PHỤNG VỤ LỜI CHÚA & BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT LÀ ĐƯỜNG LỐI TỐI ƯU
CỦA VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG VÀ THÁNH HÓA CÁC TÂM HỒN
VÀO ĐỀ
Nhiều người lầm tưởng rằng truyền giáo là việc làm chỉ nhằm các người ở bên ngoài Giáo Hội mà quên rằng, truyền giáo có ba đối tượng rất rõ ràng:
(a) Đối tượng thứ nhất là những người chưa biết, chưa tin Chúa,
(b) Đối tượng thứ hai là những người đã biết và tin Chúa nhưng đã bỏ Chúa và Giáo Hội,
(c) Đối tượng thứ ba là những người đang tin Chúa và đang giữ/sống Đạo, ở nhiều mức độ khác nhau.
Đối với những người đang tin Chúa và đang giữ/sống Đạo cũng có nhiều cách loan báo Tin Mừng và Phúc Âm hóa khác nhau như các lớp/khóa giáo lý, các buổi hội thảo, các ngày tĩnh tâm, linh thao, các cử hành Phụng Vụ và các bài giảng của các Thừa Tác Viên có chức thánh (hồng y, giám mục, linh mc, phó tế).
Trong bài này chúng ta sẽ đề cập đến Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và bài giảng Ngày Chúa Nhật nói riêng như là một Đường Lối Truyền Giáo và Thánh Hóa tối ưu của Giáo Hội.
TRÌNH BÀY
I. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ PHỤNG VỤ NÓI CHUNG VÀ PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NÓI RIÊNG
1.1 Của Công Đồng Vatican II:
Công đồng Vatican II đã dành một trong bốn Hiến Chế cho Phụng Vụ. Với Hiến Chế Sacrosantum Concilium (Phụng Vụ Thánh), Phụng Vụ của Giáo Hội đã được canh tân một cách toàn diện: từ qui định về Năm Phụng Vụ (A,B,C) và các bài Thánh Kinh được chọn đọc trong các ngày Lễ Chúa Nhật và ngày thường cho đến việc ấn định dùng tiếng địa phương và linh mục chủ tế đứng (ngồi) hướng về cộng đoàn trong cử hành.
Mục tiêu và ý nghĩa truyền giáo của Phụng Vụ cũng được Công Đồng nhấn mạnh đặc biệt ngay ở Lời Mở Đầu (1) của Hiến Chế khi đề cập đến “Vai trò của Phụng Vụ trong mầu nhiệm Giáo Hội”:
“Thật vậy, nhờ Phụng Vụ, nhất là trong hiến tế tạ ơn, mà “công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (2). Phụng Vụ góp phần rất nhiều để giúp các tín hữu đem cuộc sống mình diễn tả và biểu lộ cho những người khác mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Giáo Hội chân chính, một Giáo Hội có đặc tính vừa nhân loại vừa thần linh, vừa hữu hình vừa hàm chứa những thực tại vô hình, vừa nhiệt thành hoạt động vừa chiêm niệm, vừa hiện diện nơi trần gian nhưng đồng thời cũng là lữ khách. Tuy nhiên, trong Giáo Hội, yếu tố nhân loại cũng qui hướng và lệ thuộc vào yếu tố thần linh, những thực tại hữu hình phải qui hướng về những thực tại vô hình, những hoạt động phải hướng về việc chiêm niệm, và những gì hiện tại phải hướng về thành đô tương lai là nơi chúng ta đang tìm kiếm (3). Hằng ngày, Phụng Vụ kiến tạo những người bên trong Giáo Hội thành đền thánh trong Chúa, thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa trong Thánh Thần (4) để đạt tới mức sung mãn của Chúa Kitô (5). Nhờ đó, Phụng Vụ còn kiện cường sức lực cho họ cách lạ lùng để rao giảng Chúa Kitô; và như vậy Phụng Vụ cũng bày tỏ cho những kẻ bên ngoài thấy Giáo Hội như một dấu chỉ nêu cao trước mặt các dân nước (6) ngõ hầu con cái Thiên Chúa đang tản mác được qui tụ nên một (7) cho tới khi thành một đàn chiên theo một Chúa chiên (8)”.
1.2 Của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI:
“Việc rao giảng Tin Mừng này sẽ mặc nhiều hình thái khác nhau mà lòng nhiệt thành sẽ tạo nên cảm hứng một cách gần như bất tận. Quả thật có rất nhiều biến cố trong cuộc sống và hoàn cảnh con người tạo cơ hội cho việc loan báo – một cách kín đáo nhưng ấn tượng – điều mà Chúa cần nói trong hoàn cảnh ấy hay một hoàn cảnh đặc biệt nào khác. Chỉ cần có sự nhậy bén tâm linh để đọc ra sứ điệp của Thiên Chúa trong các biến cố. Nhưng vào lúc mà Phụng Vụ được canh tân bởi Công Đồng Vatican II đã đề cao giá trị của Phụng Vụ Lời Chúa thì sẽ là thiếu sót lớn nếu không nhận ra bài giảng là một công cụ có khả năng và rất dễ thích nghi cho việc loan báo Tin Mừng. Chắc hẳn cần phải công nhận và tận dụng những đòi hỏi và những tiềm năng của việc giảng để bài giảng đạt được tất cả tính hiệu quả về mục vụ. Nhưng nhất là phải xác tín về giá trị của bài giảng và thực hiện bài giảng ấy với lòng yêu mến.
“Bài giảng kín múc sức mạnh và cường độ từ cử hành Thánh Thể. Vì được nối kết với cử hành Thánh Thể một cách “có một không hai”, bài giảng chắc chắn đóng một vai trò đặc biệt trong công cuộc loan báo Tin Mừng nếu bài giảng diễn tả niềm tin sâu sắc của thừa tác viên và được đượm thấm tình yêu. Các tín hữu tập hợp thành Hội Thánh của Lễ Vượt Qua, cử hành Lễ của Chúa là Đấng hiện diện ở giữa họ, chờ đợi rất nhiều ở bài giảng và sẽ hưởng lợi rất nhiều từ bài giảng nếu bài giảng được giảng một cách đơn sơ, rõ ràng, trực tiếp, thích ứng với hoàn cảnh, gắn liền với Giáo Huấn Phúc Âm và trung thành với Quyền Giảng Dạy của Giáo Hội, được linh động bởi lòng nhiệt thành tông đồ, chan chứa niềm hy vọng, làm nẩy sinh bình an và hợp nhất. Nhiều cộng đoàn giáo xứ và cộng đoàn khác sống và được liên kết với nhau nhờ có bài giảng ngày Chúa Nhật khi bài giảng ấy có được những phẩm chất kể trên.
“Chúng ta nên thêm rằng: nhờ có canh tân phụng vụ mà việc cử hành Thánh Thể không phải là thời gian duy nhất thích hợp cho bài giảng. Bài giảng có tầm quan trọng riêng, nên không được coi nhẹ bài giảng trong các cử hành các bí tích, hoặc trong các cử hành á phụng vụ, trong các cuộc tập hợp của các tín hữu. Bài giảng luôn là cơ hội đặc biệt cho việc thông chuyển Lời Thiên Chúa” (9).
II. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA NÓI CHUNG VÀ BÀI GIẢNG NGÀY CHỦ NHẬT NÓI RIÊNG ĐỐI VỚI GIÁO DÂN VIỆT NAM
2.1 Từ những giáo huấn trên của Công đồng Vatican II và của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chúng ta có thể rút ra một số điểm then chốt về Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và về bài giảng Ngày Chúa Nhật nói riêng:
(a) Phụng Vụ nói chung và Phụng Vụ Lời Chúa nói riêng ngoài mục đích chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa còn nhắm xây dựng con người Kitô hữu, giúp họ trở nên người tín hữu trưởng thành và người chiến sĩ trên cánh đồng truyền giáo.
(b) Bài giảng có tầm quan trọng đặc biệt – có thể nói là không thể thiếu – trong Phụng Vụ Lời Chúa và trong cử hành các Bí Tích, để giúp đỡ các tín hữu có hiểu biết, yêu mến và thực hành Phúc Âm trong đời sống cá nhân cũng như cộng đồng xã hội.
(c) Bài giảng, nhất là của Ngày Chúa Nhật, phải đạt một số yêu cầu để có thể đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng cho người nghe giảng, như:
– Bài giảng phải diễn tả niềm xác tín của thừa tác viên có chức thánh (hồng y, giám mục, linh mục hay phó tế).
– Lời lẽ của bài giảng phải đơn sơ, rõ ràng và dễ hiểu, không cầu kỳ, cao xa và phô trương.
– Bài giảng phải là lời của người giảng trực tiếp nói với người nghe là các tín hữu là anh chị em của mình trong gia đình Chúa là Giáo Hội.
– Bài giảng phải phù hợp với người nghe (trình độ văn hóa và đức tin, nhận thức về Đạo cũng như về Đời, nhu cầu tâm linh, vấn đề khúc mắc) hầu nâng cao dần dần hiểu biết, kinh nghiệm sống Đức Tin của những người ấy.
– Bài giảng phải thấm nhuần Giáo Lý Phúc Âm, trung thành với sự giảng dậy của Giáo Hội ngày hôm nay.
– Bài giảng phải có sức đốt cháy các tâm hồn bằng lửa yêu mến Chúa và đem lại bình an và hy vọng cho các tâm hồn, nhất là cho các tâm hồn sầu khổ vì yếu đuối, tội lỗi hay gặp khó khăn thử thách.
2.2 Nói chung người giáo dân Việt Nam ít học, đời sống vất vả, không có thời giờ học hỏi, đào sâu Giáo Lý, Thánh Kinh. Do đó việc giáo dục đức Tin cậy dựa rất nhiều vào các bài giảng của linh mục chánh phó xứ. Nhưng nếu theo những tiêu chuẩn vừa nêu trên về Phụng Vụ Lời Chúa nói chung và về các bài giảng Chúa Nhật nói riêng chúng ta sẽ phải đau lòng nhìn nhận rằng:
* Có nhiều buổi Phụng Vụ Lời Chúa không chu toàn được vai trò mà Công Đồng đã đưa ra. Bằng chứng là rất nhiều người giáo dân không tấn tới về mặt tâm linh và không thay đổi cách sống đức tin dù họ dự lễ và nghe giảng hằng tuần.
* Có nhiều bài giảng chỉ là những lời “trống rỗng”, không hồn, thiếu lửa, nhưng lại đầy cái “tôi” của người giảng.
* Có nhiều bài giảng khiến người nghe có cảm tưởng không được chuẩn bị nghiêm túc, gặp đâu nói đó hay nhai đi nhai lại những điều sáo
* Thậm chí có một số bài giảng đã bị biến thành diễn đàn để xỉ vả và làm nhục những “con chiên” đã dám làm phật lòng, trái ý “chủ chăn”.
2.3 Nhận định trên không chỉ là của nhiều giáo dân mà còn là sự thú nhận của nhiều linh mục. Trong một đợt thường huấn linh mục của một giáo phận nọ của Việt Nam, ban thư ký đã đúc kết buổi trao đổi liên quan đến bài giảng như sau:
“Bị cám dỗ truyền ban một kiến thức hơn là rao truyền Lời Chúa. Do đó bài giảng thiếu cái hồn của Tin Mừng. Ngoài ra bài giảng còn thiếu chuẩn bị và nội dung bài giảng thường đặt nặng luân lý, sửa lỗi hơn là đào sâu để khám phá nội dung chủ yếu của Lời Chúa. Có khi người linh mục nại đến không có giờ, nhu cầu giáo dân thì nhiều, công việc quá bận rộn, nên việc chuẩn bị cho bài giảng quá lơ là” (10).
THAY LỜI KẾT
Theo truyền thống, Giáo Hội Việt Nam luôn đề cao việc cử hành và tham dự Bí Tích. Điều này rất đúng với Giáo Lý, vì Bí Tích và Phụng Vụ có tính sống còn đối với Cộng đoàn Hội Thánh.
Nhưng trong thực tế thì việc cử hành Phụng Vụ Lời Chúa và việc giảng dạy Lời Chúa lại chưa được hàng ngũ Thừa Tác Viên có chức thánh coi là nhiệm vụ SỐ MỘT của mình. Đã đành rằng hàng ngày có một cử hành Phụng Vụ Lời Chúa mà phải làm sao cho sốt sáng và hữu ích cho giáo dân, không phải là việc dễ dàng. Cũng thế mỗi tuần phải soạn một hay nhiều bài giảng đạt yêu cầu cũng không phải là công việc đơn giản. Có lẽ đây là một gánh nặng của các linh mục mà ít người giáo dân ý thức và cảm thông. Nhưng về phía các linh mục có lẽ các cha cũng nên tự hỏi: Có công việc nào mà mình có thể và nên giao cho giáo dân làm không, để mình có nhiều thời gian hơn cho NHỮNG ƯU TIÊN HÀNG ĐẦU trong mục vụ? Nếu giáo dân thông cảm hơn với những khó khăn của linh mục và đồng thời các linh mục cũng biết san sẻ một số công việc cho giáo dân, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn và các buổi Phụng Vụ Lời Chúa và bài giảng sẽ chất lượng và bổ ích hơn cho người tham dự và lắng nghe với lòng khao khát.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Garden Grove (CA/USA) ngày 12.11.2006
…………………….
Ghi chú:
(1) Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, số 2,
(2) Kinh Dâng lễ Chúa Nhật thứ 9 sau lễ Hiện Xuống.
(3) Xem Dt 13,14.
(4) Xem Ep 2,21-22.
(5) Xem Ep 4,13.
(6) Xem Is 11,12.
(7) Xem Ga 11,52.
(8) Xem Ga 10,16
(9) Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, 43.
(10) Xem Bản đúc kết thường huấn linh mục của giáo phận X., tháng 10.2003.