
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
(Ga 3,16)
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 17-26
“Kìa, những người mà các ông tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: “Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này”. Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
Lúc bấy giờ vị thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: “Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả”.
Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: “Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ”. Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Đáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. – Đáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. – Đáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở nơi Người. – Đáp.
TIN MỪNG: Ga 3,16-21
16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
QUÀ TẶNG ĐỜI SỐNG MỚI
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
Suy niệm: Quà tặng cũng là một trong những ngôn ngữ của tình yêu; gói ghém trong các món quà là những ý tứ, tâm tình người ta muốn trao gửi cho nhau. Yêu thương nhân loại, Thiên Chúa trao ban cho họ một món quà trao vô giá là chính Con Một Ngài. Cũng với việc trao ban Người Con, Thiên Chúa cũng trao ban cho nhân loại sự sống vĩnh cửu, sự sống của Thiên Chúa. Một quà tặng đổi đời theo đúng nghĩa bởi vì từ đó con người được làm con Chúa, nối kết với chính Thiên Chúa và gia nhập vào gia đình Thiên Chúa. Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su cho biết tái sinh bởi Thánh Thần là điều kiện thiết yếu để đón nhận hồng ân sự sống mới này.
Mời Bạn: Thiên Chúa trao cho bạn hai báu vật quý giá nhất là tình yêu và sự sống. Ki-tô hữu là người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho mình và đã đón nhận tình yêu và sự sống này trong Bí tích Rửa tội. Cảm nhận điều này, chân phước An-rê Phú Yên kêu mời: “Hãy lấy tình yêu đáp đền tình yêu; hãy lấy sự sống đáp đền sự sống”. Bạn có nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho bạn trong Đức Ki-tô không? Bạn làm gì làm gì để đáp đền tình yêu Thiên Chúa?
Sống Lời Chúa: “Có thể cho mà không thương; nhưng thương không thể nào không cho”. Bắt chước Thiên Chúa, tôi tập quan tâm đến những nhu cầu của người khác và biết chia sẻ với họ.
Cầu nguyện: Lạy Cha, cảm tạ Cha đã ban cho chúng con sự sống đời đời nhờ Con Một Cha là Đức Giê-su Ki-tô. Xin cho chúng con biết sống bằng sức sống của Ngài; đồng thời cũng biết làm cho người khác nhận biết và yêu mến Ngài. Amen.
B/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
THIÊN CHÚA VẪN MÃI YÊU THẾ GIAN
Để cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chúng ta cùng khởi đi từ tình yêu của con người. Đối với con người nhất là người Việt Nam, không gì thiêng liêng cao cả bằng tình mẫu tử. Vì yêu con, bà mẹ dám đón nhận tất cả khổ đau, lao nhọc: “Chín tháng mang nặng đẻ đau”; “Nhai cơm lựa cá, nhai cá lựa xương”; âm thầm hi sinh để con được hạnh phúc:
“Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày mẹ thức đủ năm canh”.
Tình mẹ dành cho con bao la như trời biển chỉ mong con nên người.
Trong tình nghĩa phu thê: khi yêu nhau, người ta cho nhau mọi sự: của cải, chức tước, sự quan tâm, nâng niu, chiều chuộng… Tình yêu vốn mạnh hơn tử thần (Dc 8,6), nên khi yêu nhau thì “mấy núi cũng leo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”;
“Yêu nhau muôn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Vì người yêu, mà họ sẵn sàng “lìa” cha mẹ để nên một với bạn mình (St 2,24); nên một trong thân xác và trong tâm hồn. Sự kết hợp kỳ diệu của hai người yêu nhau được cô đọng trong câu ca dao:
“Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai”.
Phải nói rằng tình yêu con người rất đẹp, mang nhiều ưu phẩm, sâu nặng, mạnh mẽ, nồng nhiệt… phản ảnh phần nào tình yêu của Thiên Chúa. Thế nhưng, tình con người cho dù là thiêng liêng như tình mẹ, đâm đà như nghĩa phu thê, đem so với tình Chúa yêu con người thì quả là ngàn trùng chênh lệch. Vì tình yêu của con người không tránh khỏi ích kỷ, vụ lợi, chiếm hữu, yêu nên tốt ghét nên xấu, để rồi: tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc…
Còn tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người thì tuyệt mỹ vô song. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thiên Chúa đã ban chính bản thân Ngài, đến chia sẻ kiếp người, chết và sống lại vì yêu chúng ta (Pl 2, 6-11). Ngài đã yêu chúng ta “đến cùng” (Ga 13, 1b). Ngài đã làm người để cho con người làm Chúa, để con người được sống và sống dồi dào (Ga 10,10), để con người được sống hạnh phúc đời đời (Ga 3,16).
Vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Tình yêu của Thiên Chúa trung tín dành cho con người bất tín, tình yêu của Đấng “tuyệt đối” dành cho con người hữu hạn, đó là điều lòng trí con người không bao giờ suy thấu(1Cr 2,9-10). Suy ngẫm về điều này Thánh Bênađô được niềm vui tràn ngập tâm hồn.
Thiên Chúa yêu con người với mối tình tuyệt hảo: “Cho dù có người mẹ nào quên đứa con mình sinh ra, thì Ta, Ta chẳng quên con bao giờ”(Is 49, 15). Tình yêu đó mạnh mẽ từ muôn thuở (Gr 31,3), không đổi thay, không vụ lợi hay chiếm hữu. Được lợi gì khi Thiên Chúa yêu con người? Ngài yêu con người vô điều kiện. Ngài để cho con người tự do chấp nhận hay chối từ Ngài. Thiên Chúa đã yêu chúng ta ngay khi chúng ta là tội nhân (Rm 5, 8-9). Ngài đã lấy chính “máu thịt” nuôi dưỡng chúng ta (Mc.14, 20; 1Cr.11, 23-25) và mãi ở cùng chúng ta (Mt 28, 20).
Thiên Chúa yêu con người “vô cùng” như thế, con người biết lấy chi đáp đền? Thánh Bênađô nói: “Khi Thiên Chúa yêu ta, Ngài chỉ đòi ta đáp trả bằng tình yêu”, mà yêu Chúa, là lắng nghe và thực hành Lời Chúa (Lc 10, 38-42; Ga 14,15), là không lấy gì làm quý hơn Chúa. Chính tình yêu Chúa đã thôi thúc các anh hùng tử đạo thắng vượt đau khổ, tự hiến mạng sống chứng minh tình yêu (Rm 8,39).
Yêu mến Thiên Chúa cũng là yêu mọi người. Vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1, 27), được Chúa yêu thương, được Chúa cứu chuộc (Mt 26, 28) cả hồn-xác (Mt 9,16-20, 35). Hơn nữa, chính Chúa dạy phải yêu người, yêu người là yêu Chúa (Mt 10, 42; 22, 39; Ga 15, 13-15, 17). Cho nên, Thánh Gioan khẳng định: “Nếu ai nói mình yêu Chúa mà lại ghét tha nhân đó là kẻ nói dối” (1Ga 4, 20-21).
Xin Chúa cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu vô cùng của Chúa trong cuộc sống của con. Để rồi, qua lời nói, việc làm chúng con cũng tích cực dấn thân đem bình an, tin yêu và hy vọng của Chúa cho mọi người. Amen.
C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
TIN CHÚA SẼ ĐƯỢC TRƯỜNG SINH
Bài Tin mừng tiếp tục nói về việc sinh lại. Đây là hậu quả của việc chịu hoặc không chịu sinh lại:
– Chịu sinh lại thì được cứu độ; không chịu thì phải hư mất.
– Thực ra, khi cho Con mình xuống thế gian, Thiên Chúa không hề muốn luận phạt thế gian, mà chỉ muốn cứu thế gian.
– Nhưng thế gian cũng phải góp phần của mình: ai tin vào Chúa Con thì được cứu, kẻ không tin thì bị luận phạt.
– Sự luận phạt ấy là do chính những người ấy tự chọn cho mình.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Con Một mình…”
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tuỷ của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Thánh kinh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3, 15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Ai tin thì sẽ được sống
Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 20). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa” (Ga 3, 19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ (R. Veritas).
“Ai tin vào Con của Ngài thì không bị xét xử…”
Tình yêu vốn là tiêu chuẩn để con người được xét xử. Trong cuộc thẩm xét chung cuộc, Đức Giêsu chỉ tra vấn con người về một điều duy nhất, đó là nó có sống yêu thương không? Người Kitô hữu do đó không lo sợ về một cuộc chung thẩm trong ngày sau hết; họ lại càng không phải bận tâm về bức tranh mà trí tưởng tượng con người đã tô vẽ cho ngày ấy, bởi lẽ họ biết rằng sự phán xét diễn ra ngay trong hiện tại qua từng lựa chọn của họ. Mỗi khi họ sống yêu thương thì lương tâm sẽ không luận phạt họ, trái lại, khi họ để thù hận xâm chiếm tâm hồn và thúc đẩy họ khước từ tình yêu, thì đó là lúc họ bị xét xử. Thật thế tâm hồn họ sẽ không có bình an, nếu họ không sống yêu thương.
Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính Con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại có được sự sống. Tình yêu này mời gọi chúng ta là những người con biết cho đi làm quà tặng cho nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta – người con thực thi như Đức Giêsu hiến thân vì mạng sống vì người mình yêu.
Truyện: Tượng thánh giá ban phép lành
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế đang ban phép lành
Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng đau khổ.
Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Đức Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.
Kể từ đó, bàn tay phải của Đức Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”.














