“Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào
được chấp nhận tại quê hương mình”.
(Lc 4,24)
BÀI ĐỌC I: 2 V 5, 1-15a
“Có nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: “Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi”. Naaman đến tâu vua rằng: “Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này”. Vua xứ Syria liền nói: “Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ”. Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua Israel bức thơ nội dung như sau: “Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông khỏi phong cùi”.
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: “Ta có phải là Chúa, có thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa lành phong cùi ? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó”. Khi Êlisêô, người của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người đến tâu vua rằng: “Tại sao nhà vua lại xé áo ? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ biết trong Israel có một vị tiên tri”.
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: “Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch”. Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: “Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Đamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao ?” Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: “Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: ‘Hãy đi tắm, thì được sạch’ “. Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel”.
ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời ?
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! – Đáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời ? – Đáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. – Đáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. – Đáp
TIN MỪNG: Lc 4, 24-30
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình.
Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà góa ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi.
Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
ĐÓN NHẬN HAY CHỐI TỪ?
“Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc 4,24)
Suy niệm: Người dân làng Na-da-rét tự mâu thuẫn khi đứng trước con người Đức Giê-su. Một mặt, họ chẳng lạ gì “con bác thợ” vốn xuất thân từ làng quê của họ, vì thế họ không chấp nhận thiên tính ẩn giấu nơi Ngài. Ngược lại, với đầu óc vụ lợi, họ chỉ chấp nhận lời tiên báo về Đấng Mê-si-a là “ứng nghiệm” nơi Đức Giê-su nếu Ngài cũng làm tại quê nhà những phép lạ như đã làm tại Ca-phác-na-um. Cái nhìn thành kiến và lòng ham muốn lợi lộc thế gian này, là những biểu hiện của não trạng thế tục, khiến họ không thể có lòng tin. Do đó, “Chúa không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58; x. Mc 6,5-6).
Mời Bạn: Đức Giê-su Ki-tô, “vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng đã từ bỏ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” để đón nhận thân phận con người (x. Pl 2,6). Thế nhưng Ngài lại bị chối từ bởi chính “người nhà”, người đồng hương với Ngài (x. Ga 1,11). Đối diện với Lời Chúa, chúng ta được đặt trước sự lựa chọn: hoặc chối từ tinh thần thế tục để đón nhận Chúa hoặc ngược lại. Và muốn đón nhận Chúa, bạn phải đón nhận Ngài bằng cách đón nhận tha nhân. Điều đó có nghĩa là bạn cần xoá bỏ những thành kiến của bạn đối với bất cứ ai và sẵn sàng từ bỏ lợi ích riêng mình để dấn thân phục vụ Chúa nơi tha nhân.
Sống Lời Chúa: Tham gia vào một hoạt động chung trong cộng đoàn nhằm đem lại ích chung cho nhiều người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin giúp con loại bỏ cái nhìn thành kiến về Chúa và người khác, và tẩy sạch lòng tham lam ích kỷ nơi con, để con khiêm tốn đón nhận Chúa nơi anh chị em và phục vụ họ như phục vụ Chúa. Amen.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
Thứ hai Tuần III Mùa Chay
Lc 4, 24-30
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen. Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương. Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng. Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum. Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” .
Người Do Thái có lòng tự hào dân tộc rất cao và lòng tự hào này có gốc rễ tôn giáo sâu xa. Họ ý thức mình là dân của Chúa, được Chúa chọn riêng. Đối với họ, không một dân tộc nào được chia sẻ ân huệ của Thiên Chúa như đã ban cho dân tộc họ. Họ độc quyền đối với ơn Chúa. Vì thế họ cũng rất đau về những trường hợp mình bị cho ‘ra rìa’ – như điều đã xảy ra thời Ê-li-a và thời Ê-li-sa. Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa. Bà này là một người dân ngoại. Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman. Ông này cũng là người dân ngoại.
Đức Giêsu nhắc lại những chuyện này làm họ không vui. Họ càng không vui, thậm chí phẫn nộ, vì Đức Giêsu hàm ý rằng họ đang bị cho ‘ra rìa’ một lần nữa, do chính họ bưng tai bịt mắt trước những lời nói và hành động cứu độ của Ngài.
Bi kịch của người Do Thái là bài học lớn cho chúng ta, những Kitô hữu hôm nay: Chúa ban cơ hội cách hào phóng, nhưng không phải ai cũng tận dụng được cơ hội trong tầm tay mình. Kẻ đi trước có khi phải về sau; kẻ ở trong đôi lúc hoá thành người ngoài! Người ta bắt hụt ‘chuyến tàu’ vì không chịu nổi sự quấy rầy của những tiếng nói ngôn sứ, của chính lương tri mình; và vì người ta tìm mọi cách dập tắt những tiếng nói ấy đi.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
XIN CHÚA HƯỚNG DẪN CHỈ HUY
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 3 Mùa Chay này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa hằng thương thanh tẩy và giữ gìn Hội Thánh, vì nếu Chúa không hướng dẫn chỉ huy, Hội Thánh không thể nào đứng vững.
Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Xuất Hành đã tường thuật lại Thiên Chúa đã hướng dẫn chỉ huy ông Môsê qua việc: Thiên Chúa đã cho ông Môsê được nghe tiếng Người, đã dẫn ông vào trong đám mây. Khi ông giáp mặt, Người ban cho ông các điều răn, ban Lề Luật giúp cho được sống và thông hiểu, để dạy Giacóp tuân giữ giao ước, và dạy Ítraen biết thánh chỉ của Người.
Nếu Chúa không hướng dẫn chỉ huy, thì chúng ta không thể nào đứng vững được, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Baxiliô Cả đã lặp lại lời của thánh Phaolô: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa. Chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không còn tin tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. Chính Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế; Người là Đấng chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Các Vua quyển thứ hai cho thấy: Ông Naaman, tướng chỉ huy quân đội của vua Aram, là người có thần thế và uy tín trước mặt chúa thượng của ông. Vậy mà, ông lại quy phục Thiên Chúa của Ítraen, sau khi được chữa cho khỏi bệnh phong, và ông đã tuyên xưng cách mạnh mẽ: Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ítraen. Chính vì thế, Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Có nhiều người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng, không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi.
Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn chỉ huy mọi sự, cho nên, chúng ta phải luôn hướng nhìn về Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 41, vịnh gia đã bày tỏ ước mong của mình: Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan? Xin Ngài thương sai phái ánh sáng và chân lý của Ngài, để soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên đền Ngài ngự. Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy nỗi khát khao của những ai muốn tìm nương tựa nơi Chúa: Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người; bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Trong bài Tin Mừng, thánh Luca cho thấy ơn cứu độ là phổ quát, điều này được Đức Giêsu chứng minh, khi Người trưng dẫn những việc ông Êlia và ông Êlisa đã làm cho dân ngoại. Khi nghe Đức Giêsu nói như thế, những người trong hội đường đầy phẫn nộ, họ muốn đẩy Chúa xuống vực, họ muốn độc quyền ơn cứu độ, họ muốn thực hành một thứ tôn giáo theo ý họ, chứ không theo thánh ý Chúa.
Thiên Chúa mới là Đấng hướng dẫn chỉ huy mọi sự, là thợ gốm, còn, chúng ta là đất sét trong tay thợ gốm, vậy mà, chúng ta muốn tiếm quyền Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn biết tuân theo sự hướng dẫn của Chúa, để chúng ta có thể đứng vững giữa biết bao khó khăn thử thách của cuộc sống này. Ước gì chúng ta hướng nhìn về Chúa như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ. Ước gì được như thế!
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CHÚA BỊ QUÊ HƯƠNG TỪ CHỐI
1.Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nazareth ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2.“Tôi bảo thật các ông…”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
Gần chùa gọi bụt bằng anh.
Bụt nhà không thiêng.
Quen quá hoá nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3.“Thật vậy, tôi nói cho các ông hay…”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
– Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà goá nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
– Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4.“Ơn cứu độ được dành cho mọi người”
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông, để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5.Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài, khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau… mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6.Truyện: Sư huynh hỗn xược
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement Chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Vị thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.
Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa ? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế ?
… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng: sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh… thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các sư huynh… để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
E/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
ĐỨC TIN LÀM NÊN ĐIỀU KỲ DIỆU
Hôm ấy, một bầy ếch đang đi dạo trong rừng thì có hai con bị rơi xuống hố. Tất cả các con ếch còn lại đều bu quanh miệng hố để kéo chúng lên. Nhưng khi thấy cái hố quá sâu, cả bầy liền nói với hai con ếch rằng chúng chỉ còn nước chết mà thôi.
Hai con ếch bỏ ngoài tai những lời đó và cố hết sức nhảy lên khỏi hố. Những con ếch kia lại nói với chúng đừng nên phí sức, rằng chúng chỉ còn nước chết.
Sau cùng, một con ếch phía dưới bỏ cuộc và ngã lăn ra chết trong sự tuyệt vọng. Con ếch còn lại tiếp tục cố gắng nhảy. Một lần nữa cả bầy xúm lại và thét lên khuyên nó hãy thôi. Nó càng nhảy mạnh hơn nữa. Cuối cùng nó nhảy được lên bờ. Cả bầy vây quanh và hỏi nó: “Anh không nghe tụi tôi nói gì hay sao?”. Thì ra con ếch này bị nặng tai. Nó tưởng cả bầy ếch đã động viên nó suốt khoảng thời gian vừa qua.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy sự kỳ diệu của lòng tin, lòng tin phát sinh sức mạnh, lòng tin dẫn tới sự sống. Các bài đọc Lời Chúa ngày thứ Hai, tuần Ba, hôm nay, cũng muốn gợi lên cho chúng ta suy nghĩ về lòng tin của mình.
Bài đọc trích Sách Các Vua quyển thứ 2, nói về Naaman- một đại tướng của vua Aram bị bệnh phong hủi, ông đã chạy chữa đủ cách đủ thầy mà không khỏi. May thay có một cô ôsin mách nước “đến gặp vị ngôn sứ ở Israen, thì chắc chắn ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh”. Ông đã nghe lời, tìm gặp và làm theo lời ngôn sứ dạy nhờ thế ông được lành sạch.
Nói như vậy không có nghĩa là con đường đi đến Đức tin của đại tướng Naaman này quá dễ dàng đâu! Ở vào vị thế tướng lãnh của ông mà bây giờ đi nghe lời một đứa ở trong nhà, thật không dễ. Nhưng ông đã nghe theo và cất công lên đường, dù đường xa, nguy hiểm. Ông phải trình diện vua Israen, rồi lại phải tìm đến ngôn sứ Elia. Vậy mà vị ngôn sứ không đích thân ra đón tiếp ông, mà chỉ sai người nói rằng: hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan thì ông sẽ được sạch. Trong hoàn cảnh đó chúng ta dễ thông cảm cho thái độ nổi giận, tức tối bỏ đi của viên đại tướng này, đúng như ông nói: “Ta nghĩ cứ nghĩ bụng là thế nào vị ngôn sứ ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ giơ tay đụng chỗ phong hủi mà chữa khỏi. Nước các sông ở Avana và Pácpa ở Đamát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israen sao? Ta lại không tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?
Đó! Chúng ta thấy, để thực sự tin Thiên Chúa đang hiện diện, tin Lời Thiên Chúa, tin vào hành động của Thiên Chúa đối với ông Naaman không hề dễ dàng, nhưng đầy gian nan, thử thách, nó trái hẳn với những suy luận theo lẽ tự nhiên. Ấy thế mà, ông đã không ngã lòng bỏ cuộc, ông tin vào Thiên Chúa, và làm đúng như lời Thiên Chúa dạy qua miệng ngôn sứ, kết quả: ông đã được lành sạch.
Phải chăng những gian nan, thử thách cũng sẽ xảy đến trên hành trình đức tin của chúng ta? Với những lý luận: Đạo nào cũng tốt. Cứ ăn ngay ở lành là được rồi, việc gì phải gia nhập Giáo hội Công giáo làm gì? Hiện nay, có những gia đình hôn nhân khác đạo, thì việc giữ đạo và cho con cái gia nhập Đạo thực sự là một vấn đề khó khăn. Vợ chồng con cái yêu thương nhau, chung sống an hòa với nhau được rồi, con cái còn nhỏ biết cái gì mà bắt nó chịu Đạo, để khi lớn nó tự quyết. Đó thật là lối suy nghĩ của những người không có đức tin. Họ đâu biết rằng Bí tích Thánh tẩy vô cùng cần thiết cho việc cứu rỗi mà Chúa đã dạy: “Ai tin và chiụ phép rửa thì được cứu rỗi. Ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16).
Thực tế, bố mẹ thương yêu con thì chăm cho con ăn uống, tắm rửa, lúc con đau ốm thì thuốc thang chạy chữa, bố mẹ cũng dạy cho con nói tiếng mẹ đẻ ngay từ bé… Chẳng có bố mẹ nào ngồi đợi cho con lớn lên để hỏi xem chúng có bằng lòng không. Thế thì đời sống đức tin cũng cần được nuôi dưỡng vun trồng từ thuở ấu thơ, để nhờ ân thánh Chúa trợ giúp mà vươn lên tốt lành, hạnh phúc ngay ở đời này và được hạnh phúc viên mãn.
Đàng khác, ngày nay vẫn còn một số người duy lý, chỉ tin có Chúa khi tận mắt nhìn thấy Chúa như Tôma. Trong khi đó họ quên lời Chúa xác quyết: Phúc cho ai không thấy mà tin. Thành ra, không thấy mà tin không phải là mù quáng. Bởi lẽ, con người hữu hạn không thể nào hiểu biết trọn vẹn về Đấng Tuyệt Đối được. Cho nên, đức tin thì vượt trên lý lẽ: không phải ta thấy rồi mới tin, nhưng ta tin để có thể nhìn thấy những điều mắt phàm không thấy. Thực ra, ngay trong đời sống tự nhiên có nhiều cái chúng ta không nhìn thấy. Nhưng phải tin thôi, không tin là chết. Chẳng hạn, chúng ta không thấy dòng điện chạy trong dây điện, nhưng chính dòng điện này làm cho quạt quay, làm cho bóng đèn sáng, nếu không tin, ta sờ vào dây điện thì chết ngay; cũng vậy ta không nhìn thấy khí ôxi, nhưng thực sự có khí ôxi mà ta đang hít thở thoải mái, những người ốm nặng không tự hít thở ôxi được, thì cần đến máy trợ thở, nếu không sẽ chết. Rất thực tế, chúng ta ở trong ngôi thánh đường này, đang ngồi trên ghế, đang sử dụng đèn, quạt, micrô… dù chúng ta không nhìn thấy không biết ai làm ra, nhưng chúng ta phải tin chắc chắn rằng có người đã làm ra chúng. Nhờ tin như thế mà ta luôn sống trong an vui, hạnh phúc và biết ơn…
Trong đời sống tâm linh, Chúa cũng đang đồng hành trong mọi vui buồn của chúng ta, dù chúng ta không thấy Ngài. Thử nghĩ lại xem chúng ta đã lãnh nhận muôn vàn hồng ân, chúng ta đã thắng vượt muôn vàn gian khó, chúng ta có thể sống tha thứ, bác ái, yêu thương mọi hạng người là nhờ ơn Chúa đó, và vì Chúa mà ta mới có thể làm được như vậy.
Chúa ơi, cho con nhìn thấy bước Ngài đang đến trong đời con, dưới ngàn hình dong dáng vẻ, Chúa vẫn hiện diện lặng lẽ trong đời, như tấm bánh nơi Nhà tạm đơn sơ, như nơi những kẻ đói nghèo bơ vơ.
Chúa hẹn gặp con, Chúa chờ đợi con qua bao biến cố buồn vui, qua những lo toan đời thường, qua ngàn sầu thương vấn vương. Ước gì con trông thấy Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi. Ước gì con không bỏ rơi cơ hội đến trong từng ngày để được gặp Chúa trên muôn nẻo đời.