LỄ THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
Nhà thờ Chính tòa Đà Lạt, 01/10/2018
(bài giảng của Đức Cha Antôn)
Ông John Wu (John Ching Hsiung Wu – Ngô Kinh Hùng: 1899-1986) người Trung Hoa, sinh vào cuối thế kỷ 19, qua đời cuối thế kỷ 20 thọ 87 tuổi, đã viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức về tâm linh Kitô giáo, văn học Trung Hoa và các chủ đề pháp lý. Ông là một người Tin Lành theo đạo Công giáo năm 38 tuổi. Năm 47 tuổi (1946), ông được tổng thống Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm làm đại sứ Trung Hoa Dân Quốc tại Vatican; vài tuần sau nghi lễ nhậm chức, ĐTC Piô XII đã tiếp kiến gia đình ông gồm hai vợ chồng và 12 người con. Khi được chụp hình chung với Đức Thánh Cha, ông hỏi xem đây có phải là một thói quen không? Đức Giám mục phụ trách nghi lễ dí dỏm trả lời: “Một nhà ngoại giao muốn được vinh dự này phải có ít là 12 người con”.
Ông John Wu đã viết một tác phẩm ngắn bằng tiếng Anh nhan đề “Khoa học Tình yêu” (The Science of Love) về Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Trong lời tựa, ông cho biết lần đầu tiên ông được nghe nói đến Thánh Nữ Têrêsa thành Lisieux là vào Mùa Đông năm 1937 dịp ông trú ngụ tại nhà một người bạn theo đạo Công giáo. Điều làm ông cảm động trước tiên là thái độ của những người trong gia đình khi lần chuỗi Mân Côi. Một hôm, đứng trước ảnh thánh nữ Têrêsa, ông hỏi người bạn: “Đây có phải là hình Đức Mẹ đồng trinh không?”. Người bạn trả lời: “Đây là cánh hoa nhỏ của Chúa Giêsu”. Rồi người bạn đưa cho ông đọc cuốn tiểu sử Thánh Nữ Têrêsa. Sau đó ông tự nhủ: “Nếu Thánh Nữ này là một người tiêu biểu của đạo Công giáo thì không một lý do nào khiến tôi không theo đạo Công giáo”. Sau đó vợ và các con ông cũng quyết định theo đạo Công giáo, nhất là sau khi chứng kiến Thánh Nữ Têrêsa làm phép lạ chữa bệnh viêm phổi cấp tính cho người con gái.
Thánh Nữ Têrêsa thành Lisieux sinh năm 1873 trong một gia đình khá giả và đạo đức tại Alençon nước Pháp, là con út của ông bà Louis Martin và Zélie-Marie Guérin (cả hai vợ chồng đã được tuyên thánh năm 2015), sinh được 9 người con, nhưng chỉ có 5 người con gái là sống sót đến tuổi trưởng thành.
Têrêsa mồ côi mẹ từ lúc 4 tuổi. Khi lên 9, người chị thứ hai tên Pauline gia nhập đan viện Cát Minh tại Lisieux, Têrêsa cũng muốn vào Dòng Cát Minh như chị, nhưng khổ nỗi vẫn còn nhỏ quá. Đến tuổi 15, sau khi người chị cả tên Marie cũng gia nhập đan viện ấy, Têrêsa lại thử xin vào dòng một lần nữa, nhưng bề trên tu viện không cho vì Têrêsa còn quá trẻ. Bố của Têrêsa đem cô con gái 15 tuổi của mình đi hành hương Rôma. Trong một buổi tiếp kiến chung, Têrêsa đã xin với Đức Giáo hoàng Lêô 13 cho phép mình nhập dòng ở tuổi 15. Ít lâu sau, Giám mục giáo phận Bayeux yêu cầu bề trên nhận Têrêsa vào dòng và sau đó trở thành nữ tu Dòng Cát Minh. Sau cái chết của bố, người chị thứ năm là Céline cũng gia nhập đan viện. Còn người chị thứ tư tên Léonie đi tu dòng Đức Bà Thăm viếng.
Chị Têrêsa qua đời năm 24 tuổi vì chứng lao phổi. Chín năm sống trong Dòng kín, chị không đảm nhận trách nhiệm và công việc gì lớn lao, nhưng chị nữ tu bé nhỏ ấy lại trở thành vĩ đại. Cuốn tiểu sử tự thuật của chị, “Truyện Một Tâm Hồn”, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế kỷ 20, được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ.
Chị được tuyên phong chân phước vào tháng 4 năm 1923, và hai năm sau, được Đức Piô XI tuyên phong hiển thánh (17/5/1925). Năm 1927, Đức Piô XI đặt Chị làm bổn mạng các xứ truyền giáo cùng với thánh Phanxicô Xaviê. Năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn phong Thánh Nữ lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh, nhằm kêu mời mọi người trong Giáo hội noi gương con đường sống đạo của Thánh Nữ. Chính Thánh nữ Têrêxa đã viết về con đường đó như sau: “Tôi là một tâm hồn rất nhỏ bé, chỉ có thể dâng lên Chúa những gì rất bé nhỏ… Cách duy nhất để tôi chứng tỏ tình yêu là tung những cánh hoa nhỏ, những cánh hoa là tất cả những hy sinh nhỏ bé, ánh mắt, lời nói, việc làm nhỏ bé nhất như những hành động của tình yêu”.
Con đường của Thánh Nữ Têrêsa được gọi là con đường thơ ấu thiêng liêng. Thánh Nữ tự ví mình như trẻ nhỏ, nghĩa là yếu đuối, hèn mọn, không thể tự sức mình làm được gì, nên phải yêu mến thật nhiều để đạt được điều mình ao ước, mong chờ. Thánh Têrêsa đã hiểu được bí quyết nên thánh theo Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay: “muốn thành người lớn nhất phải trở nên nhỏ nhất”. Đây là kinh nghiệm sống của chị Têrêsa trong cuộc sống hằng ngày. Chị Thánh đã viết: “Hãy yêu Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì Chúa, hãy chia sẻ tâm tình của Chúa đang đau khổ trong các chi thể của Hội Thánh để cứu rỗi thế gian”. Thánh Têrêsa đã gọi tình yêu là chiếc thang máy bắc lên Trời. Con người chỉ có thể đạt được Nước Trời khi họ sống bé nhỏ và yêu thương, sống đơn sơ, phó thác cho Thiên Chúa.
Chị Têrêsa đã muốn chịu mọi đau khổ của các vị tử đạo. Đời chị là một cuộc tử đạo liên tục, đầy những hy sinh nho nhỏ, nhưng với tình yêu.
Ngoài ra, chị thánh Têrêsa đã viết trong hồi ký về ước muốn làm linh mục: “Con cảm thấy mình muốn sống ơn gọi của một linh mục. Với một tình yêu bao la, ôi lạy Chúa, con sẽ nâng Chúa trên đôi tay của mình; khi tiếng con gọi Chúa, Chúa ngự xuống từ chốn thiên đình. Và với một tình yêu cao vời, con sẽ đem Chúa đến với các linh hồn! Nhưng hỡi ôi! trong khi khao khát được trở thành một linh mục, con lại khâm phục sự khiêm nhường của Thánh Phanxicô Assisi không muốn nhận phẩm giá cao cả của thiên chức linh mục”.
Cuối cùng, chị Têrêsa đã xác tín về ơn gọi sống tình yêu: “Ôi Giêsu, tình yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm được… ơn gọi của con là Tình Yêu! Vâng, con đã tìm được chỗ của mình trong lòng Giáo Hội và chính Ngài, ôi lạy Chúa, Đấng đã ban cho con chỗ ấy; trong trái tim của Mẹ Giáo hội, phận sự của con là yêu thương”.
Ông John Wu đã viết trong cuốn “Khoa học Tình yêu”: “Như thế làm sao có thể nhân danh khoa học loại bỏ một tôn giáo tuyệt hảo về tình yêu? Theo ý kiến của tôi, không một ai đã diễn tả triết lý tình yêu hay bằng thánh Phaolô. Tôi xin trích đoạn thư gửi tín hữu Côrintô: “Giả như tôi có thể nói được các thứ tiếng của loài người và của thiên thần đi nữa, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng… Yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật…” (1 Cr 13,1.4-6).
Lạy Thánh Nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu, xin cầu cho chúng con.