con Một tự nơi Cha” (Ga 1,14). Khi cuộc thương khó đã cận kề, Chúa Giêsu cầu nguyện : “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,28). Bấy giờ có tiếng tự Trời đến : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, và Ta sẽ lại tôn vinh” (Ga 12,28). Danh Thiên Chúa, chính là Cha. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho Philip : “Ai thấy Ta là thấy Cha” được chứng thực trọn vẹn khi Thiên Chúa tôn vinh Đức Kitô của Ngài. Nơi Mầu nhiệm Vượt Qua, Đức Giêsu tôn vinh Cha Ngài và ngược lại Cha cũng tôn vinh Ngài. Sáng kiến là của Cha, Đấng sinh hạ ; phần của Con là ưng nhận chương trình và sáng kiến của Cha. Chính nơi đó, phận làm con của Đức Giêsu và vai trò làm Cha của Thiên Chúa được sáng tỏ.
Làm Con và Vinh quang là hai yếu tố không tách rời. Theo thánh Phaolô “vinh quang của Thiên Chúa chói lòa nơi nhan thánh Đức Kitô” (2 Cr 4,6). Tước hiệu làm Con được bao phủ vinh quang và quyền năng, và tương đương với tước hiệu Chúa của Đức Kitô Phục Sinh. “Thiên Chúa trung tín, Đấng đã kêu gọi anh em đến chung phần hợp nhất với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,9). Phaolô là người được Thiên Chúa kêu gọi để rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Tin Mừng về Con của Ngài, Đấng xuất tự giống dòng Đavít theo xác phàm, được đặt làm Con Thiên Chúa trong quyền năng, theo Thánh Khí, do tự phục sinh từ trong cõi chết (Rm 1,1.4).
Chính trong vinh quang Phục sinh mà Đức Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình. Tự bản chất, vinh quang có tính mạc khải. Nơi Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, không những vinh quang mạc khải Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn mạc khải vai trò làm Cha của Thiên Chúa, Đấng đã phục sinh Ngài.
Vinh quang tự bản chất có chiều kích Ba ngôi. Vinh quang phát xuất tự Cha, rạng chiếu nơi Con và đồng nhất với Thánh Thần mà thánh Phêrô gọi là “Thần khí vinh quang, thần khí của Thiên Chúa” (1 Pr 4,14). Đức Giêsu “được phục sinh nhờ vinh quang của Cha” (Rm 6,4), cũng là Đức Giêsu được phục sinh nhờ “quyền năng Thiên Chúa” (2 Cr 13,4) và biến đôåi trong Thần Khí (1 Cr 15,45). Đức Giêsu được phục sinh trong quyền năng vì Thánh Thần chính là quyền năng Thiên Chúa. Đức Giêsu được phục sinh trong sự viên mãn của đời sống làm Con nhờ Quyền năng, Vinh quang và Thánh Thần của Thiên Chúa. Cả ba không thể tách rời, vì Thánh Thần chính là quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa trong cương vị làm Cha của Người. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa sinh hạ Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi vĩnh cửu, đã sinh hạ Đức Giêsu vào trần gian, và đã dẫn đưa Ngài tới tuyệt đỉnh của phận làm Con khi phục sinh Ngài từ cõi chết. Trong cuộc Vượt qua của Chúa Giêsu, “mọi sự đã hoàn tất”. Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng mạc khải, Ngài không cần nói về Cha nữa. Ngài chỉ cần là Con là đã đủ. Cha đã được mạc khải trọn vẹn vì Con đã sống trọn phận làm Con của Ngài.
E. LÀ CHA TỰ BẢN TÍNH
Qua Mầu nhiệm Phục Sinh, Thiên Chúa đã sinh hạ Đức Giêsu vào trần gian “Con là Con Ta, ngày hôm nay Ta đã sinh thành ra Con” (Cv 13,33). Qua mầu nhiệm Phục sinh, Đức Giêsu thoát mọi tùy thuộc trước kia của thân phận con người để chỉ sống nhờ Cha, ngay cả trong thân xác trần ai của Ngài. Việc Đức Giêsu nhập thể trong lòng Đức Mẹ nhờ quyền năng Thánh Thần của Cha (Lc 1,35) là khúc dạo đầu cho việc Phục sinh trong quyền năng Thánh Thần. Nhờ việc thụ thai này, nhất là nhờ biến cố Phục sinh, “Đức Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ; Rm 1,4). Ngài sống nhờ và vì Thiên Chúa và là Cha Ngài. Tư cách làm Con của Chúa Giêsu có tính tuyêt đối. Ngài là Con do tự bản tính, Ngài hiện hữu và sống nhờ Thiên Chúa, Cha của Ngài, trong sự sinh hạ viên mãn. Chúa Giêsu là Con vì Ngài đón nhận tất cả từ nơi Cha.
Trước khi Phục sinh, Đức Giêsu cũng đã sống tư cách là Con, nhưng theo khả năng của cuộc hiện sinh trần thế. Ngài đã gọi Thiên Chúa là Abba, đã là Con trong phận một con người mang ơn gọi là trở nên Con cách viên mãn trong mầu nhiệm Phục sinh. Vai trò làm Cha của Thiên Chúa cũng tuyệt đối. Quyền năng vô biên của Thiên Chúa được tập trung và bộc lộ trọn vẹn trong việc phục sinh Đức Giêsu. Tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được gợi ra khi chúng ta gọi Thiên Chúa là “Đấng phục sinh Đức Giêsu từ trong cõi chết” (Rm 8,11 ; 1 Cr 6,14). Không chỉ quyền năng vô biên, vinh quang Thiên Chúa, và sự sống của Cha là Thánh Thần (Rm 8,11) mà tất cả sự viên mãn của thần tính đều quy tụ trong hành vi phục sinh Đức Giêsu. “Bởi chưng ở trong Người có tất cả sự viên mãn của tính Thiên Chúa, trong thể lý” (Cl 2,9). Thánh Thần mà Thiên Chúa dùng để phục sinh Chúa Giêsu bao gồm tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa : toàn năng, toàn thiện, sự sống, vinh quang, tình yêu… Do đó, khi tôn vinh Đức Giêsu trong sự viên mãn của Thánh Thần là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài (một con người) lên ngang với mình, đã ban cho Ngài danh hiệu của chính mình, để trước danh hiệu đó mọi gối phải bái quỳ và mọi miệng lưỡi phải tôn vinh Đức Giêsu là Chúa mà làm vinh quang cho Thiên Chúa Cha (Pl 2,9-11). Mầu nhiệm Nhập thể nên trọn vẹn trong mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh được gọi là sinh hạ vì khi phục sinh Đức Giêsu, Thiên Chúa đã làm cho nơi Người có trọn vẹn sự sung mãn của thần tính, làm cho thần tính lan toả đến cả một con người. Mối tương quan giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, là cách diễn tả trong thời gian mầu nhiệm sinh hạ vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tư cách làm Cha của Thiên Chúa đồng nhất với chính bản thân Ngài. Ngài là Cha không được sinh ra, là cội nguồn không cội nguồn, là Thiên Chúa xét như là cội nguồn. Con người trở thành Cha, còn Thiên Chúa là Cha. Không phải con người đã dùng hình ảnh cha nhân loại để gọi Thiên Chúa là Cha, mà đúng hơn đã mạo phạm lấy thánh danh Cha của Thiên Chúa mà gọi con người là cha. Cha, đó là tước hiệu thần linh dành riêng cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Cha tự yếu tính, nên chúng ta chỉ có thể hiểu Ngài và công việc của Ngài khi suy nghĩ về Ngài trong tương quan với Con của Ngài là Đức Giêsu. Thiên Chúa là Cha, công việc của Cha là sinh hạ, vì vậy mọi hoạt động của Ngài từ tạo dựng đến cứu độ, tất cả đều hướng tới và được bao gồm trong hành vi sinh hạ Con vào trần gian. Thiên Chúa không đích thân đi vào trần gian – vì Đấng là Cha tự bản chất không thể được sinh ra, Đấng là cội nguồn không thể có cội nguồn – nhưng Ngài đi vào trần gian và biểu lộ tình cha của Ngài qua công trình sáng tạo, và nhất là qua việc phục sinh Đức Giêsu. Mầu nhiệm muôn đời được giấu kín đã vén mở khi Con Ngài vào trần gian : Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ngự nơi cung lòng Cha, Chính Ngài đã thông tri (Ga 1,18).
II. KHUÔN MẶT CHÚA CHA
Chúa Giêsu nói với Philip : Ai thấy Ta là thấy Cha. Chúa Giêsu chính là khuôn mặt của Chúa Cha ở trần gian. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, chúng ta sẽ khám phá ra khuôn mặt Chúa Cha.
A. CHA YÊU THƯƠNG
Chiêm ngắm Chúa Kitô, người môn đệ nhận biết Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương. Thiên Chúa mà tất cả mầu nhiệm ở tại việc sinh hạ, Ngài là một mầu nhiệm tình yêu. Ngài là Thiên Chúa trong tư cách là Cha và sinh hạ bằng cách yêu thương. Khi viết : “Thiên Chúa là Lòng mến” (1 Ga 4,8) Gioan không có ý đưa ra một định nghĩa siêu hình về bản tính Thiên Chúa. Đó là một “định nghĩa” có tính mô tả và tường thuật, là kể chuyện về Ngài qua mối tương quan của Ngài với thế giới :
“Thiên Chúa là Lòng Mến, nơi điều này, mà lòng mến của Thiên Chúa đã hiện tỏ nơi chúng ta : là Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến trong thếá gian, ngõ hầu ta được sống nhờ Ngài” (1 Ga 4,9).
Định nghĩa này nhắm trước hết các hoạt động của Thiên Chúa, nhưng nó cũng đạt tới mầu nhiệm thâm sâu của Ngài. Thiên Chúa là Cha, Ngài sinh hạ Con Ngài cho trần gian và qua đó Ngài cho thấy Ngài là tình yêu. Hành vi sinh hạ này là sự tuôn trào của mầu nhiệm vĩnh cửu. Nếu Thiên Chúa là tình yêu trong sự tuôn trào, thì trước hết Ngài là tình yêu trong chính mầu nhiệm của mình.
Tình yêu của Thiên Chúa trước hết hướng đến Con Chí Ái (Cl 1,13). Cha và Con liên kết với nhau bằng tương tình yêu. “Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, ấy là vì Ta thí mạng sống Ta…” (Ga 10,17). Thái độ đáp trả trọn vẹn của Con khơi dậy tình yêu của Cha, tức là khơi dậy hành vi sinh hạ. Được sinh ra, Con đã lãnh nhận tất cả từ nơi Cha, để rồi Con lại dâng hiến tất cả cho Cha. Cha là khởi nguồn và Con là đích điểm của hành vi sinh hạ. Thánh Thần không là khởi nguồn cũng không là đích điểm, nhưng Ngài ở khởi nguồn và đích điểm : Ngài là Tình yêu, và mọi sự hoàn thành ở trong Ngài.
B. CHA CHỊU HIẾN TẾ
Mọi tình yêu chân thật đều là tự hiến. Người yêu thương luôn muốn cho đi chính mình mà không giới hạn. Tự bản chất, lòng mến là một hiến lễ vượt qua. Thiên Chúa là Cha nhờ Thánh Thần tình yêu, và Ngài như chịu hiến tế trong ngọn lửa Thánh Thần tình yêu đó. Nhờ cuộc Nhập thể – Cứu chuộc của Chúa Con, chúng ta có thể biết về lễ hiến tế vĩnh cửu đó. Khi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, chúng ta như nhận ra hình ảnh Chúa Cha. Người tín hữu biết rằng : tình yêu đã hiến tế Chúa Con trước hết là tình yêu mà Thiên Chúa dành cho Con và cho thế gian : “Quả vì Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban người Con Một” (Ga 3,16).
Truyền thống Giáo Hội vẫn coi Abraham là hình ảnh Chúa Cha. Câu chuyện Abraham hiến tế Isaac là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa trao ban Con Một Ngài. Trong câu chuyện, dường như Abraham là nguời đau khổ nhất. Khi hiến tế người con một vô tội và hoàn toàn tín thác nơi mình, Abraham như hiến tế chính bản thân và tương lai của mình. Củi được chất trên vai con, nhưng gánh nặng lại đè trên vai cha.
Nhưng liệu có thể nói đến mầu nhiệm thập giá trong cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói về một cuộc khổ nạn mà Cha cùng chịu đau khổ với Con không ? Nên hiểu lời Chúa Giêsu nói : “Ai thấy Ta là thấy Cha” như thế nào ?
Lời mạc khải của Chúa Giêsu chỉ có ý nghĩa trọn vẹn nơi thập giá vinh quang. Chỉ nguyên thập giá thôi, không cho phép chúng ta khám phá khuôn mặt Chúa Cha. Cuộc vượt qua của Chúa Giêsu bao gồm cả sự chết và sống lại. Chính nơi đó, Chúa Giêsu mới là ngọn lửa bốc cháy giữa bụi gai mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, một ngọn lửa vừa thiêu đốt vừa tác sinh. Chỉ nguyên cái chết sẽ không đưa Đức Giêsu vào trong vinh quang, nên nó không phải là sinh hạ và không mạc khải Cha. Mầu nhiệm Vượt qua là Tin Mừng không chỉ cho con người mà trước hết cho Thiên Chúa Cha. Niềm hân hoan vui mừng của Cha ở trong Thánh Thần, tức là trong việc sinh hạ Đức Giêsu vào đời sống làm con viên mãn. Thiên Chúa Cha vui mừng thấy con của Người sinh hạ nơi trần gian ngang qua đau khổ.
Đối với Đức Giêsu, thập giá vinh quang vẫn mãi là thập giá. Không thể nói về niềm vui phục sinh của Thiên Chúa bằng cách bỏ qua đau khổ trước đó. Vinh quang không miễn cho Đức Giêsu khỏi chết, nhưng thánh hóa cái chết. Thập giá là ngai vua vĩnh cửu. Khuôn mặt Thiên Chúa tỏ hiện nơi cuộc Vượt qua là khuôn mặt người Cha toàn năng và chịu hiến tế.
Sự toàn thiện của Thiên Chúa không phải là sự toàn thiện của một viên kim cương tỏa sáng nhưng vô hồn, và trơ trơ gỗ đá. Nhưng nói rằng Thiên Chúa chịu hiến tế không có nghĩa là nơi Thiên Chúa có đau khổ. Thiên Chúa không thể đau khổ theo kiểu con người được. Cần phải tránh những hàm hồ khi vội vã đi từ những đau khổ nhân trần của Chúa Giêsu đến nỗi thống khổ nơi Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa siêu việt ở ngoài tầm với của đau khổ và sự chết. Thiên Chúa không đau khổ. Nếu Ngài đau khổ làm sao con cái Ngài có thể hạnh phúc ? Đau khổ là phần riêng của thân phận phàm trần bất toàn của con người Giêsu. Đau khổ đó không đi vào cuộc sống vinh quang của Ngài. Rượu mới mà Đức Giêsu uống trong nước Thiên Chúa không pha đắng cay của chén khổ nạn (Mc 14,36). Không một chút bất toàn nào của trần gian lại tồn tại nơi Thiên Chúa và những kẻ ở trong Nước của Ngài. “Người sẽ lau sạch nước mắt họ, chết sẽ không có nữa, phiền muộn, kêu gào và khó nhọc sẽ không có nữa, vì các điều cũ đã qua đi” (Kh 21,4).
Chúa Giêsu chỉ là hình ảnh trọn vẹn của Chúa Cha khi Ngài vĩnh viễn đi vào cuộc đời làm Con viên mãn, nghĩa là trong cái chết vinh quang, lúc con chiên đứng và chịu sát tế. Nếu trong đau khổ, Đức Giêsu phản ảnh khuôn mặt Chúa Cha thì chúng ta vẫn không có quyền nói về nỗi đau khổ của Thiên Chúa như thể nơi Thiên Chúa có điều gì giống với nỗi đau khổ của Đức Giêsu Kitô, mà phải nói có điều gì đó trái ngược với đau khổ và yếu đuối của con người. “Vì sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người” (1 Cr 1,24), và chính nơi sự yếu đuối đó mà vinh quang và quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện.
Chúa Thánh Thần chính là vinh quang và quyền năng của Thiên Chúa. Trong Ngài, Thiên Chúa là Cha và Đức Kitô là Con. Ngài cũng là lửa toàn thiêu vì Ngài là tình yêu. Ngài là chính là sự sinh hạ qua đó Chúa Cha ra khỏi mình để đến trong Con, là sức năng động của Con khi tự hiến cho Cha. Hy lễ thập giá làm hiển hiện trước mắt chúng ta mầu nhiệm diễn ra nơi cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong Thánh Thần tình yêu cũng là lửa hiến tế, Cha sinh hạ ra Con khi trao ban tất cả cho Con và Con cũng hiến dâng tất cả cho Cha. Hai Đấng cho đi tất cả mà vẫn tròn đầy viên mãn, vì Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Đức Ái hoàn hảo vừa là hiến tế vừa là hiệp thông.
C. CHA GIÀU LÒNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT
Thiên Chúa là Đấng siêu việt, bóng tối đau khổ và sự chết không chạm được tới Ngài. Nhưng Ngài là tình yêu. Vị Thiên Chúa tình yêu đó hẳn không thể dửng dưng chẳng chút chạnh thương khi nhìn thấy người Con Chí Ái vượt qua thế gian đến với mình bằng con đường đau khổ như thế ? Nếu không, Ngài không thể cảm thương đối với những đứa con đang ngập trong đau khổ giống với đau khổ của Con Ngài là chúng ta ? Kinh nghiệm của con người dạy chúng ta rằng : tình yêu tạo ra một mối liên hệ làm cho đau khổ lan từ người này sang người kia. Thiên Chúa là tình yêu. Những đau khổ của Đức Kitô và của con người hẳn phải có một tác động nơi Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không đau khổ theo kiểu con người. Thần học gọi tâm tình đó là lòng thương xót (la com-passion).
Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhiều lần bầy tỏ lòng từ bi thương xót của Ngài đối với dân riêng (Hs 11,8 ; Xh 34,6…). Trong thời Tân Ước, lòng từ bi thương xót được tỏ bày nơi Con Thiên Chúa nhập thể là Đức Giêsu. Đức Giêsu thương xót và tỏ từ tâm thì chính là Thiên Chúa thương xót đó. Tới đây, chúng ta đối diện với một mầu nhiệm vô cùng lớn lao : Thiên Chúa siêu việt và luôn hạnh phúc viên mãn lại hoàn toàn nội tại trong một con người đau khổ tột cùng và bị phó nộp cho sự chết. Không ai có thể tin điều đó nếu không nhờ ơn Thánh Thần (1 Cr 12,3). Thiên Chúa chạnh thương trước Đức Kitô, trước đau khổ của Israel, và chạnh thương trước đau khổ của con người, đến nỗi trong Con của Ngài, Ngài đã trở nên bạn đồng hành trong đau khổ với họ. Hạnh phúc viên mãn có thể đi đôi với đau khổ không ?
Thiên Chúa là Tình yêu. Đặc điểm của một tình yêu lớn lao là có thể làm cho hạnh phúc và đau khổ cùng tồn tại như pha trộn với nhau, trong đó hạnh phúc dư tràn và bao trùm đau khổ. (Kinh nghiệm của người Cha khi tìm lại đựợc đứa con hoang đàng). Thánh Phaolô nói rằng Ngài tràn đầy vui mừng trong nỗi quẫn bách (1 Tx 1,6). Thánh Phêrô thì khuyên nhủ : “Phúc cho anh em nếu người ta hành khổ anh em, vì Thánh Thần vinh quang, Thánh Thần của Thiên Chúa ở nơi anh em” (1 Pr 4,14). Tình yêu của Thiên Chúa chắc hẳn vượt trên tình yêu của con người muôn vàn, nhưng chắc chắn phải có gì giống với tình yêu mà Thánh Thần của Ngài khơi lên trong lòng tín hữu (Rm 5,5). Do đó chúng ta có thể nói : Thiên Chúa đã ngắm nhìn Con chí ái vượt qua đau khổ mà đến cùng Ngài với lòng chạnh thương vô biên và niềm vui tràn trề. Đau khổ cùng người mình yêu thương và hạnh phúc vô hạn không phải là không thể đi đôi với nhau.
Hãy nhìn vào Chúa Giêsu trong cái chết vinh quang của Ngài, vì nơi đó Ngài là hình ảnh trọn vẹn của Cha. Nơi mầu nhiệm Vượt qua, Chúa Giêsu vừa sống trong niềm thương xót vô biên đối với con người, vừa sống trong sự ủi an vô tận của Thần Khí. Vinh quang không làm cho Ngài khỏi chết và không ngăn Ngài hiệp thông với số phận con người trong đau khổ và cái chết. Thánh Thần là sự hiệp thông, không tiêu hủy nhưng tạo nên mối hiệp thông của Ngài với nhân loại. Hạnh phúc phục sinh là sự hiệp thông, nó thánh hóa lòng thương xót và mối chạnh thương, và đưa lòng thương xót vào trong hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, lòng thương xót vô biên là thành phần của hạnh phúc vĩnh cửu khi Ngài yêu thương.
Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót và cũng là Đấng đầy từ bi nhân hậu (Père des miséricordes). Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã mạc khải cho Môsê biết Ngài là Đấng nhân hậu từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng (Xh 34,6). Kinh Thánh Cựu Ước diễn tả lòng nhân hậu của Thiên Chúa bằng từ ngữ hesed : Ngài là lòng tốt, tín trung, hay tha thứ (Gr 31,3.20 ; Nkm 9,31 ; Is 49,15). Thiên Chúa là cha mà yêu thương như người mẹ (Hs 14,5 ; 11,9). Trong thời Cựu Ước, lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa khởi nguồn từ tình Cha đối với Israel, nhưng trước hết đó là tình Cha đối với Chúa Giêsu. Thiên Chúa Cha của Đức Giêsu là Cha đầy lòng nhân hậu (2 Cr 1,3), và Ngài đã tỏ lòng từ bi nhân hậu trước hết chính là đối với Chúa Giêsu. Trong vực sâu của đau khổ, khi Ngài “trở nên tội vì chúng ta” (2 Cr 5,21), thì Thiên Chúa đã đổ tràn trên Ngài lòng từ ái của Người và đã phục sinh Ngài trong nguồn an ủi vô biên của Thánh Thần.
Thiên Chúa đã tỏ bày lòng từ bi nhân hậu của Người đối với con người nơi Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã làm những việc lạ lùng không phải để chứng minh sứ mạng của Ngài cho bằng để bày tỏ lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Phaolô là người cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa chẳng những qua ơn tha thứ mà còn qua việc mạc khải Con của Ngài và trao cho Phaolô một sứ mạng vượt trên sứ mạng của Môsê (2 Cr 3,7-11).
Dầu sao lòng kính sợ Thiên Chúa vẫn luôn cần thiết, cho dù là đối với vị Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Tuy nhiên lòng kính sợ đó là gì ? Đối diện với Đấng đã hạ sinh Con của Ngài vì chúng ta, điều phải sợ chính là sợ chúng ta khép lòng lại trước sự từ bi của Ngài. Vậy mà chính lòng tín thác sẽ khiến chúng ta mở cửa lòng và đón nhận. Người biết đặt lòng tin nơi Thiên Chúa với sự tín thác vô biên chính là người kính sợ Thiên Chúa thật.
D. CHA TOÀN NĂNG
Trong kinh Tin kính, Giáo Hội tuyên xưng : tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng. Toàn năng là đặc tính thiết yếu gắn liền với khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi con người, quyền lực và sức mạnh chẳng những không đồng nhất với cương vị làm cha mà đôi khi còn đi ngược lại. Quyền lực và sức mạnh nhiều khi là để thống trị, trở thành công cụ của sự chết. Nơi Thiên Chúa, quyền năng và sức mạnh đồng nhất với cương vị làm Cha của Ngài và được thể hiện qua việc sinh hạ. Chính trong việc phục sinh Chúa Giêsu mà quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn nhất. Quyền năng Phục sinh không là gì khác mà chính là Thánh Thần tình yêu, Thánh Thần trong đó Thiên Chúa đã sinh hạ. Việc phục sinh Chúa Giêsu trong quyền năng của Thiên Chúa chính là hoa quả của tình yêu, là sự sinh hạ thần linh. Như vậy chính khi bộc lộ hết tầm vóc của mình, quyền năng của Thiên Chúa đồng nhất với vai trò làm Cha, với việc trao ban sự sống. Chính trong ý nghĩa đó mà Giáo Hội tuyên xưng : “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất”. Quyền năng của Thiên Chúa mang tính phụ tử và sáng tạo.
Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Sự khiêm tốn của quyền năng là một chân lý Tin Mừng không thể chối cãi. Chúa Giêsu đầy quyền năng nhưng lại xử sự như người đầy tớ : không ngần ngại quỳ gối rửa chân cho môn đệ và hy sinh mạng sống vì tha nhân. (Những cách nói : Ta là người mục tử tốt thí mạng vì đoàn chiên ; Ta là bánh hằng sống… tự nó diễn tả mầu nhiệm Chúa Giêsu cao cả và khiêm hạ). Ngài đã bị cám dỗ thống trị thế giới bằng mọi giá (Lc 4,13), nhưng dầu là Con Thiên Chúa, Ngài vĩnh viễn là Giêsu Nazareth, Đấng chịu đóng đinh. Nơi Đức Giêsu, quyền tối thượng đảo ngược thành phục vụ, lớn lao thành nhỏ bé, sức mạnh và quyền lực được biểu lộ trong yếu đuối của sự chết. Ngài khước từ ngay cả một cái chết “anh hùng”. Cung cách sống, chết và phục sinh đó, Chúa Giêsu đã nhận lãnh nơi Cha là Đấng sinh hạ Ngài. Nơi Con Yêu Dấu, quyền năng của Thiên Chúa xuất hiện trong sự khiêm tốn tột cùng, trong sự vâng phục đến chết. Đấng tác sinh mọi loài lại được tôn vinh bằng cái chết trên thập giá. Quyền lực của con người thường vấy máu, còn quyền năng của Thiên Chúa lại được ghi bằng dấu đóng đinh. Quyền năng của Thiên Chúa có thể trở thành yếu đuối vì Ngài là tình yêu. Tình yêu thì khiêm tốn, sẵn sàng phục vụ và hiến tế vì người yêu. Là tình yêu vô biên, quyền năng của Thiên Chúa chính là khả năng tự trao ban đến vô hạn. Thiên Chúa cho đi trọn vẹn bản thân Ngài khi hạ sinh Con Một. Thánh Thần là quyền năng của Thiên Chúa, là chính sự sinh hạ thần linh đó. Quyền năng và tự do của Thiên Chúa chỉ được biểu lộ trong tình yêu sinh hạ.
Tin mừng kêu gọi con người sống khiêm tốn không phải vì sợ sự lớn lao của con người lấn át sự lớn lao của Chúa. Chúa muốn con người sống khiêm tốn là để chia sẻ cho con người sự lớn lao của Ngài. Sự tự hạ của chúa Giêsu chính là cách Ngài sống sự cao cả của Thiên Chúa ở trần gian. Nơi con người, khiêm tốn là đón nhận sự lớn lao của Thiên Chúa.
E. CHA THÁNH THIỆN
Mở đầu lời nguyện tế hiến Chúa Giêsu khẩn cầu Thiên Chúa : “Lạy Cha Chí Thánh”. Cũng như “quyền năng”, thánh thiện là ưu phẩm thuộc về bản chất Thiên Chúa. Sự thánh thiện của Thiên Chúa không chỉ là một đặc tính luân lý hay là tổng hợp các nhân đức, nhưng là sự viên mãn của hữu thể, của sự sống và sức mạnh. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ lộ sự thánh thiện của Ngài qua những công việc kỳ diệu Ngài thực hiện trong trời đất (Is 6,3). Trong Tân Ước, Đức Giêsu chính là hình ảnh Thiên Chúa thánh thiện nơi trần gian. Ngài được gọi là Con Thiên Chúa và cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Cv 3,14 ; Mc 1,24 ; 3,11 ; Ga 6,39).
Cựu Ước diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa bằng cách tách biệt Ngài khỏi thế giới phàm nhân. Ngược lại, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa thánh thiện tỏ mình ra không phải bằng cách khép mình trong sự siêu việt của mình, nhưng bằng cách vượt ra ngoài sự siêu việt theo quan niệm của con người. Thiên Chúa chí thánh cũng là Cha của Đức Giêsu, Ngài là Thánh vì Ngài là Cha ; và Ngài là Cha vì Ngài thánh thiện. Sự thánh thiện của Thiên Chúa là chính Thánh Thần. Thiên Chúa là Cha tự bản chất. Sự thánh thiện của Ngài ở trong hành vi sinh hạ, và sự siêu việt của Ngài ở trong việc ra khỏi mình để tự hiến cách trọn vẹn. Sự thánh thiện không cô lập Thiên Chúa, nhưng đặt Ngài trong một thực tại tương quan : với Con và với con người.
Vì sự thánh thiện của Thiên Chúa là ra khỏi mình, nên nó bộc lộ rực rỡ nhất khi tìm đến với điều hoàn toàn trái ngược là các tội nhân. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa chí thánh trở nên người bầu bạn với những kẻ tội lỗi (Lc 15,2). Ra khỏi mình để đến với thế giới tội lỗi là thể hiện sự thánh thiện cách triệt để nhất. Thiên Chúa bày tỏ sự thánh thiện của Ngài khi thánh hóa những kẻ tội lỗi và tái lập tình con thảo nơi họ.
Cuộc thần hiển trên núi Sinai là mạc khải lớn lao về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa chỉ thực sự tỏ mình là Đấng Chí thánh, tức là Đấng hoàn toàn khác biệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thập giá thực sự là một thách đố đối với quan niệm về siêu việt của con người.
F. CHA CÔNG CHÍNH
Cũng trong lời nguyện tế hiến, Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha Công chính (Ga 17,25). Cũng như sự thánh thiện đưa Thiên Chúa đến gần con người và thánh hóa họ, sự công chính của Thiên Chúa cũng được thể hiện khi công chính hóa con người.
Thiên Chúa là “Cha – công chính”. Hai đặc tính đó không thể tách rời. Ngài không biết đến sự công chính xa lạ với tình Cha.
Trong Cựu Ước, sự công chính của Thiên Chúa không phải là chuyện “đúng – sai”, nhưng là “tín trung và nhân hậu” (Hs 2,11), là “đáp cứu kẻ khốn cùng : ngoài Ta ra không có Chúa nào, Chúa công bình cứu độ” (Is 45,21 ; 46,13 ; 51,4t). Đó không phải là đức công bằng báo oán. Thánh Kinh cũng nói đến cơn giận của Chúa, nhưng phân biệt, thậm chí đối nghịch nó với sự công chính (Mc 7,9). Theo cha Lyonnet, công chính được xếp cùng loại với nhân hậu, lòng tốt, tình yêu. Sự công bằng của con người trừng phạt lầm lỗi, sự công bằng của Chúa thì thứ tha (Đn 9,16). Công chính là một khía cạnh của sự thánh thiện nơi Thiên Chúa : “Ta sẽ không buông thả theo cơn giận dữ của Ta… vì ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Hs 11,9). Cũng như sự thánh thiện, “đức công chính trước hết là sự trung thành đầy nhân hậu với ý muốn cứu độ” (Descamps, art. Justice, VTB). Cũng như thánh thiện là thánh hóa, công chính là công chính hóa.
Đức Giêsu là mạc khải tối hậu về Thiên Chúa Công chính. Cũng như Cha, Ngài Công chính : Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công chính (Cv 3,14). Tin Mừng Gioan làm chứng nơi Đức Giêsu cuộc xét xử thế gian đang diễn ra, nhưng cũng chính Gioan làm chứng :
“Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để xét xử thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu” (Ga 3,17).
Nơi Đức Giêsu, sự công chính của Chúa đến ở giữa trần gian, lúc đầu biểu lộ trong xác phàm, sau đó trong thần khí. Mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu chính là làm tuôn tràn sự công chính và quyền năng vào trần gian trong thời cánh chung ; không có việc công chính nào vượt quá việc Thiên Chúa thực hiện khi tôn vinh Đức Giêsu. Thiên Chúa chí thánh và công chính làm cho sự công chính của Người hiện diện nơi Ngài cách tràn đầy và viên mãn (Cl 2,9), đến nỗi Đức Kitô trở thành sự Công chính của Thiên Chúa (1 Cr 1,30).
Thiên Chúa không thực thi sự công chính của Ngài theo lối thưởng phạt của con người, nhưng bằng cách thông ban sự công chính trong Con chí ái mà Ngài đã hạ sinh. Thưởng phạt phân minh giả thuyết quyền được thưởng. Nhưng trước mặt Thiên Chúa chẳng ai có quyền được thưởng, vì những việc tốt lành họ làm cũng là hoa quả của ân sủng. Nếu đức công chính của Thiên Chúa là thưởng phạt như con người thì nó tùy thuộc vào công tội của con người. Vậy mà Thiên Chúa là Cha, là khởi đầu tuyệt đối. Không có gì đi trước đức công chính, không có gì đáng công hay không đáng công vì không có gì đi trước tình Cha của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa, công chính là công chính hóa, thánh thiện là thánh hóa, quyền năng và sức mạnh là để phục sinh từ trong cõi chết. Làm sao quyền năng của Thiên Chúa có thể được tôn vinh trong cái chết của một con người nếu không phải bằng cách phục sinh người đó ? Làm sao sự thánh thiện có thể tỏ bày nơi người tội lỗi nếu không thánh hóa họ ? Cũng vậy, chính khi làm cho tội nhân nên công chính mà Thiên Chúa thực thi đức công chính của Ngài.
Thiên Chúa công chính hóa không phải bằng cách quên đi tội lỗi hay không kết tội nữa, nhưng bằng cách sinh hạ Con của Ngài. Ơn tha tội được ban cho thế gian nơi mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô và được dành cho những ai hiệp thông với mầu nhiệm phục sinh của Con Thiên Chúa nhờ lòng tin.