• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật VI Phục Sinh – Năm C

Ngày Đăng: 23/02/2024
Trong Mùa Chay - Phục Sinh
“Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

Bài Ðọc I: Cv 15, 1-2. 22-29

“Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có mấy người từ Giuđêa đến dạy bảo các anh em rằng: “Nếu anh em không chịu cắt bì theo luật Môsê, thì không được cứu độ”. Do đó, Phaolô và Barnaba đã tranh luận gắt gao với họ. Bấy giờ người ta quyết định là Phaolô, Barnaba và một ít người khác thuộc phe họ, lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và niên trưởng, để xin giải quyết vấn đề này.
Bấy giờ các Tông đồ, kỳ lão, cùng toàn thể Hội thánh chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em. Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thơ viết như sau:
“Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an”

Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5-6 và 8

Ðáp: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài (c. 4).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Xin Thiên Chúa xót thương và chúc phúc lành cho chúng con, xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
Xướng: Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
Xướng: Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.

Bài Ðọc II: Kh 21, 10-14. 22-23

“Người chỉ cho tôi thấy thành thánh do Thiên Chúa từ trời gởi xuống”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Thiên Thần đem tôi lên một núi cao chót vót khi tôi ngất trí, và chỉ cho tôi thấy thành thánh Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Ánh sáng của nó toả ra như đá quý, giống như ngọc thạch, óng ánh tựa pha lê. Thành có tường lũy cao lớn, trổ mười hai cổng, trên các cổng có mười hai thiên thần, và có khắc tên mười hai chi họ con cái Israel. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, Phía nam có ba cổng, và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai móng có khắc tên mười hai tông đồ của Con Chiên. Còn đền thờ, tôi không thấy có trong thành, vì Thiên Chúa toàn năng và Con Chiên là đền thờ của thành. Thành không cần mặt trời, mặt trăng chiếu soi: vì đã có vinh quang Thiên Chúa chiếu sáng nó, và đèn của nó chính là Con Chiên.

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.

Tin Mừng: Ga 14, 23-29

“Thánh Thần sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời các con nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Ðấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Ðấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin”.

 

SUY NIỆM

A/ 5 phút Lời Chúa
B/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
THỜI ĐẠI CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Do Thái giáo được so sánh như một cây cổ thụ, và Kitô giáo là nhánh chồi non mọc lên từ cây cổ thụ đó. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Ngài đã có ý định thiết lập Giáo Hội từ ngàn xưa, khi Ngài tạo dựng đất trời. Trong lịch sử, Ngài đã chuẩn bị một dân. Từ dân riêng đó, Đấng Cứu độ là Đức Giêsu đã xuất hiện. Vị Ngôn sứ thành Nagiarét đã quy tụ những người tin vào Người và lập nên Giáo Hội. Trước khi về trời, Đức Giêsu hứa sẽ xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ đến hướng dẫn Giáo Hội. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Thánh Thần đã đến với Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần. Đây là khởi điểm thời đại của Giáo Hội, cũng là thời đại của Chúa Thánh Thần.
Trước cuộc khổ nạn và Phục sinh, Chúa Giêsu chỉ hiện diện nơi vùng đất xứ Galilêa. Khi đã về trời, Người lại hiện diện cách huyền nhiệm và thiêng liêng ở bất cứ nơi nào có cộng đoàn tín hữu, như Người đã hứa: “Này đây Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Như vậy, nếu Chúa Giêsu không hiện diện hữu hình nơi trần thế, thì Giáo Hội là chính sự hiện diện của Người. Nói cách khác, Giáo Hội chính là hiện thân của Chúa, làm cho sự hiện diện của Người lan rộng. Qua Giáo Hội, Chúa Giêsu không còn hiện diện ở một nơi nào cố định, mà Người hiện diện trên toàn thế giới.
Các tông đồ ngay từ thuở Giáo Hội sơ khai đã ý thức được vai trò của Chúa Thánh Thần. Ngài hoạt động giữa các ông. Bài Sách thánh thứ nhất trích sách Công vụ Tông đồ kể lại cuộc gặp mặt quan trọng quy tụ các tông đồ. Cuộc gặp mặt này được gọi là Công đồng Giêrusalem, tức là cuộc họp chính thức đầu tiên của Kitô giáo. Được tổ chức vào khoảng năm 46, với mục đích giải quyết những vấn nạn liên quan đến việc các tín hữu gia nhập Giáo Hội. Thời đó, có những tranh cãi giữa các tín hữu và ngay cả giữa các tông đồ. Có người chủ trương phải cắt bì và tuân giữ Luật Môisen. Kết quả của cuộc tranh luận này được ghi ngắn gọn: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác, ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn máu, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. “Văn kiện” của Công đồng đầu tiên của Giáo Hội ngắn gọn đơn sơ là thế, mà đánh dấu một bước tiến mới quan trọng: Giáo Hội Kitô như một mầm non tách khỏi cây cổ thụ Do Thái giáo để từ nay từng bước độc lập về hệ thống giáo lý cũng như về cơ cấu tổ chức. Đức tin Kitô giáo vẫn dựa nền tảng trên giáo huấn của Cựu ước, nhưng được canh tân đổi mới theo giáo huấn của Chúa Giêsu và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngôi Ba Thiên Chúa hiện diện như linh hồn của Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần mà cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi lớn mạnh nhanh chóng.
Ngày lễ Ngũ Tuần khai mở thời đại của Chúa Thánh Thần, cũng là thời đại của Giáo Hội. Bởi lẽ Chúa Thánh Thần hoạt động thúc đẩy mỗi thành viên của Giáo Hội. Nhờ sức mạnh của Ngài mà người tín hữu can đảm tuyên xưng Đức tin, làm chứng cho Đức tin dù có phải đổ máu. Cùng với Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã ban cho các môn đệ bình an của Người. Bài Tin Mừng Thánh Gioan ghi lại tâm tình thương mến của Chúa Giêsu đối với các môn đệ. Những tâm tình thật thắm thiết và thiêng liêng. Người căn dặn các ông đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi, “vì Thầy đi và Thầy sẽ đến cùng anh em”. Đó cũng là những tâm tình Chúa Giêsu dành cho chúng ta, là những môn đệ của Người sau hai mươi thế kỷ. Bởi lẽ chúng ta cũng được mời gọi mạnh dạn làm chứng cho Chúa qua việc thực thi giáo huấn của Người. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho chúng ta, để nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy. Mỗi tín hữu đều được trao sứ mạng loan truyền Đức Giêsu Phục sinh. Vì vậy, thời của Giáo Hội và cũng là thời của chúng ta, vì chúng ta làm thành Giáo Hội. Mỗi người đều là chi thể của thân thể, là Giáo Hội có Chúa Giêsu là Đầu.
“Ai yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Được Chúa Cha và Chúa Con hiện diện trong tâm hồn, đó là vinh dự lớn lao đối với người tín hữu. Vinh dự này là kết quả đến từ lòng mến Chúa. Lòng mến ấy được chứng minh qua cố gắng nỗ lực thực thi lời Chúa dạy. Hạnh phúc của những ai mến Chúa không chỉ ở đời này, mà còn tồn tại vĩnh viễn trong thế giới mai sau. Thánh Gioan tông đồ trong thị kiến đã thấy thiên đàng. Nơi đây không còn cần đến ánh sáng vật chất của mặt trời và mặt trăng, vì vinh quang Thiên Chúa toả rạng và Chiên Con là ngọn đèn chiếu soi”. Người công chính sẽ được chia sẻ vinh quang Thiên Chúa. Họ sẽ trở nên bất tử, như Thiên Chúa, và được cùng sống mãi mãi với Ngài.
C/ Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
SỰ HIỆN DIỆN LIÊN TỤC CỦA CHÚA GIÊSU
1. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đừng bối rối trước viễn ảnh ra đi của Ngài (c.1): Chúa Cha sắp gởi đến cho họ một đấng phù trợ khác trong ngôi vị Thánh Thần (c.16-17); còn Ngài, Ngài sắp trở lại với họ dưới một hình thức mà thế gian không thấy, nhưng những ai tin vào Ngài mới thấy (c.18-21).
Việc Thiên Chúa đến ở đây khác xa với suy nghĩ của những người Do thái cũng như của các môn đệ. Được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện Cựu ước, các thị kiến tiên tri, các quang cảnh có tính cách Khải huyền, họ mơ đến một cuộc thần hiện dị thường, chói lòa vinh quang Thiên Chúa (Is 60), một cuộc phán xét toàn diện chấm dứt dòng lịch sử để thiết lập vương quyền Thiên Chúa và các thánh (Đn 7). Giuda bày tỏ sự ngạc nhiên của tất cả các môn đệ: “Thưa Ngài tại sao có thế này: là Ngài chỉ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?” (c.22). Ông ta mơ đến một cuộc hiển hiện khả giác. Ông không hiểu rằng việc Chúa Giêsu và thánh linh chỉ được nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, câu trả lời của Chúa Giêsu (c.23) như bất biết câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuda. Thực ra Ngài trực tiếp trả lời câu hỏi đó, khi loan báo sự mạc khải mầu nhiệm của Ngài và nói lên nguyên nhân khiến thế gian không hiểu được mạc khải ấy. Ngài bỏ qua mọi viễn tượng cánh chung, để chỉ nói việc Thiên Chúa đến trong Giáo hội và trong thời gian. Đó là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ được đưa vào nhân câu hỏi của Giuda.
Để tiếp đón Thiên Chúa, phải tin nhận lời Ngài và đáp trả bằng tình yêu. Tất cả truyền thống Thánh kinh đã tuyên bố như vậy. Biết Thiên Chúa là có tương quan với Ngài trong nội tâm và tình yêu. Tám thế kỷ trước Chúa Giêsu, Hôse đã loan báo sự cứu độ Israel như là cuộc đính hôn và biểu thị đặc tính của nó bằng sự “nhận biết” Thiên Chúa: “Ta sẽ đính hôn với ngươi muôn thuở, cưới ngươi trong công bình, chính trực, dịu hiền và yêu mến; Ta sẽ đính ước với ngươi trong chung thủy, và ngươi sẽ biết Giavê” (Os 2,20-22). Theo kiểu nói phúc âm, các môn đệ biết rằng yêu Chúa Giêsu đầu tiên cốt tại “giữ lời Ngài” (c. 15 và 21), nghĩa là nhận ra trong sứ điệp của Ngài những đòi hỏi và những ân huệ của tình yêu Thiên Chúa và đáp trả bằng sự dấn thân cả đời sống cách đích thực và quảng đại.
Đối với những ai yêu Ngài như thế, Chúa Giêsu hứa hẹn rất tuyệt diệu Ngài không nói đến tình yêu mà NGÀI đương nhiên dành cho họ, nhưng Ngài loan báo cho họ tình yêu và hồng ân kỳ diệu của Chúa Cha: đó là cùng với Chúa Con (c.18-21), chính Chúa Cha sẽ đến? với các tín hữu. Các Ngài sẽ đến cư ngụ trong họ như trong đền thờ của mình (x.4,21-24).
2. Cựu ước đã biết việc Thiên Chúa đến, ví dụ việc Ngài đến thăm Abraham dưới cây sồi Membré (St 18,1-15), nhưng đó chỉ là một sự gặp gỡ tạm thời dưới hình dáng bên ngoài. Các tiên tri đã loan báo một cuộc thần hiện vinh quang vào thời cánh chung (Is 60), nhưng sự thể hiện kỳ diệu này không để chỗ cho sự thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và tín hữu Ngài, với lại không có vấn đề cho cuộc sống này. Còn Chúa Giêsu hứa ban cho các người của Ngài, ngay từ đời này, được kết hợp thân mật cá vị với Thiên Chúa trong chốn sâu thẳm của đời sống Ba Ngôi. Ngài không dùng chữ “tỏ mình” nữa (c.21) vì trong câu hỏi của Giuda, chữ đó dễ gây hiểu lầm (c.22). Việc Thiên Chúa đến mà Ngài loan báo vượt lên trên tất cả những mơ tưởng của Do thái giáo và những kỳ vọng của các tiên tri: đó là sự hiện diện trực tiếp của chính Thiên Chúa trong nội tâm và tình yêu; lời hứa tuyệt vời của phúc âm là vậy.
Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c.24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3,31-34; 5,37-38; 7,16-17; 8,47; 12,48-50).? đây, Giuda tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1,9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14,19).
Đã có một thời gian Chúa Giêsu hiện diện cách hữu hình với môn đệ; họ có thể nghe lời Ngài qua giác quan (c.25). Nhưng bây giờ thời gian này không còn nữa, và phục sinh sắp mở đầu một thời gian mới trong đó tương quan giữa thày và trò thay đổi cách thức (Lc 24,44). Sự lưu truyền lời Chúa phán trong cuộc đời tại thế vẫn còn. Và chính sự lưu truyền này phát sinh ra phúc âm. Tuy nhiên nó sẽ được đổi mới hoàn toàn.
3. Thật vậy, sự lưu truyền lời Chúa Giêsu trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, một việc sưu tập những lời cổ kính, bởi lẽ chính Thánh Thần làm nên sự lưu truyền này (c.26). Theo các lời từ biệt khác của Chúa Giêsu, Thánh thần là đấng bào chữa công lý bênh vực Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài trước tòa án của thế gian này (15,16; 16,7-11; Mt 10,20; Mc 13,11; Lc 12,12).? đây cũng như trong các tiên tri, Ngài (Chúa Thánh Thần) là đấng linh ứng lời Thiên Chúa. Trong sứ mệnh tại thế, Chúa Giêsu đã nói được “những lời của Thiên Chúa, Đấng ban dư đầy THÁNH THẦN cho Ngài” (Ga 3,34) những lời này là “thần trí và là sự sống” (Ga 6,63). Và nếu Thánh Thần được ban cho môn đệ trong ngày phục sinh (Ga 20,22; 7,37-39), đó là để đặc biệt nhắc nhở họ nhớ lại sứ điệp. Không phải một việc ghi vào ký ức cách vật chất; thánh Gioan hai lần ghi chú trong phúc âm là các môn đệ chỉ thấu triệt? nghĩa lời Chúa Giêsu cũng như các hành động của Ngài khi “nhớ lại” chúng dưới ánh sáng phục sinh (Ga 2,22; 12,16), nghĩa là dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh thần, Đấng giúp họ quán triệt? nghĩa thâm sâu. (Vai trò soi chiếu của Thánh Thần đã được phác họa trong Ga 16,12-14).
Chúa Giêsu đã loan báo trong diễn từ (14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần bào chữa đến với họ? đây Ngài cũng thêm là Cha sẽ sai đến nhân danh Ngài. Cả hai cách nói tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác rõ ràng nhất về thần học Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân ước. Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong tín hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết sứ điệp Thiên Chúa và cho họ thông hiệp vào mầu nhiệm sự sống của Ngài.
4. Khi đã bảo đảm cho họ về một ánh sáng sống động sắp đến, Chúa Giêsu mới có thể từ giã họ. Ngài từ giã theo phong tục người Do thái, với lời chào: Shalôm: bình an. Tuy nhiên đây không phải là một lời từ giã thông thường: “Ta ban bình an của Ta cho các con”. Thế gian chỉ có thể chúc bình an, còn Ngài ban bình an, bình an riêng của Ngài. Theo não trạng người Hy Bá, chữ “bình an” diễn tả một cái gì còn hơn sự an tĩnh của tâm hồn. Nó bao gồm tất cả những thiện hảo mà người ta có thể cầu chúc; đó chính là sự an lạc. Nhưng sự bình an của Chúa Phục sinh (20,19.21.26) còn hơn sự an lạc vật chất hay hạnh phúc nhân bản. Bình an hệ tại việc chiếm hữu chân lý (theo nghĩa đã giải thích? trên) với sự hiện diện viên mãn của Thiên Chúa. Sự chiếm hữu này làm cho các môn đệ thoát khỏi những thăng trầm của cuộc sống này, bằng cách bảo đảm cho họ rằng họ sẽ vượt qua tất cả các chướng ngại vật thế gian gây ra cho các việc chứng nhân của họ: “Hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian” (16,33). Lời từ biệt này có thể làm cho họ bối rối (14,1), nhưng họ chẳng có gì phải sợ, vì sự ra đi này không phải là một sự chia cách.
5. “Cha lớn hơn Ta”. Các giáo phụ và các thần học gia, nhất là những vị đã từng tranh luận về Thiên Chúa Ba Ngôi, đã bối rối vì mấy chữ đó, và đã dựa vào chúng để bàn cãi sôi nổi về mối liên hệ giữa Ngôi Cha và Ngôi Con, cũng như việc phân biệt hai bản tính trong Đức Kitô và về nguồn gốc của Chúa Con. Nhưng những cuộc bút chiến này, nếu không đi sai đường, thì cũng đi vào ngõ cụt. Tình yêu của môn đệ chỉ nhằm đến vẻ bề ngoài của con người Chúa Giêsu. Họ còn yêu Ngài trong mức độ họ còn có thể đụng chạm Ngài dưới hình thức nhân loại của Ngài và tùy theo địa vị mà họ ao ước nắm giữ trong vương quốc thiên sai. Họ đã phán đoán và yêu Ngài từ bên ngoài. Nhưng con người của Ngài bám chặt cách thâm sâu vào Chúa Cha, Cha trở nên hữu hình trong Ngài (x.14,9). Cái quan trọng không phải là cái mà họ đã nắm chắc được nơi Ngài cho tới bây giờ, nhưng là Chúa Cha qua Ngài. Chính trong nghĩa này mà Gioan đã có thể viết mà không sợ đụng chạm đến đức tin tí nào: “Cha trọng hơn Ta”, có nghĩa là trọng hơn cái mà các con đã thấy nơi ta. Chúa Giêsu kém cao trọng xét như là người mạc khải Cha. Sự phân biệt đó không nhằm đối chiếu bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa (như truyền thống đã cắt nghĩa) nhưng nhằm đối chiếu cái môn đệ hình dung, trình bày về Ngài (sa “prêsentation humaine”) (trong tư thế một vị thiên sai) với? nghĩa thiện linh trọn vẹn của Ngài (sa pleine signification divine) là mạc khải Chúa Cha. Đây là vấn đề nhận biết Chúa Cha trong Chúa Giêsu. Khi các môn đệ nhận biết điều đó rồi, thì không còn vấn đề hơn thua, vì Cha và Ngài chỉ là một.
KẾT LUẬN
Nhờ suy tư sau khi gần hoàn tất phúc âm, thánh Gioan ngày càng thấu triệt khiếm diện và hiện diện của Chúa Giêsu trong các môn đệ. Từ lúc Chúa chết trên thập giá, ông đã sống trong sự khiếm diện siêu việt của Chúa. Ông có thể kết luận cuốn phúc âm của mình: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Vì ông kinh nghiệm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với các môn đệ không cốt tại các thị kiến phi thường, cũng không phải trong các lần hiện ra ngắn ngủi và dành riêng cho một vài nhân chứng sau khi sống lại, nhưng sự hiện diện luôn có đối với những ai tìm kiếm Ngài với niềm tin. Được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa, hiệp nhất cách mầu nhiệm với Cha và Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, là đời sống đã làm cho Ngài có thể nhận biết một cách khả giác. Nhưng khuất mắt ta để từ đây luôn luôn hiện diện với chúng ta theo cách thế của Thiên Chúa (Mt 28,20)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trái ngược với việc tuân giữ cách máy móc và mệt nhọc những giới luật tỉ mỉ, không sống động, thích hợp chút nào với tâm hồn tín hữu, Chúa Giêsu thiết lập các tương quan giữa Ngài với các môn đệ trên mối liên lạc tình yêu. Để thấy Chúa Giêsu, để sống nhờ Ngài, với Ngài, thì phải “giữ lời Ngài” (c.24). Sự sống này, như Chúa Giêsu xác định, là chính sự sống của Ngài nhận từ Cha, sự sống mà Ngài có với Cha, nghĩa là mối dây tình yêu.
2. Lúc sắp lìa xa các môn đệ, lúc sắp được nâng lên, Đức Kitô loan báo cho họ biết Ngài hằng hiện diện luôn mãi qua lời Ngài. Bài giã từ trong chương 14 của Gioan không mang một mục đích nào khác ngoài việc tỏ cho biết sự hiện diện mới mẻ này.
Đối với người Semit, lời nói là cái gì cụ thể; cũng như tên gọi, lời nói là biểu thức của một hữu thể, một ngôi vị; hơn tất cả các phương tiện khác, nó bảo đảm được mối giây liên lạc sống động mà mỗi người cố nối kết với tha nhân; đó là cơn mưa đưa sự sống đến cho trái đất, làm nẩy mầm những hạt lúa sẽ trở thành cơm bánh (Is 55,8-11)
Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời các tông đồ khi đi sâu vào trong những xác tín của họ. Lúc Chúa Giêsu rời bỏ họ, họ nhớ lại kinh nghiệm đặc biệt mà họ vừa có mà Chúa Giêsu tóm lại trong một chữ: Lời ta. Bằng ấy nói lên tất cả con người của Ngài đối với họ (x.1Ga 2,23; 4,15; 2Ga 9).
Sự hiện diện này sẽ sinh hiệu quả trong họ như sự hiện diện của Thiên Chúa đã sinh hiệu quả suốt lịch sử Israel. Sự hiện diện đó là Shékinah đã theo dân trong sa mạc, đã bao phủ đền thờ trong ngày Salomon cung hiến, đã nâng đỡ những người bị lưu đày, đã hoàn lại sự sống cho “nhóm còn lại”, đã ngập tràn tâm hồn mỗi người trong niềm mong chờ sự hiện diện sung mãn.
Khi theo Chúa Giêsu, các tông đồ đã sống lại lịch sử dân Do thái và thấy mình được kêu gọi sống thông hiệp thân mật với Đấng đã nói với Môisen “như bạn nói với bạn” (Xac 33,11).
Việc khám phá ra sự hiện diện cao quí vô giá sẽ Giáo hội được thực hiện hàng ngày, qua kinh nghiệm của cuộc sống thường nhật, dưới sự phù trợ của Thánh Thần, Đấng làm sống lại tạo vật mới đang thoát dần khỏi bóng tối của sự bách hại, sự chia rẽ và sự chết. Không gì có thể lay chuyển được sự hiện diện đó do Thánh Thần ban.
3. Sự ra đi của Đức Kitô, tức cuộc tử nạn, Phục sinh của Ngài, là cần thiết để các tông đồ khám phá một cách rõ ràng Chúa Giêsu là ai: là nhân chứng đặc biệt của Cha và của tình yêu Ngài. Họ phải khám phá thấy tình yêu đó còn lớn hơn tất cả những gì họ đã khám phá ra nơi Đức Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi họ khám phá ra điều họ đã tiên cảm. Làm sao họ lại không vui cho được.
4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện vô hình trong tâm hồn cao quí hơn nhiều. Cũng như thánh Phaolô, chúng ta không nuối tiếc vì đã không sống vào thời phúc âm. Thật là mối nguy hiểm nếu chỉ nhận biết Chúa Giêsu qua ngoại diện (theo xác thịt) mà không sống kết hiệp nội tâm với Ngài theo Thánh thần (2Co 5,16).
5. Tuần tới, chúng ta sẽ cử hành lễ Chúa Thăng thiên, một cuộc ra đi cần thiết để ban Chúa Thánh Thần xuống cho ta. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy tin tưởng mong đợi Chúa Thánh Thần. Để được như vậy, chỉ cần biết chấp nhận bình an của Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài, nghĩa là tin và để lời đó phát sinh trong ta hoa trái đã được Chúa loan báo trước. Chúng ta sắp thông phần với hy tế của Ngài, sắp lãnh nhận Ngài làm của ăn; ước gì sự hiện diện sống động của Ngài là sức mạnh và kiên nhẫn cho chúng ta. Chớ gì bình an vượt quá mọi sự của Ngài tràn ngập chúng ta.
D/ Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
THẦY ĐI VỀ CÙNG CHA
Chương 14 là diễn từ ly biệt, trong đó Chúa Giêsu nói đến việc ra đi của Người và những điều phải có nơi môn đệ của Người: – Lời mở đầu của diễn từ (14:1-4); – Chúa ra đi và các môn đệ kết hiệp với Người qua đức tin (14:5-14); – Chúa trở lại và các môn đệ kết hiệp với Người qua tình yêu (14:15-24); – Kết thúc diễn từ (14:25-31). Như thế, đoạn tin mừng 14:23-29 gồm hai phần thuộc hai phân đoạn kế tiếp nhau. Chúng liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
Những câu 14:23-24. Đặc điểm của hai câu nầy là ở dạng điều kiện và phân từ, mà cốt lõi là “tình yêu”, “tuân giữ lời”, và lời hứa phần thưởng cho những ai thực hiện điều kiện nầy. Trong câu khẳng định 14:23, “Lời” mà người môn đệ tuân giữ để thể hiện tình yêu đối với Chúa Giêsu chính là “giới răn” (14:15:21[4x]; 15:10). Ngược lại, không tuân giữ “lời” là không yêu mến Người (14:24). Việc yêu mến và tuân giữ giới răn của Thiên Chúa đã được nói nhiều trong Cựu ước. Thiên Chúa hứa chúc phúc và trung tín với ai yêu mến Người và tuân giữ giới răn của Người (x. Xh 20:6; Đnl 5:10; 7:9; 10:12; 11:1.13.22; 19:9; 30:6.16.20).
Chúa Giêsu làm một lời hứa sau mỗi câu điều kiện về việc tuân giữ giới răn của Người (14:15.21.23). Sau lần thứ nhất là hứa ban Đấng An ủi (14:16); rồi đến lời hứa tỏ mình ra (14:21); sau cùng là lời hứa Chúa Cha cùng với Người đến cư ngụ trong người tuân giữ lời (14:23). Như thế, đây là lời hứa tam, gồm Chúa Thánh Thần – Chúa Con – Chúa Cha. Lời hứa sau cùng là cho họ ở lại trong tình yêu của Người; cũng là ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (15:10). Về lời hứa “làm nơi cư ngụ” (14:23), ở đầu chương Chúa Giêsu đã nói đến việc ra đi của Người để chuẩn bị chỗ trên trời cho các môn đệ (14:2). Tuy nhiên ở cuối chương, Người nói đến chỗ ở của Thiên Chúa giữa các môn đệ (14:23).
Những câu 14:25-29. Đây là bản tóm những chủ đề đã được bàn đến trong suốt cả chương 14: lời hứa ban Thánh Thần (14:16tt lấy lại trong 14:26); sợ hãi (14:1 trong 14:27); đi và trở lại (14:2tt, 14:5-14; 14:15-24 trong 14:28); tình yêu (14:15.21.23tt trong 28) và đức tin (14:1.10-12 trong 14:29). Ở đây xuất hiện những chủ đề mới: niềm vui (14:28) và bình an (14:27). Chúa Giêsu lại loan báo sự ra đi của Người (14:25), và việc ban Thánh Thần. Chúa Cha sẽ sai Thánh Thần, Đấng An ủi đến để dạy dỗ cho họ tất cả những gì Người đã nói với họ. Trước đây, Thánh Thần được gọi là Thần Chân Lý (14:16-17). Ở đây, vai trò của Người được nói rõ ra. Người không độc lập với Chúa Giêsu và dạy thêm điều gì mới, mà chỉ nhắc lại “lời” của Người.
Lời ban Thánh Thần kèm theo bình an và niềm vui (14:27-29). Đây là những ơn của sự sống lại (x. 20:19.21.26). Chúa Giêsu biết các môn đệ đang lo âu trước cái chết được tiên báo của Người. Nên Người cho họ biết là họ không bị bỏ rơi. Ngoài Thánh Thần sẽ được gởi đến với họ, họ còn được ban bình an và niềm vui. Bình an của Người sẽ giúp họ khỏi xao xuyến vì Người ra đi. Trái lại, sự ra đi của Người phải là lý do để họ được niềm vui lớn lao. Sự “ra đi” và “về cùng Cha” của Người (14:28) là tiến trình chết và sống lại theo ý muốn của Chúa Cha (10:18). Đây là dấu hiệu tình yêu Chúa Giêsu tỏ ra đối với Cha của Người. Người yêu thương và vâng phục ý của Cha định cho Người, vì Cha thì cao trọng hơn Người. “Về cùng Cha” cũng là đi vào trong sự thông hiệp hoàn hảo với Cha. Như thế, về lại với Đấng mà từ đó Người đã đến trần gian (1:9) là niềm vui của Người. Đó cũng phải là niềm vui của các môn đệ, vì trong sự kiện nầy họ nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Bởi đó, những điều Chúa nói ra để cho họ tin Người là ai (14:29).
Chúa Giêsu phải ra đi và về cùng Chúa Cha. Tuy nhiên các môn đệ vẫn ở trong tình yêu, bình an, niềm vui và Thánh Thần của Người khi họ tuân giữ lời của Người.
E/ Các bài suy niệm khác
THỰC THI YÊU THƯƠNG ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN VÀ GIÁO HỘI SƠ KHAI
LOAN BÁO BÌNH AN ĐÍCH THỰC
CÁC TÔNG ĐỒ BẢO VỆ SỰ HIỆP NHẤT VÀ ĐỨC TIN CỦA GIÁO HỘI
ShareTweet

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Thứ Hai, Tuần IV, Mùa Phục Sinh

Thứ Hai, Tuần IV, Mùa Phục Sinh

Chúa Nhật IV Phục Sinh  – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Năm C

Chúa Nhật IV Phục Sinh – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Năm C

Thứ Bảy, Tuần III Phục Sinh

Thứ Bảy, Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần III Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần III Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần III Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần III Phục Sinh

Bài Viết Mới

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh

Thứ Hai, Tuần IV, Mùa Phục Sinh

Thứ Hai, Tuần IV, Mùa Phục Sinh

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: 78 Thiếu Nhi Hân Hoan Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: 78 Thiếu Nhi Hân Hoan Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức

Chúa Nhật Chúa Chiên Lành: Rộn Ràng Ngày Họp Mặt Lễ Sinh Giáo Hạt Đà Lạt

Chúa Nhật Chúa Chiên Lành: Rộn Ràng Ngày Họp Mặt Lễ Sinh Giáo Hạt Đà Lạt

Chúa Nhật IV Phục Sinh  – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Năm C

Chúa Nhật IV Phục Sinh – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Năm C

Phim tài liệu: Lữ hành và Hy vọng

Phim tài liệu: Lữ hành và Hy vọng

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 09 Nguyễn Thái Học – Tp. Đà Lạt – Lâm Đồng – Việt Nam
– Điện thoại: 0918.525.019
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
  • Phụng Vụ
  • Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi