“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Bài Ðọc I: Xh 24, 3-8
“Ðây là máu giao ước Thiên Chúa đã cam kết với các ngươi”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê đến thuật lại cho dân chúng nghe tất cả những lời và lề luật của Chúa, và toàn dân đồng thanh thưa rằng: “Chúng tôi xin thi hành mọi lời Chúa đã phán”. Vậy Môsê ghi lại tất cả những lời của Chúa. Và sáng sớm, ông chỗi dậy, lập bàn thờ ở chân núi, dựng mười hai cột trụ, chỉ mười hai chi họ Israel, ông sai các thanh niên trong con cái Israel mang của lễ toàn thiêu và hiến dâng lên Chúa những con bò tơ làm hy lễ giao hoà. Môsê lấy phân nửa máu đổ vào các chậu và rưới phân nửa kia lên bàn thờ. Ông mở quyển giao ước ra đọc cho dân nghe và họ thưa: “Chúng tôi xin thi hành và tuân theo tất cả những điều Chúa đã phán”. Vậy ông lấy máu rẩy lên dân chúng và nói: “Ðây là máu giao ước Thiên Chúa đã cam kết với các ngươi theo đúng tất cả những lời đó”.
Ðáp Ca: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa
Hoặc đọc: Alleluia
Xướng: Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa.
Xướng: Trước mặt Chúa thật là quý hoá, cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Tôi là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài, Ngài bẻ gãy xiềng xích cho tôi.
Xướng: Tôi sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài.
Bài Ðọc II: Dt 9, 11-15
“Máu Chúa Kitô tẩy sạch lương tâm chúng ta”.
Trích thư gởi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Chúa Kitô xuất hiện như vị Thượng tế cầu bầu mọi phúc lành tương lai. Người đi qua nhà tạm rộng rãi và hoàn hảo hơn, không phải do tay người phàm xây dựng, nghĩa là không thuộc về trần gian này, cũng không nhờ máu dê bò, nhưng nhờ chính máu của Người mà vào Cung Thánh chỉ một lần và đem lại ơn cứu độ muôn đời. Vì nếu máu dê và tro bò mà người ta rảy trên kẻ ô uế còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, huống chi máu của Ðức Kitô, Ðấng đã nhờ Thánh Thần mà hiến tế chính mình làm của lễ trong sạch dâng lên Thiên Chúa; máu đó sẽ tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những việc sinh sự chết, khiến chúng ta có thể phụng sự Thiên Chúa hằng sống. Vì vậy Chúa Kitô là trung gian của Tân Ước, vì nhờ sự chết của Người để cứu chuộc tội phạm dưới thời Cựu Ước, mà những kẻ được kêu gọi, đến lãnh lấy gia nghiệp đời đời đã hứa cho họ.
Alleluia: Ga 6, 51-52
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 14, 12-16. 22-26
“Này là Mình Ta. Này là Máu Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?” Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng: “Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: ‘Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?’ Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”. Hai môn đệ đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa”. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
Giêsu, điểm hẹn!
Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy!” (Mc 14,22)
Suy niệm: Các trình thuật Tin Mừng từ phép lạ bánh hóa nhiều, bữa Tiệc ly, đến bữa tối với các môn đệ Em-mau, đều cho thấy Đức Giê-su làm bốn động tác quen thuộc: “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban.” Bốn động tác ấy trở thành biểu trưng cho việc cử hành Thánh Thể. Đức Giê-su, tấm bánh được bẻ ra và trao ban cho mọi người, là nền tảng cho sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại. Trong mầu nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa đến “cư ngụ giữa chúng ta;” còn trong Bí tích Thánh Thể, Ngài ở lại với con người “mọi ngày cho đến tận thế.” Với ta, “cầm lấy bánh” là cầm lấy cuộc đời, cầm lấy những gì thuộc về mình để rồi biết “dâng lời chúc tụng” về món quà Thiên Chúa tặng ban. “Bẻ ra và trao ban” của cải, thời gian, tài năng… cho những người lân cận.
Mời thân mến, Bí tích Thánh Thể là Mình và Máu Chúa Ki-tô, là lương thực thần linh, nơi bạn sống mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Cây cầu hiệp thông đã được nối kết, bạn có thể tìm đến gặp gỡ, kết hiệp nên một với vị Thiên Chúa sống động, gần gũi và luôn ở giữa dân Người. Dù bạn là ai, như thế nào, hãy nhớ rằng: Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể là Điểm Hẹn cho bạn tìm đến và tìm về.
Sống Lời Chúa: Tôi năng nhớ Chúa trong suốt ngày sống với lời nguyện tắt, hoặc đọc kinh Rước lễ thiêng liêng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con cám ơn Chúa đã thương cho con có được mối tương quan tình bạn thân tình với Chúa. Xin cho con luôn biết tìm đến và tìm về điểm hẹn Tình yêu Thánh Thể, nơi Chúa hằng chờ đợi con. Amen.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu tế vật.
Xh 24: 3-8
Sách Xuất Hành trình bày nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Ngài. Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ, còn sự hiện diện của dân Thiên Chúa được biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đối diện với bàn thờ.
Dt 9: 11-15
Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy hy tế Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với các hy tế Giao Ước Cũ, vì Đức Ki-tô đã hiến dâng chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới.
Mc 14: 12-16, 22-26
Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, hy tế Giao Ước Mới.
BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)
Sách Xuất Hành thuật lại không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi Ai-cập”, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong hoang địa. Chắc chắn kinh nghiệm nầy xác minh kinh nghiệm mà tổ tiên xưa kia của họ đã được trải qua. Chính khởi đi từ giây phút nầy, dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân không có cội nguồn, nhưng ý thức mình là dân được chính Thiên Chúa đích thân phù trợ. Tất cả những người, sau khi kinh qua một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, thì dân Ít-ra-en luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối quan hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.
Họ đã ghi lại những mối quan hệ nầy bằng thuật ngữ Giao Ước, theo cách thức mà con người ký kết ở giữa nhau: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ tuân giữ vài điều khoản của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Về phần mình, họ phải cam kết tôn trọng những điều khoản nầy. Tất cả những truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong bầu khí uy nghi và trình bày Giao Ước trong khung cảnh cử hành phụng vụ.
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước cách long trọng, theo một dị bản được khai triển nhiều nhất trong số những dị bản. Đây chính là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước Mới. Dị bản nầy, thuộc truyền thống Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một dị bản khác, thuộc truyền thống Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước thánh nhan Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ của việc cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ Hy Tế.
1. Phụng vụ Lời Chúa:
Từ trên núi xuống, ông Mô-sê, phát ngôn nhân của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể con cái Ít-ra-en quy tụ ở dưới chân núi Xi-nai biết “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.
“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong hoang địa nhưng thuộc về thời kỳ đầu tiên khi dân Do thái định cư ở đất Ca-na-an, sau này được tháp nhập vào Thập Giới và đem lại cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.
Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung điện Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được công bố theo định kỳ.
2. Phụng vụ Hy Tế
Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Thiên Chúa. Hai bên ký kết Giao Ước diện đối diện với nhau: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của dân Ít-ra-en, vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en.
Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân muôn đời bền vững cho lời cam kết trung thành của dân Ít-ra-en. Cũng theo một cách như vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng cam kết lại, ông Giô-suê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).
“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”.Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:
– Trước hết, “hy lễ toàn thiêu”. Như thuật ngữ chỉ cho thấy, tế vật được hoàn toàn hỏa tế trọn vẹn dâng tiến Thiên Chúa. Đây là hình thức hy tế cổ xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường: ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, hy lễ toàn thiêu được dâng tiến Đức Chúa hằng ngày.
– Tiếp đó, “hy lễ hiệp thông”. Nét đặc trưng của hy lễ hiệp thông chính là tế vật được làm thành một bữa ăn và mọi người cùng tham dự bữa ăn trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm tái lập những mối giao hảo giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài.
3. Nghi thức rảy máu
Nghi thức được mô tả theo sau là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Những tế vật bị cắt tiết cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, sau đó, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa, phần còn lại ông rảy trên dân chúng. Cuối cùng, ông lập lại lời hứa cam kết trung thành của dân: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.
Sự thỏa thuận của hai phía được đóng ấn bằng máu: máu là biểu tượng của sự sống, chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống, đem lại cho sự cam kết này một hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
Việc Đức Giê-su ban chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Giê-su không chỉ đóng vai trò trung gian giao ước như ông Mô-sê, nhưng Ngài còn là tế vật nữa. Không có một sự cam kết nào về phía Thiên Chúa đối với nhân loại lại triệt để tận mức đến như thế. Không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được hiện thực trong Bàn Tiệc Thánh Thể.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)
Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Ki-tô là Thượng Tế đích thật. Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Ki-tô nầy, Phụng Vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki-tô cao vời khôn ví so với máu của tế vật dưới thời Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Ki-tô thuộc bản chất khác: một của lễ tự nguyện hiến dâng thuộc vào trật tự thần thiêng và tính hiệu lực thần thiêng của nó.
Chúng ta không biết tác giả của bức thư này là ai và ai là người nhận bức thư này (nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” được thêm vào sau này). Tuy nhiên, chắc chắn ông là một môn đệ hay một cộng tác viên của thánh Phao-lô; và người nhận phải là những Ki-tô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ đang phải chịu. Dường như họ vẫn ôm ấp những hoài niệm về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể xem ra quá đơn giản.
1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:
Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước với chức tư tế của Đức Ki-tô. Những so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi thức lễ Toàn Xá diễn ra một năm một lần. Chỉ một năm một lần vào ngày đại lễ này, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chính mình và của toàn dân.
So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki-tô thật sự là cao vời khôn sánh, vì Đức Ki-tô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”. Qua những mô tả, tác giả sắp cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Kitô đã đạt được như thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; tức là những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.
Sự cao cả của sứ vụ Đức Kitô được nêu bật ngay từ đầu bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế Giao Ước Cũ, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki-tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.
Dường như tác giả nhắm đến Thân Thể vinh quang của Đức Ki-tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như vậy là vĩnh viễn, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Kitô đã khai mở chỉ một lần là đủ con đường dẫn đến Chúa Cha, như tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).
Máu mà Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ rảy trên bàn thờ không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki-tô đã tự nguyện dâng hiến chính máu của mình trong một hiến lễ. Vị Thượng Tế Giao Ước Cũ chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời, trong khi Đức Ki-tô đạt được ơn giải thoát vĩnh viễn.
Những tế vật phải là vô tì vết; ấy vậy, Đức Ki-tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức tinh tuyền và tuyệt đối thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực vô cùng tận. Việc rảy máu tế vật đem lại sự thanh sạch nghi thức, trong khi máu của Đức Ki-tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.
2. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.
Tại sao hy tế của Đức Ki-tô lại cao vời khôn ví như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki-tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói đến “Thánh Thần hằng hữu” nhằm làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.
Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ thuộc Thánh Thần, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng của đời sống nội tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng tiến Thiên Chúa lễ tế xứng với Người.
Hiến lễ của Đức Kitô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẫm máu trên Thập Giá, nhưng còn là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Ngài kể từ khi nhập thể. Tác giả đã áp dụng cho Đức Giê-su Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một nền phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy). Khi ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái, ông muốn cho họ thấy rằng những nghi thức Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Kitô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Những ai đã nhận lời hứa ban phúc lộc đời đời, từ nay họ đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.
TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)
Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy, được trích dẫn cho chúng ta vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô năm B, gồm có hai phần: chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16) và thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-26).
1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):
“Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua”. Hai ngày đại lễ nầy: lễ Bánh Không Men và lễ Vượt Qua, từ lâu được cử hành thành một cặp song đối với nhau: lễ Vượt Qua là lễ của những người chăn nuôi theo đó họ giết một con chiên tơ; còn lễ Bánh Không Men là lễ của những người trồng trọt theo đó họ tiến dâng những sản phẩm đầu mùa và bánh không men được làm bằng những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dễ dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế “phải được ăn ở trong thành”. Điều nầy khiến các môn đệ lo lắng. Đức Giê-su là một bậc tôn sư lưu động không nơi cố định; hơn nữa, Ngài là người thuộc miền Ga-li-lê; ngoài ra, theo sơ đồ của các sách Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần đầu tiên Thầy trò lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc diễn tiến như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Trong cả hai lần, những sự việc xảy ra đúng như Chúa Giê-su đã tiên liệu: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài cùng các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Qua đó, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
2. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo, mà Đức Giê-su cùng các môn đệ cử hành, biến thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo qua việc Chúa Giê-su thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt, vừa song đối sâu xa nhưng cũng mới mẻ tận căn giữa hai lễ Vượt Qua này.
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Người nên đã tha chết cho họ.
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài “đổ ra vì muôn người”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã làm dân Ít-ra-en thành dân Thiên Chúa và ơn tuyển chọn này đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai bởi Giao Ước Cũ.
Nhờ Mình và Máu Thánh của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới bởi Giao Ước Mới được đóng dấu bằng máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua Do Thái giáo soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như thế nào, thì khung cảnh bữa ăn Vượt Qua Ki-tô giáo mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như vậy: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương đến cùng, những người mà Ngài trao phó sứ mạng thông truyền sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; vì thế, Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân Ngài, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi cách thế hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh “giá trị cánh chung” của “bàn tiệc Thánh Thể”. Bàn tiệc này tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.
Trong nhiều sấm ngôn, cuộc sống tương lai thường được biểu thị như bàn tiệc thời Thiên Sai, còn rượu nho như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời Mê-si-a”, niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của dấu lạ bàn tiệc Thánh Thể: nước biến thành rượu ở tiệc cưới Ca-na tương ứng với rượu biến thành máu của Ngài ở bàn tiệc Vượt Qua.
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát Thánh vịnh xong…”. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi “Hallel”, được hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118; như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su theo Tin Mừng Gioan đích thực là bữa ăn Vượt Qua của Đức Giê-su theo các Tin Mừng Nhất Lãm.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
NGHIỆM THẤY ƠN CHÚA CỨU CHUỘC
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Mình Máu Thánh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã trối lại cho chúng ta Bí Tích Mình và Máu Thánh Chúa, để chúng ta đời đời tưởng nhớ: Chúa đã chịu khổ hình và sống lại vinh quang. Xin cho chúng ta biết một niềm sùng kính, mến yêu Bí Tích Kỳ Diệu này, để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng ta.
Nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc, qua những điều luật và Giao Ước Chúa đã thiết lập với Dân của Người, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách và của Thánh Lễ, sách Xuất Hành cho thấy: Ông Môsê xuống thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: Mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này.
Nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc, qua tình yêu bao la tuyệt vời mà Đức Kitô đã tỏ ra trong cuộc Thương Khó của Người, và được kính nhớ trong Bí Tích Thánh Thể, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Tôma Aquinô nói: Để ghi khắc sâu hơn tình yêu bao la ấy vào lòng các tín hữu, thì trong bữa ăn tối cuối cùng, sau khi mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, lúc sắp qua khỏi thế gian này mà về cùng Chúa Cha, Đức Kitô đã lập bí tích này để làm kỷ vật muôn đời ghi nhớ cuộc Thương Khó của Người, để hoàn tất những hình ảnh xưa tiên báo; đó là phép lạ lớn nhất trong các phép lạ Người làm.
Nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc, qua hy tế cứu độ của Đức Kitô, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thư gửi tín hữu Hípri cho thấy: Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 115, vịnh gia cũng cùng chung tâm tình này khi cầu xin: Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa. Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại: Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc, qua bữa tiệc cứu độ của Đức Kitô, bữa tiệc không phải với thịt bê thịt dê, như trong Giao Ước cũ, với Luật cũ, chẳng làm cho chúng ta được nên công chính và hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, nhưng là, chính Thịt và Máu của Đức Kitô, trong Giao Ước mới, với Luật mới, mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Để chúng ta được tham dự vào thần tính của Người, Con Một Thiên Chúa đã nhận lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Người nhận lấy sự gì nơi chúng ta, thì Người ban lại tất cả để cứu độ chúng ta. Trên bàn thờ thập giá, Người đã dâng mình làm lễ tế cho Thiên Chúa Cha để hòa giải chúng ta, và Người đã đổ Máu của Người ra làm giá chuộc, để tẩy sạch mọi tội lỗi của chúng ta. Để chúng ta ghi nhớ hồng ân cao cả này, Người đã để lại Mình Người làm của ăn, và Máu Người làm của uống cho chúng ta rước lấy, dưới hình bánh và hình rượu. Ước gì chúng ta biết một niềm sùng kính, mến yêu Bí Tích Kỳ Diệu này, để luôn được nghiệm thấy ơn Chúa cứu chuộc chúng ta. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
THÁNH THỂ, BẢO CHỨNG TÌNH YÊU
A. DẪN NHẬP
Tuần lễ trước chúng ta đã mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tình yêu Chúa Ba Ngôi bao trùm trên chúng ta bằng việc Ngôi Cha tạo dựng trời đất muôn vật, Chúa Con xuống thế chuộc tội cứu đời và Thánh Thần thánh hoá Hội thánh và các tâm hồn. Do đó, tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa phải là khuôn mẫu của chúng ta. Nhưng thành thực mà nói, sống yêu thương theo khuôn mầu Ba Ngôi không phải là chuyện dễ. Cảm thông được sự giới hạn của chúng ta, trước lúc về trời, Đức Giêsu đã hứa :”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Và để thực hiện lời hứa ấy, Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể, để lại Mình Máu Ngài làm lương thực và là nguồn sức mạnh cho chúng ta trong cuộc lữ hành trần gian này. Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thực sự ở cùng chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”. Như vậy, Thánh Thể chính là dấu chứng của một lời hứa, một giao ước đã thành hiện thực và là bảo chứng của tình yêu.
Thánh Thể là bảo chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Vậy chúng ta hãy đáp lại tình yêu nhưng không và quảng đại ấy. Ước gì, từng người chúng ta hãy ý thức nhiều hơn đến tình yêu Đức Giêsu dành cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Đồng thời, chúng ta hãy giữ trọn giao ước tình yêu với Thiên Chúa bằng một quyết tâm năng tham dự Thánh lễ và rước lễ mỗi khi có thể. Và nhờ sức mạnh của Thánh Thể ở trong mình, chúng ta hãy sống yêu thương và chia sẻ cho những người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Xh 24, 3-8.
Sách Xuất hành tường thuật việc Thiên Chúa ký giao ước tình yêu giữa Ngài với dân Israel qua trung gian ông Maisen. Thiên Chúa muốn chọn dân Israel làm dân riêng thuộc quyền sở hữu của Ngài. Nhưng Ngài không ép buộc, con người được hoàn toàn tự do. Ngài muốn một sự dấn thân tự nguyện. Nghi lễ ký kết giao ước gồm :
– Trước hết ông Maisen lặp lại các lệnh Thiên Chúa truyền cho dân phải giữ. Dân chúng đồng ý ký kết và hô lên :”Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”.
– Tiếp đến, Maisen viết các lệnh truyền của Chúa cho dân để lưu truyền mãi về sau.
– Cuối cùng, Maisen truyền giết bò dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an cho Thiên Chúa. Ông rảy máu bò trên bàn thờ và trên dân để ký kết giao ước.
+ Bài đọc 2 : Dt 9,11-15.
Trích đoạn thư Do thái cho chúng ta biết : Đức Giêsu đã ký kết Giao uớc mới trong máu của Ngài thay thế cho Giao ước cũ. Trong lễ xá tội của người Do thái, vị Thượng tế một mình bước vào nơi Cực thánh để hiến dâng của lễ đền tội cho dân chúng. Được Đức Giêsu đảm nhận, vai trò này được hoàn toàn đổi mới : Cung thánh mới là nhân tính đã được tôn vinh dứt khoát của Đức Kitô, máu dâng tiến chính là máu của Ngài.
Nhờ máu của Ngài đổ ra, con người được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, được dâng lễ thờ phượng Thiên Chúa và nhận gia tài vĩnh cửu đã được hứa ban.
+ Bài Tin mừng : Mc 14,12-16.22-26.
Đoạn Tin mừng theo thánh Marcô tường thuật bữa tiệc Vượt qua cuối cùng của Đức Giêsu. Sau khi đã mô tả chi tiết những chuẩn bị bữa ăn Vượt qua, thánh sử kể lại việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể.
Hằng năm người Do thái tổ chức ăn mừng lễ Vượt qua để tưởng niệm cuộc giải phóng dân Chúa ra khỏi ách nô lệ của Ai cập. Đức Giêsu rất tôn trọng lễ Vượt qua này nên đích thân thu xếp mọi chi tiết tổ chức. Chính trong bữa tiệc này Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể. Máu Ngài đổ ra để đóng dấu cho một Giao Ước Mới :”Đây là Máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người”.
Biến cố được cử hành không còn phải là cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập nữa, mà chính là cuộc giải phóng vĩnh viễn của nhân loại đã được thực hiện trên thập giá. Con Chiên Vượt qua thực sự, chính là Đức Giêsu, Đấng bị kết án tử hình vì đã yêu thương nhân loại đến cùng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thánh Thể, bảo chứng tình yêu
Vào năm 1263, có một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kính thánh Christiana, lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân Xác Đức Giêsu tử nạn. Trên thân mình Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn kia lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu lại thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết thánh lễ được.
Sau đó, ngài đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng Urbanô và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã thấm Máu Thánh kia về Rôma và đặt tại một nhà thờ dâng kính phép Thánh Thể, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình Thánh liên tục. Sau đó, vào ngày mồng 8 thánh 9 năm 1264, Đức Giáo hoàng Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Giêsu và truyền mừng lễ trong toàn thể Hội thánh.
I. NHỮNG CHUẨN BỊ TỪ XA
Hằng năm, người Do thái mừng lễ Vượt Qua rất trọng thể, cuộc lễ kéo dài tới bảy ngày. Khách thập phương trẩy đến Giêrusalem mừng lễ rất đông. Có những người ở xa ước được về Giêrusalem mừng lễ ít là một lần trong đời, giống như người Hồi giáo ngày nay tuốn về La Mecque để mừng lễ của họ.
Người Do thái gọi lễ Vượt Qua này là lễ Quốc khánh của toàn dân để kỷ niệm hai biến cố oai hùng vĩ đại nhất của dân tộc. Hai biến cố ấy là :
1. Giải phóng dân tộc
Thiên Chúa giải phóng dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập. Ngày đó, Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen và tổ tiên họ : giết con chiên một tuổi, sung sức nhất, trong sạch nhất, lấy máu nó bôi lên cửa nhà dân Do thái để được cứu sống. Còn cửa nhà dân Ai cập, không có máu chiên thì các con đầu lòng bị giết. Sau đó họ ăn thịt chiên với bánh không men lấy sức mạnh vượt ra khỏi Ai cập để về đất mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ tiên họ.
2. Lập Giao ước Sinai
Thiên Chúa muốn chọn cho mình một dân riêng làm sở hữu, nên Ngài đã lập giao ước với toàn dân ở núi Sinai. Thiên Chúa đã truyền cho ông Maisen xuống núi thuật lại lời giao uớc và giới luật của Chúa : Toàn dân đồng thanh đáp : “Mọi lời Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Rồi họ ngả chiên bò làm lễ toàn thiêu và lễ hiệp thông.
Họ dâng lễ toàn thiêu bằng thiêu đốt tất cả lễ vật dâng lên trước nhan Chúa để tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi loài. Ngài đã ban sự sống cho họ, vì thế, họ hoàn toàn phó thác mạng sống mình và dân tộc mình cho Thiên Chúa. Ông Maisen đã ký kết với Thiên Chúa bằng cách lấy máu chiên bò : một nửa số máu được rảy trên bàn thờ, tượng trưng phía Thiên Chúa; một nửa kia được rảy trên toàn dân và Maisen lớn tiếng tuyên bố :”Đây là máu giao ước Chúa lập với anh em”. Sau đó, họ ăn thịt chiên hy tế trước tôn nhan Thiên Chúa để hiệp thông sự sống của Thiên Chúa (Xh 24,3-8).
II. ĐỨC GIÊSU LẬP PHÉP THÁNH THỂ
1. Tại bữa Tiệc ly
Đức Giêsu yêu thương các môn đệ, không để họ sống bơ bơ trên trần thế nên hứa sẽ ở lại với họ mãi mãi :”Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Ngài muốn ở cùng các môn đệ mãi mãi bằng cách ban cho họ một tặng phẩm, tặng phẩm thần linh.
Người đời trước khi đi xa thường để lại cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ như một cuốn sách, tấm hình, cái bút, cái khăn tay hay bất cứ một đồ vật gì trong đời sống hằng ngày.
Cách đây không lâu, đám thợ lặn đã tìm ra một chiếc tầu Tây ban nha được chế tạo đã 400 năm nay bị chôn vùi dưới nước ngoài khơi Bắc Ái nhĩ lan. Trong số báu vật tìm được trong tầu, người ta thấy một chiếc nhẫn đàn ông bằng vàng, trên nhẫn có chạm hình một cánh tay đang nắm một trái tim với những dòng chữ như sau :”Anh không thể cho em điều gì hơn thế nữa”.
Đức Giêsu cũng hành động như vậy, Ngài muốn để lại cho họ một kỷ vật có một không hai, không phải là món đồ vật nào mà chính là bản thân Ngài. Đây chính là lời Đức Giêsu nói với chúng ta : Thầy đã trao ban chính mình Thầy cho các con trọn vẹn đến mức Thầy không còn thể nào cho các con điều gì hơn thế nữa.
Ngài đã thực hiện trong bữa tiệc này mà thánh Marcô đã ghi lại:”Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các ông mà nói:”Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông và tất cả đều uống chén này, đổ ra vì muôn người”(Mc 14,22-24).
Với những lời ấy, Đức Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Ngài còn truyền cho các môn đệ :”Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” tức là Ngài ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao qúi này để tưởng nhớ đến Ngài.
2. Ý nghĩa bí tích Thánh Thể
Trong bữa Tiệc ly và cũng là Thánh lễ đầu tiên do Đức Giêsu cử hành, Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể và ban quyền chức Linh mục cho các Tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho đến tận thế, trong Thánh lễ, khi Linh mục trịnh trọng lặp lại những lời Đức Giêsu :”Này là mình Thầy, “Này là Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa mà đã trở thành Mình Máu Chúa Kitô.
Lễ Chúa dâng tại bữa Tiệc ly, trên thánh giá và lễ các Linh mục dâng bây giờ cũng là một, vì “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chỉ khác nhau ở cách thức dâng lễ thôi, nghĩa là trên thánh giá có đổ máu, còn bây giờ thì không.
Như vậy, Đức Giêsu đã tìm ra phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh rượu, Đức Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Vì vậy, sau truyền phép, Linh mục xướng lên :”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Mọi người đều thưa lên:”Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho đến khi Chúa đến”.
Trong bài ca Tiếp liên của Thánh lễ hôm nay, Thánh Tôma tiến sĩ đã ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau:”Đây là tín điều dạy người Kitô hữu, rằng Bánh trở nên Thịt Chúa và Rượu trở nên Máu Chúa. Thịt Chúa là của ăn, Máu Ngài là thức uống, nhưng Chúa Kitô vẫn còn đầy đủ dưới mỗi sắc hình. Lạy Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, là Bánh thực, xin Ngài thương xót, chăn nuôi và bảo vệ chúng con, xin Ngài ban cho chúng con nhìn thấy những điều thiện hảo trong cõi nhân sinh” (Bài Lauda Sion do thánh Tôma Aquinô soạn tại Orvieto năm 1264).
III. BÀI HỌC RÚT RA TỪ THÁNH THỂ
- Thánh Thể và hiệp thông
Bí tích Thánh Thể cũng là một dấu chỉ : dấu chỉ của sự hiệp thông. Hiệp thông có nghĩa là nên một. Nói cách khác, bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của sự nên một, của sự hiệp nhất, như Hội thánh luôn tuyên xưng và cầu nguyện rằng:”Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và máu Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn II) Hay :”Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”(Kinh Tạ ơn III).
Chính Đức Giêsu đã từng nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”(Ga 6,56). Động từ “ở trong” mà Chúa nói, diễn tả mạnh mẽ ơn hiệp thông. Có ai trong chúng ta dám khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ như Đức Giêsu ? Dẫu là tình yêu mặn nồng của đôi lứa yêu nhau hay ngay cả vợ chồng đi nữa, có chắc là họ ở trong nhau như Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa ? Chỉ có bí tích Thánh Thể làm nên sự hiệp thông kỳ diệu, sự hiệp thông toàn vẹn : Chúa với ta và ta với Chúa : một thân thể không thể tách lìa.
Trong bí tích Thánh Thể, ta không chỉ nên một với Chúa mà thôi, nhưng còn với anh chị em của mình nữa. Vì khi cùng chia sẻ một tấm bánh là chính thân mình Chúa Kitô, tất cả mọi người sẽ nên những chi thể của Ngài. Thánh Phaolô đã từng nói : Tất cả chúng ta tuy nhiều nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh, vì thế chúng ta làm nên một thân mình. Thân mình mầu nhiệm này sẽ được sống nhờ sức sống của Chúa Kitô là chính Thánh Thần của Chúa Kitô mà Ngài ban cho ta.
Bởi thế, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thể của Người, tất cả chúng ta thật xứng đáng gọi Thiên Chúa là Cha, còn ta chỉ là một với nhau , cùng làm con một Cha (Lm Ng. minh Hùng).
2. Thánh Thể và yêu thương
Con người ta ai cũng có nhu cầu yêu, nghĩa là nhu cầu yêu và được yêu, mà không yêu là chết. Nhưng khi yêu người ta không dựa trên cơ sở lý luận mà chỉ theo cảm tình. Chính vì thế, triết gia Blaise Pascal đã nói:”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu được”. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Với sự thúc đẩy mạnh liệt của tình yêu, người ta có thể làm những việc mà không ai có thể nghĩ tới. Chỉ tình yêu mới có thể cắt nghĩa được những hành động đó.
Thiên Chúa cũng yêu chúng ta bằng tình yêu như vậy đó. Tình yêu mà Thiên Chúa lắm lúc cũng có vẻ “điên khùng” như thế, vượt qua mọi lý luận của lý trí con người như tình yêu đôi lứa. Thật vậy, nhìn lại mối tương quan giữa Thiên Chúa và loài người, chúng ta sẽ thấy trong mối tương quan này, Ngài không nhận lại bất cứ một điều gì. Chỉ vì yêu loài người chúng ta, Ngài đã làm những việc mà trí khôn con người không thể tưởng tượng được, đó là việc Ngài từ bỏ vinh quang của một vì Thiên Chúa, nhập thể làm một con người nghèo hèn ở giữa chúng ta (x. Pl 2,6-7).
Cuộc đời Đức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay từng chi tiết, chúng ta thấy Ngài sống hoàn toàn vị tha, nghĩa là vì tình yêu với Chúa Cha và đối với chúng ta. Cụ thể nhất là cái chết thê thảm và nhục nhã trên thập giá của Ngài. Hơn thế nữa, Ngài còn để lại chính thịt máu Ngài làm của ăn cho từng người chúng ta như Ngài phán:”Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống”(Ga 6,51). Hành vi này là của Đức Giêsu, quả thật đã vượt quá suy luận của con người đến nỗi ngay các môn đệ của Ngài cũng phải thốt lên:”Lời chi mà sống sượng thế, ai nào có thể nghe nổi”(Ga 6,60).
Thiên Chúa cảm thông và thương yêu chúng ta như vậy, lẽ nào chúng ta không cảm thông và yêu thương nhau ? Tình yêu của Đức Giêsu có hai chiều kích : yêu Chúa Cha và yêu con người. Lẽ nào chúng ta là con người với nhau lại chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà không quan tâm đến nhau ?
Là một Thiên Chúa yêu thương, chắc chắn Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau, quan tâm đến nhau hơn là quan tâm đến Ngài. Tại sao ? Vì những người chung quanh chúng ta cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta hơn Ngài rất nhiều. Ngài là Thiên Chúa – Đấng không thiếu thốn sự gì và cũng không hề ích kỷ – Ngài không cần tình yêu và sự quan tâm của chúng ta cho bằng những người chung quanh đang chung sống với chúng ta. Tại sao chúng ta lại quá quan tâm đến Ngài mà bỏ rơi anh chị em mình ? Trong thực tế, chính khi ta yêu thương và quan tâm đến anh chị em mình, là chúng ta yêu mến Chúa. Nếu yêu mến Thiên Chúa thì hãy bắt chước Đức Giêsu : chẳng những chấp nhận chịu khổ để anh chị em mình đỡ khổ, mà còn trở nên “của ăn” cho anh chị em mình nữa.
3. Thánh Thể và chia sẻ
Với bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu trao ban trọn vẹn và hoàn toàn con người của Ngài cho chúng ta, để nhờ Ngài chúng ta được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời như Ngài quả quyết:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54).
Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi đã tự hủy mình đi để trở nên tấm bánh và ao ước được chúng ta ăn, để chúng ta được nên một với Ngài. Vì thế, trong một đoạn Tin mừng ngắn hôm nay, động từ “ăn” được lặp lại tới 9 lần.
Như vậy, “ăn và uống máu” Đức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế “chất tôi” thành “chất Ngài”, biến “tôi” thành “Ngài”.
Nói cách khác, đó là được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nên giống Đức Kitô mọi đàng để có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống nhưng không phải tôi mà là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Giống Đức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha nghĩa là trở nên “chiếc bánh bị ăn” (pain mangé) như Đức Giêsu (theo cách nói của cha Antôn Chevrier, tu hội Prado) để rồi mỗi người chúng ta sẽ trở nên “con người bị ăn thịt đi”(homme mangé) để phục vụ những người khác.
Truyện : Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình.
Trên bước đường lưu vong, trốn ra ngoài nước, công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, khổ sở, đói khát.
Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin. Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi. Bỗng Giới Tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng. Trùng Nhĩ ăn ngon lành ! Ăn xong, khoẻ khoắn liền hỏi Giới Tử Thôi :
– Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế ?
Giới Tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa :
– Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng : người hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng cho Công tử (Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324)
4. Thánh Thể và Thánh lễ
Đức Giêsu ví Thánh Thể như bàn tiệc thịnh soạn đã dọn sẵn, mời chúng ta đến tham dự, hoàn toàn miễn phí. Nhưng có những người đã từ chối lời mời gọi thân tình này, họ viện ra những lý nọ lẽ kia không chịu đến tham dự (x. Lc 14,16-24). Chúa mời gọi ta đến dự tiệc thánh là có ý tìm lợi ích cho linh hồn chúng ta : phép Thánh Thể Chúa lập ra là một bảo đảm ơn cứu chuộc như Ngài nói:”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54).
Chúa thiết tha mời ta tham dự Thánh lễ và rước lễ để được ơn phần rỗi, nhưng ngoài ra Ngài lại con răn đe :”Nếu các ngươi không ăn thịt Con người và uống máu Người, các ngươi không có sự sống nơi mình”(Ga 6,53). Chúa răn đe như vậy không có ý tìm lợi ích cho Ngài vì Ngài không còn thiếu gì nhưng cho chúng ta mà thôi.
Một lần thánh Phanxicô chầu Thánh Thể, được nghe tiếng Chúa hỏi :”Hỡi Phanxicô sao con mê Cha như điên như cuồng như vậy”? Thánh Phanxicô trả lời:”Lạy Chúa, xét về yêu, thì Chúa còn điên hơn con”.