GIẢNG LỄ TẠ ƠN KẾT THÚC SỨ VỤ
Tân Thanh, 24/09/2019
Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương
Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây dâng Thánh Lễ được gọi là Thánh Lễ Tạ Ơn, vì mỗi người chúng ta thay mặt cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận đồng thanh cất cao lời kinh tiếng hát theo tinh thần Cộng đoàn Phụng tự để tạ ơn Thiên Chúa, nhân dịp một Mục tử kết thúc và một Mục tử khởi đầu sứ vụ Giám mục Chính tòa Giáo phận Đà Lạt từ ngày 14/9 vừa qua; đồng thời xin Chúa chúc lành cho những người sống trong Nhà Nghỉ dưỡng Linh mục Giáo phận và cho chính ngôi nhà mới nâng cấp.
Tuy nhiên, để ý thức mỗi người phải tạ ơn Chúa một cách toàn diện về những ân huệ nào, xin mọi người chúng ta cùng nhau đọc Kinh Cám Ơn:
“Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con hằng che chở con, lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá vì con, lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa, và đã cho phần xác con (ngày/đêm) hôm nay được mọi sự lành, lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các thánh ở trên nước thiên đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào thì con cũng hợp cùng các thánh mà dâng Chúa con cùng cám ơn như vậy. Amen”.
Như thế, chúng ta “cám ơn Đức Chúa Trời” vì Ngài “là Chúa lòng lành vô cùng”. Tin Mừng Nhất Lãm (x. Lc 18,18-19; Mt 19, 16tt; Mc 10, 17tt) tường thuật về một lần có người đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Đức Giêsu đáp: “Sao ông nói tôi nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”. Một lần khác, Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36). Chính do lòng nhân lành vô biên mà Thiên Chúa ban hết ơn này đến ơn khác, vì thế chúng ta đọc: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng”.
Vậy, Thiên Chúa ban cho chúng ta những ơn quan trọng nào ?
Ơn thứ nhất, Thiên Chúa “chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con”, hơn nữa còn “cho con được làm người” chứ không phải làm một con vật hoặc một loài cây cỏ, dù tất cả mọi loài Chúa dựng nên Chúa thấy đều tốt đẹp.
Sách Sáng thế, chương 1, khẳng định Thiên Chúa đã tạo thành mọi vật mọi loài từ hư không bằng Lời quyền năng của Ngài. Riêng loài người, Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài. TV 8 ca tụng Thiên Chúa rằng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân”. TV 139 ý thức rằng: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu”.
Ngoài ra, Thiên Chúa “hằng gìn giữ con hằng che chở con”: Đức Giêsu đã từng nhắn nhủ chúng ta hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý hơn chúng sao?” (Mt 6,26).
Ơn thứ hai, Thiên Chúa đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người để loài người trở nên một với Thiên Chúa nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng được gọi là Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta). Sách Sáng thế mô tả bằng hình thức văn chương bình dân rằng: trong vườn địa đàng, chiều chiều Thiên Chúa từ trời xuống đi dạo trong vườn với Adam Eva; khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người vẫn “một trời một vực”. Nhưng khi Ngôi Lời Nhập Thể, “đất với trời xe chữ đồng”, Thiên Chúa ở luôn với con người, Thiên Chúa nên một với con người, bất khả phân ly.
Hơn nữa vì loài người đã phạm tội trong Adam và phải chết, nên Đức Giêsu Kitô, Adam mới, đã tự nguyện chết thay cho loài người trên thánh giá và đã sống lại nhằm cứu sống mọi người. Khi về trời, Ngôi Lời Nhập thể đã đưa bản tính con người vào vĩnh cửu để hưởng hạnh phúc trường sinh cùng Thiên Chúa hằng sống.
Chính vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô (x. Ep 1,2-14), thánh Phaolô chúc tụng Thiên Chúa vì “theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”, hơn nữa “trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi”. Đây là ân sủng Thiên Chúa ban cho mọi tín hữu, và là một Tin Mừng cần loan báo.
Thánh Phaolô không quên nhắc đến ân sủng đặc biệt ngài nhận được, đó là: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người”, khi chọn ngài làm tông đồ (làm giám mục) dù ngài tự nhận “là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.
Nhìn lại những năm tháng trong sứ vụ mục tử, ĐTC Bênêđíchtô đã chia sẻ: “Tám năm sau, tôi có thể nói được rằng Chúa thực sự dẫn dắt tôi, ở bên tôi, hằng ngày tôi đều thấy được sự hiện diện của Chúa. Đó là cả một chặng đường dài của Giáo hội, có những lúc hân hoan và tươi sáng, nhưng cũng có những khi chẳng dễ dàng gì. Tôi thấy mình như Thánh Phêrô và các Tông đồ trong con thuyền trên hồ Galilê: Chúa đã cho chúng ta biết bao ngày nắng đẹp, gió nhẹ, những ngày đánh được nhiều cá; nhưng cũng có những lúc biển động, gió ngược, như nhiều lúc trong lịch sử Giáo hội, khi đó Chúa dường như cứ ngủ. Nhưng tôi luôn biết trong con thuyền này vẫn có Chúa, và cũng luôn biết rằng, con thuyền Hội Thánh không phải của tôi, không phải của chúng ta, nhưng là của Chúa và Người không để nó chìm mất. Chính Người dẫn dắt con thuyền Hội Thánh. Chắc chắn Người cũng dẫn dắt qua những người Chúa chọn, vì Người đã muốn vậy. Đó là điều chắc chắn không ai có thể làm lung lạc. Chính vì thế, hôm nay lòng tôi tràn đầy tâm tình biết ơn Chúa, bởi Người không để cho Giáo hội – và cả tôi nữa – không được Người an ủi, soi sáng và yêu thương”.
ĐTC Bênêđíchtô còn chia sẻ rằng: “Quyết định không đảm nhiệm sứ vụ nữa không có nghĩa là bãi bỏ điều đó. Tôi không quay về cuộc sống riêng tư của mình, quay về cuộc sống với những chuyến du hành, hội kiến, tiếp kiến, hội nghị v.v. Tôi không từ bỏ vác Thánh giá, nhưng sẽ đứng bên Đấng bị treo trên Thập giá với một cung cách mới. Tôi không còn giữ quyền điều hành Giáo hội, nhưng có thể nói, tôi phục vụ Giáo hội trong cầu nguyện, tôi đặt mình sống trong rào lũy của Thánh Phêrô”.
Ơn thứ ba, Thiên Chúa cho chúng ta được biết Đạo Công giáo, và Ngài muốn ban ân sủng cho chúng ta qua trung gian Hội Thánh, đặc biệt khi lãnh nhận các phép bí tích, vì thế trong kinh cám ơn, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì đã “cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa”.
Ơn thứ bốn, Thiên Chúa “đã cho phần xác con (ngày/đêm) hôm nay được mọi sự lành, lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp”. Thật vậy, trong lời nguyện nhập lễ tạ ơn, mẫu A, chủ tế đọc: “Lạy Chúa, Chúa không hề khép kín từ tâm khi thấy con cái Chúa phải lầm than khốn khổ. Chúa đã tỏ lòng thương chúng con vô ngần, nên chúng con xin dâng lời cảm tạ và còn dám xin Chúa giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, hầu chúng con được luôn luôn vui mừng phụng sự Chúa”.
Cuối cùng, trong mầu nhiệm “Các Thánh Thông Công”, kinh cám ơn kết thúc bằng cầu nguyện rằng: “Vậy các thánh ở trên nước thiên đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào thì con cũng hợp cùng các thánh mà dâng Chúa con cùng cám ơn như vậy. Amen”. Nước thiên đàng chính là cùng đích mà chúng ta nhận được sau cuộc sống ở trần thế này với tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đời đời chẳng cùng.
Ước gì trong Thánh Lễ Tạ Ơn này, qua việc suy niệm kinh cám ơn, mỗi người chúng ta ý thức mình phải tạ ơn Thiên Chúa về những ân huệ quan trọng nào, và cũng ý thức như lời Kinh Tiền Tụng thường đọc trong Lễ Tạ Ơn rằng: “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng Chúa, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Amen.