“Em con đã chết nay sống lại”.
Bài Ðọc I: Gs 5, 9a. 10-12
“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng Lễ Vượt Qua”.
Trích sách Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng: “Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai-cập khỏi các ngươi!” Con cái Israel tạm trú tại Galgali và mừng Lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh đồng Giêricô. Ngày hôm sau Lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó của xứ Canaan.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
Xướng: Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 17-21
“Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu ai ở trong Ðức Kitô, thì người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: này đây tất cả mọi sự đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Ðấng đã nhờ Ðức Kitô giao hoà chúng ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hoà. Thật vậy, Thiên Chúa là Ðấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Ðức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hoà. Nên chúng tôi là sứ giả thay mặt Ðức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì Ðức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hoà với Thiên Chúa. Ðấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Lc 15, 1-3. 11-32
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu… Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút Lời Chúa
B/ ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
C/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
HÒA GIẢI VỚI ANH CHỊ EM
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY – NĂM C
Lc 15, 1-3. 11-32
Hòa giải là lời mời gọi khẩn thiết của Mùa Chay. Hòa giải với Chúa và hòa giải với anh chị em mình. Tuy vậy, hòa giải với Chúa là việc dễ dàng, trong khi hòa giải với anh em là một làm hết sức khó khăn. Trong cuộc sống trần gian, con người “đầu đội trời, chân đạp đất”. Họ vừa có tương quan với đất và tương quan với trời. Họ cũng không là những ốc đảo tách biệt cô đơn, nhưng sống chung với nhau và cần đến nhau. Hòa giải với anh chị em sẽ giúp chúng ta xây dựng cuộc sống lý tưởng, làm thành một gia đình trong tình huynh đệ thân thương.
Câu chuyện “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời nhất của Kinh Thánh. Câu chuyện ấy nhấn mạnh tới lòng nhân hậu của Thiên Chúa, mà nhân vật người cha là biểu tượng. Người cha tôn trọng tự do của người con thứ, sẵn sàng để nó ra đi. Người cha ấy cũng luôn mong ngóng đợi chờ và vẫn tin chắc có ngày nó trở lại. Sự trở về của người con là niềm vui lớn lao của người cha, đến nỗi ông mở tiệc tưng bừng để đón con trở về. Bởi lẽ, như ông nói, con ông đã mất mà nay lại tìm thấy, đã chết mà nay đã sống lại. Còn niềm vui nào lớn hơn là tìm thấy của cải đã mất và gặp lại người thân đã chết? Vì thế mà niềm vui hội ngộ càng tưng bừng lớn lao.
Tuy vậy, nếu Thiên Chúa là cha bao dung nhân hậu, sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của con người, thì con người lại hà khắc và cứng nhắc đối với nhau. Mỗi người trong chúng ta đều đã có lần cảm nhận điều đó nơi chính bản thân và nơi những người xung quanh. Có ba nhân vật trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, cả ba nhân vật đều là nam giới. Người con cả, từ lúc ban đầu xem ra là người tử tế, vì khi người con thứ đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi, thì anh vẫn ở lại với cha mình. Tuy vậy, những gì anh nói với Cha, xem ra là những uất ức được dồn nén trong nhiều năm: “Cha coi, con ở với cha bao nhiêu năm….”. Người cha giật mình nhận ra, mặc dù thân xác đứa con cả vẫn ở với cha mình, mà tâm hồn nó lại xa vời vợi. Nó phủ nhận tình huynh đệ máu mủ khi gọi em mình là “thằng con của cha kia”. Người cha đau khổ nhận ra rằng, ông đã mất cả hai đứa con, mỗi đứa một cách khác nhau.
Nhân vật người con cả giúp chúng ta liên tưởng đến mối tương quan với tha nhân. Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng giống như người con cả, luôn cố chấp, ích kỷ và ôm mối hận thù. Hình ảnh người con cả cho thấy một thái độ chủ quan tự tin, nghĩ rằng mình là người ngay thẳng và là người đạo đức, coi mình là tiêu chuẩn để đánh giá và phê phán người khác. Cả ba nhân vật trong câu chuyện đều nhắn gửi đến chúng ta những thông điệp quan trọng: Thiên Chúa là Cha yêu thương. Ngài nhân hậu bao dung và rộng lòng tha thứ. Người con thứ tượng trưng cho người lầm lạc tội lỗi, nay quyết tâm chỗi dậy trở về để sống trong tình yêu thương của cha mình. Người con cả là những người cố chấp và khó hòa đồng với những người xung quanh, thậm chí ngăn cản họ, không cho về với Chúa. Cả người con thứ và người con cả đều cần phải trở về. Cả hai đều phải tự vấn lương tâm về đời sống quá khứ của mình, đồng thời nhận ra Chúa nhân hậu bao dung, từ đó cố gắng sống tốt như người cha hằng mong muốn.
Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Đó là điều người con thứ đã chuẩn bị sẵn để khi gặp cha sẽ nói. Tuy vậy, người cha không để cho con nói hết những gì nó đã chuẩn bị. Tình thương của Thiên Chúa mênh mông vời vợi, không cần những công thức, nhưng chan hòa như đại dương, phủ lấp những yếu đuối của phận người.
Chúng ta đã đi đến nửa chặng đường của Mùa Chay. Lời mời gọi hòa giải lại vang lên, nhắc chúng ta lên đường trở về. Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Vì Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa” (Bài đọc II). Hòa giải với Ngài sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc và bình an, đồng thời tạo nên một cuộc sống trần thế an bình. Niềm vui của hòa giải, được phụng vụ so sánh như niềm vui của người Do Thái đến đất hứa sau 40 năm hành trình sa mạc. Họ không còn lang thang phiêu bạt nữa, nhưng được định cư ở miền đất Chúa hứa cho cha ông họ và được hưởng những thổ sản của địa phương. Họ được chứng kiến những gì trước đây chì là lời hứa, nay thành hiện thực ngay trước mắt. Họ như người con thứ trong Tin Mừng, được trở về nhà của mình, không còn là khách lạ (Bài đọc I). Mỗi chúng ta cũng vậy, khi thành tâm sám hối, chúng ta được nối lại mối tình cha con đối với Chúa và mối tình huynh đệ đối với anh chị em mình.
Hãy sám hối! Hãy trở về! Lời gọi ấy đang vang lên trong đời sống và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Trở về với Chúa và trở về với anh chị em, đó chính là thông điệp được nhấn mạnh của Phụng vụ hôm nay. Hiệu quả của Mùa Chay tùy thuộc vào thiện chí hòa giải đối với anh chị em mình.
D/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY C
(Lc 15,1-32)
1. Nhập đề của ba dụ ngôn đã phóng đại rằng: tất cả những kẻ thu thuế và những người tội lỗi thường lui tới bên Chúa Giêsu để nghe Ngài. Việc thêm thắt chữ “tất cả” vào trong nhập đề này có ý chỉ phương thức căn bản của sứ mệnh và thái độ của Chúa Giêsu: Ngài đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư đi (x.L 19,10), nghĩa là tất cả. Điều này, do đó, cũng có giá trị cho hai hạng người thu thuế và tội lỗi nữa. Họ cần phải đến với Ngài và nghe lời Ngài, bởi vì họ không thể tìm được nơi nào khác lời hy vọng và sự tiếp đón nhưng không đó. Điều đó đã làm cho các biệt phái và ký lục phàn nàn kêu trách: “Ông này tiếp đón những người tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ” (c.2). Lời kêu trách này cũng giống như giai thoại ông Lêvi và đối đáp với các ký lục Biệt phái nơi phúc âm Mc (2,12-17). Nơi Lc, lời kêu trách nhắm hai điểm: Ngài tiếp đón những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ. Điểm trách cứ thứ nhất cho thấy rằng những người thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn tôn giáo và xã hội Israel; ít ra theo giáo thuyết các giáo sĩ Do thái; giáo thuyết này đã có câu châm ngôn như sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên Israel cũng phải làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu làm ngược lại. Ngài tiếp đón các tội nhân.
Điểm kêu trách thứ hai còn nặng nề hơn: “Ông ta cùng ngồi ăn với chúng”. Tiếp đón những người tội lỗi chưa đủ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: cùng ngồi ăn với họ. Trong cổ thời, bữa ăn có nghĩa là liên minh, thân hữu, liên đới giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. không cần nói, mà chỉ bằng thái độ, Chúa Giêsu cho thấy rằng Thiên Chúa rõ ràng muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi.
Nhập đề này gán cho những dụ ngôn tiếp theo một tính cách biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi. Nhưng trong câu cho thấy, thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi chắc chắn không có nghĩa là họ được công chính hóa vì là tội nhân. Tội nhân cũng cần tự mình hoán cải. Nhưng điểm mới mẻ là ở chỗ: sự cải hóa của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần tiếp đón (như thần học các giáo sĩ Do thái chủ trương): ngược lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa thực hiện. Chính người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên lạc, ông không ngồi đợi con chiên trở về. Điều phải làm trước tiên là chứng tỏ tình yêu đối với người khác; chính nơi Thiên Chúa mà ta tìm thấy khởi điểm của việc con người trở về.
2. Đâu là điểm chính yếu của chương này. Ta hãy thử tóm tắt: ở đây, không có sự từ chối hoàn toàn giáo thuyết biệt phái, nhưng là một thái độ rất hòa hoãn trước lời tố cáo của địch thủ Chúa Giêsu, một lời mời gọi thực sự nói qua dụ ngôn, mời gọi bắt chước cách thế hành động của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã kinh nghiệm được một niềm vui khôn tả khi một tội nhân đi vào nước trời; hơn nữa Ngài đã kêu mời mọi người chung vui với Ngài vì tội nhân trở lại; tội nhân ngày xưa đã lạc mất và hiện tìm thấy, trước đây đã chết và nay sống lại. Suốt cả chương lời mời gọi ấy cứ vang mãi cho đến lúc bừng lên ở đoạn cuối. Chính Người mục tử mời gọi bạn bè và láng giềng đến chia vui với ông; chính người đàn bà đã làm như vậy, và chính người cha cũng mời gọi tôi trai tớ gái của ông đến chung ly rượu vui mừng. Đặc biệt nhất là lời mời gọi khẩn thiết, van nài với người con cả. Niềm vui tột đỉnh của Thiên Chúa là không loại trừ một người nào. Ngài mong ước cho chúng ta được niềm hân hoan phát sinh từ sự thay đổi sâu xa tận đáy tâm hồn.
Ngay cả từ ngữ cũng hướng ta về ý nghĩa ấy: các diễn tả niềm vui dầy đặc cả trong văn bản. Trước hết có thể kể chữ “tiếp đón” (prosdechetai), như nhiều tác giả đã nghĩ; rồi chắc chắn là chữ “mừng rỡ” (c.5), “chia vui” (c.6), “vui mừng” (c.7), “chia vui” (c.9), “vui mừng” (c.10), “ta hãy ăn khao” (c.23), “đàn ca múa hát” (c.25), “phải ăn khao mà mừng chớ” (c.32). Đó là niềm vui phải cùng chung với những người khác: người mục tử và người đàn bà với bạn bè (xin xem các động từ kép sugkalsin, sugchairein), Thiên Chúa với các thiên thần, người cha với tôi tớ và nhất là với con cả. Ta còn có thể kể thêm ý tưởng “tìm lại được”, một tiếng diễn tả niềm vui vỡ bờ của kẻ đã từng kinh nghiệm điều đó.
Nhưng trong văn mạch, lời mời gọi chung vui này mang một khía cạnh Kitô học rất đặc biệt: đó là một lời mời gọi khó lòng đón nhận nếu không có một thay đổi não trạng tận gốc, chính Chúa Giêsu đã phát biểu như vậy; chính thái độ của Ngài đã phản ảnh tinh thần và niềm vui của Thiên Chúa khi Ngài tiếp đón tội nhân; chính Ngài đã muốn rằng mọi người phải chung vui với Ngài. Kẻ nhìn thấy Chúa Giêsu cũng nhìn thấy Thiên Chúa và không chê bai lối hành động của Ngài. Con người của Chúa Giêsu không phải là một cái gì được thêm vào cho sứ điệp tin mừng và cho lời rao giảng Nước Trời. Ngược lại Ngài chính là sự mới mẻ chủ yếu của sứ điệp đó. Các dụ ngôn đây hoàn toàn không phải là một sự lặp đi lặp lại cách vô ích ơn tha thứ mà Thiên Chúa dành cho người tội lỗi như trong lời rao giảng của các ngôn sứ đâu. Nếu các dụ ngôn nói cho chúng ta về niềm vui của Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu đã miêu tả cho chúng ta thấy phương thế hành động riêng của Ngài. Điều đó có thể được vì giữa hành động của Thiên Chúa và hành động của Chúa Giêsu có một sự đồng hóa âm thầm nhưng thực sự. Trong phúc âm của thánh Lc, Chúa Giêsu mời gọi ta bắt chước Thiên Chúa: “Hãy biết xót thương như Cha các ngươi là Đấng thương xót” (6,36). Nhưng ở đây còn hơn nữa: trong sứ mạng của Người, Chúa Giêsu là Đấng qua đó Thiên Chúa bày tỏ cho chúng ta niềm vui và sự thương xót của Ngài. Bởi thế, phàn nàn chống đối Chúa Giêsu, cuối cùng là phàn nàn chống đối Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu lôi kéo tội nhân về với Thiên Chúa. Hầu như có thể giải thích cách thần học câu: “họ lui tới bên Ngài” thế này: Chúa Giêsu là người đầu tiên mời gọi chúng ta đến với nguồn vui ấy, nguồn vui ơn cứu rỗi ta.
3. Có một điều khiến các nhà chú giải phải lưu tâm ngay là: trong cặp dụ ngôn người mục tử, là có phúc âm thánh Mt (18,12-24); hai bản văn thuật lại dụ ngôn này dầu song song, vẫn khác biệt nhau: nơi Mt, hoàn cảnh không phải là sự tiếp đón các tội nhân, nhưng là sự săn sóc mà cộng đoàn phải chu toàn đối với những “kẻ bé nhất”; vì thế, kết luận cũng hoàn toàn khác biệt trong hình thức (phủ định nơi Mt) cũng như trong nội dung. Có thể tóm lược những dị biệt này như sau: Mt nhấn mạnh việc tìm kiếm, Lc nhấn mạnh niềm vui tìm gặp; trong Mt, Chúa Giêsu mời gọi những kẻ mạnh hay các mục tử hãy dẫn dắt kẻ yếu đuối về, trong khi Lc làm nổi bật niềm vui tha thứ của Thiên Chúa; Mt nhấn mạnh đến bổn phận phải chu toàn, Lc lại đi sâu vào con tim Thiên Chúa; Mt cho các tông đồ một qui luật, Lc lại mô tả sự nhân lành của Đấng cứu thế đối với tội nhân.
4. Trong hai dụ ngôn đầu của chương 15 này, người ta thấy có sự đồng nhất cơ cấu đặc biệt đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn “sinh đôi”
(người đàn ông) | (người đàn bà) |
Ai trong các ông | Bà nào |
giả sử có một trăm con chiên | có mười đồng bạc |
và lạc mất một con | nếu rủi mất một đồng |
há người ấy lại không bỏ | há bà ấy lại không chong đèn… |
cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó ư ? | cho đến khi tìm được đồng bạc đó ư ? |
Tìm được rồi… | Tìm được rồi… |
lại không gọi bạn bè hàng xóm | lại không gọi bạn bè hàng xóm |
và phân phố với họ thế này sao: | và phân phố thế này sao: |
“bà con hãy chia vui với tôi | “bà con hãy chia vui với tôi |
tôi đã may mắn tìm thấy con chiên | tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi |
lạc của tôi | đánh mất |
Cũng vậy, tôi bảo các ông, | Cũng vậy, tôi bảo các ông, |
… sẽ có vui mừng | vui mừng ắt run lên… |
vì một người tội lỗi hối cải | vì một người tội lỗi hối cải |
hơn là vì 99 người công chính | |
những kẻ không cần ăn năn. |
Sự song đối thật quá hiển nhiên: câu hỏi ban đầu, hình thức lời nói, từ ngữ, ý tưởng… Với phương cách đặc biệt, việc lặp đi lặp lại các ý niệm và các từ ngữ đều gợi lên niềm vui và mời gọi chúng ta đến chia sẻ.
Bố cục theo một lược đồ đồng nhất, hai dụ ngôn này vì thế đề ra cùng một giáo huấn. Rất là thanh nhã, Chúa Giêsu lần lượt đưa vào một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Các con số ở đây không quan trọng lắm. Có chăng là chính đơn vị bị mất mát, được tìm kiếm, và gây nên nỗi vui mừng cùng tìm thấy: một con chiên (trong cả đàn chiên), một đồng bạc (tiền công của một ngày làm việc) trong cả chút gia sản nhỏ bé, và (trong áp dụng) một tội nhân ăn năn, một linh hồn được cứu; điều đó đáng làm người ta chú ý.
a. Hình ảnh người mục tử tìm được con chiên mình (cc.3-6):
Nhận thấy thiếu mất một con chiên trong đàn, người mục tử để 99 con chiên ngoan ngoãn gặm cỏ nơi hoang vắng (phải hiểu là để lại trong an toàn, nơi đồng cỏ vùng cao), để đi tìm con chiên lạc. Kể từ đây, trình thuật tập trung vào việc làm sáng tỏ thái độ của mục tử đối với con chiên duy nhất này. Ông đi tìm, ông gặp được nó, ông vui mừng, nỗi vui mừng phát biểu qua hai cách: ông vác con chiên lên vai như một giải khăn quàng sống động để cảm thấy nó thật gần gũi với mình; ông kêu mời bạn bè hàng xóm đến chia sẻ hạnh phúc của ông: niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Hình ảnh này có lẽ hơi phóng đại (nhất là trong cách biểu lộ sự vui mừng) vì muốn ghi khắc bài học vào tâm trí. Nhưng nếu xét thực tế một chút, người ta thấy cử tọa dễ dàng và tự nhiên đồng ý với người thuật truyện và đi vào trong: “Ai trong các ông lại không làm như thế” (c.4). Được vuốt nhẹ một chút, thính giả chấp nhận ngay liền.
b. Hình ảnh bà nội trợ tìm lại được đồng bạc (cc.8-9)
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân Palestine: một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay một ít đồ đạc lỉnh kỉnh. Ánh sáng không có bao nhiêu và chỉ đi lọt qua cửa chính vì nếu mở cửa sổ, nóng sẽ hắt vào. Ngay giữa ban ngày, cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các xó góc. Câu chuyện được diễn tả chỉ trong vài tiếng: đồng tiền bị mất, người đàn bà gia công tìm kiếm (soi đèn và quét tước khắp nơi) tìm được rồi lòng ngập mừng vui. Đồng tiền thế nào cũng được cất lại một nơi chắc chắn, và niềm vui nói mãi không cùng với bạn bè hàng xóm, những người được réo gọi và chạy sang với một sự hiếu kỳ đầy thiện cảm.
c. Giáo huấn của hai dụ ngôn cc. 7 và 10)
Chúa Giêsu không bắt chúng ta khám phá giáo huấn đó. Ngài đã cắt nghĩa rõ ràng: đó là niềm vui của Thiên Chúa: “Trên trời sẽ vui mừng” (c.7), “vui mừng ắt vang lên giữa các thiên thần của Thiên Chúa” (c.10); hình thức chuyển từ kiểu Do thái này là để tránh đề cập trực tiếp đến Thiên Chúa. Nhưng toàn văn mạch chỉ rằng niềm vui đó là niềm vui của Ngài và của triều thần thiên quốc), niềm vui được mô tả một cách như nhân để những thực tại của Thiên Chúa dễ thấu đạt chúng ta.
Đối tượng của niềm vui vỡ bờ này là sự thu hồi tội nhân: một sự thu hồi do Thiên Chúa, một kết quả của lòng người lo lắng cho kẻ đã lạc mất (xem các chi tiết của hai dụ ngôn); sự thu hồi đó giả thiết tội nhân đã để Thiên Chúa bắt lấy (như con chiên và đồng bạc) cho nên sự hối lỗi, sự trở lại của anh ta không gì khác hơn là sự đáp ứng lại những bước đầu tìm kiếm của Ngài.
Nhưng cần nhắc lại rằng hai dụ ngôn không phải là lời mời gọi hoán cải. Chúng trực tiếp diễn tả niềm vui của Thiên Chúa. Đấng đã sung sướng trong sự chiến thắng của tình thương xót Ngài, sau khi đã động viên toàn lực để dẫn đưa kẻ lầm lạc trở về.
5. Dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng hẳn là một trong những trang phúc âm lôi cuốn nhất. Không cần mất thì giờ dừng lại trên những phân tích tâm lý tinh vi, trên nghệ thuật trình bày tài tình. Nhưng phải giới hạn lại, và ở đây tốt hơn, nên chú ý nhiều đến giáo huấn tôn giáo mà dụ ngôn muốn ghi khắc vào tâm trí.
Có một tương quan chặt chẽ nối kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước trong chương 15 của phúc âm Lc. Trước hết ai cũng nhận thấy các kết luận đều giống nhau trong suốt cả chương âm vang như một điệp khúc: “hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc” (c.6), “Hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được đồng tiền đánh rơi: (c.9), “Ta hãy ăn mừng vì con Ta đây đã chết mà nay được sống, đã lạc mất mà nay lại tìm thấy” (c.32). Toàn chương như một bài ca tán tụng hạnh phúc của người tìm lại được cái mình đã mất đi.
Tính cách duy nhất đó được biện minh cho cách thức Lc dẫn nhập vào dụ ngôn bằng hai câu ông đã đặt ở đầu chương. Kẻ tỉ mỉ sẽ nhận xét rằng nhập đề này chỉ liên hệ trực tiếp đến dụ ngôn đầu mà thôi. Thật ra nó liên hệ đến cả hai dụ ngôn kia nữa vì cả ba ăn khớp với nhau. Và lại ta sẽ thấy rằng, nhập đề ấy hoàn toàn phù hợp với nội dung của dụ ngôn sau cùng: Chúa Giêsu sở dĩ đưa ra dụ ngôn này là vì các người biệt phái và ký lục đã công phẫn trước thái độ ân cần chiếu cố của Ngài đối với những người tội lỗi.
Dụ ngôn rõ ràng chia làm hai phần, phân ra nhờ điệp khúc ngắn rõ ràng của câu 24. Phần đầu diễn tả thái độ của người cha đối với đứa con hoang đàng, phần sau nói lên khó khăn của ông đối với người con cả. Hai đứa con hiện diện ở đó là để ông cha có cơ hội biểu lộ tình cảm của mình (cho nên vị anh hùng đích thực của dụ ngôn không phải là thằng con hoang đàng, song là cha của y). Nhưng những chi tiết về hai người con cũng soi cho ta thấy đâu là hoàn cảnh của dụ ngôn, đâu là vấn đề chính yếu khiến Chúa Giêsu muốn ban ra một giáo huấn. Giáo huấn này chắc chắn nằm trong những lời nói của người cha. Do đó, thay vì lần lượt xem xét hai phần của trình thuật, có lẽ nên xác định đâu là hoàn ảnh của dụ ngôn bằng cách trước hết chú ý chân dung của hai người con. Chân dung của người con cả đơn giản hơn hết, nên ta sẽ bắt đầu nói về anh trước sau đó đến người con thứ, rồi người cha và cuối cùng đề cập đến giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đưa ra qua trung gian ông già này.
1. Người con cả
Khi đứa con thứ trở về, anh ta đang làm việc ngoài đồng. Chiều đến, sau một ngày lam lũ trở về nhà, không hay biết gì hết. Trong nhà cuộc vui đã tới hồi náo nhiệt với ca nhạc và nhảy múa. Anh con cả kêu người giúp việc, hỏi về chuyện đang xảy ra. Câu trả lời thật khó nghe: “Ấy, em cậu vừa về, nên cha cậu đã cho hạ bò tơ béo, bởi vì cụ đã được lại con an lành mạnh khỏe” c.27). Nghe vậy, anh ta giận dữ vô cùng. Cách thức nhận tin cho thấy phản ứng của anh. nhưng phải biết rằng: bản văn không muốn tô vẽ người con đầu lố bịch. Bản văn chỉ cho thấy anh ta đang giận dữ, Và giận dữ không phải không có lý do.
Vì anh từ chối vào nhà, nên ông cha phải đích thân ra van nài anh vào. Sẵn cơn tức giận, người con cả trút hết nỗi uất ức chất chứa trong lòng bấy lâu: “Này biết bao năm trời, tôi làm tôi ông cùng chưa hề cãi lệnh ông, thế mà có bao giờ ông cho tôi được một con dê để ăn mừng với chúng bạn. Còn khi thằng con của ông kia đã ngốn xong cả sản nghiệp của ông với đàn đĩ mà về, thì ông lại hạ bò tơ béo mừng nó” (cc.29-30)
Anh ta đã thốt lên một cách cứng cỏi, nếu không nói là thô lỗ; nhưng xét cho cùng, thực đúng như vậy. Anh ta nghĩ rằng cha mình đã xử sự không đúng, và phải công nhận anh có lý. Lời kêu trách của anh nhắc ta nhớ lại lời kêu trách của những người thợ giờ thứ nhất khi họ phản đối thái độ của ông chủ vườn nho: “hạng cuối hết này (những người thợ tới làm việc lúc 11 giờ) đã chỉ làm một giờ thôi, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi, là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy” (Mt 20,12). Qua những lời kêu trách của người con cả và những người thợ thứ nhất, có thể nhận ra được cảm nghĩ của những người mà Chúa Giêsu đã hướng dụ ngôn tới. Dẫu bằng cách khác, họ cũng nghĩ rằng, quyền lợi của họ đã bị thiệt thòi. Một cái gì đó đã xảy ra khiến họ phải bảo: “Như thế là không công bình”. Trước khi trả lời họ, Chúa Giêsu cho thấy những thông cảm với những khó khăn của họ. Bản trình thuật đã khéo sắp xếp để cho đối tượng của dụ ngôn nhận ra mình trong người con cả và thấy anh ta là phát ngôn cho mình.
Người con cả trước hết nói về chính bản thân anh: “Này đã biết bao năm trời tôi làm tôi ông, cùng chưa hề trái lệnh ông. Các từ ngữ anh ta xử dụng để diễn tả lòng trung thành của mình đối với Cha chính là từ ngữ đã xác định lý tưởng tôn giáo của các ký lục và biệt phái: bền tâm làm tôi Thiên Chúa, ra sức lo lắng để đừng bao giờ “trái lệnh” của Ngài.
Sau đó, người con cả còn nói với người con thứ bằng một giọng vô cùng khinh bỉ. Anh ta tránh gọi là “em con” nhưng nói “thằng con của ông kia”. Thật đúng như người biệt phái của dụ ngôn Lc 18,10-14 đã gọi “tên thu thuế kia” vậy. Cũng thái độ khinh miệt ấy tỏ lộ qua những từ ngữ khiếm nhã lên án hạnh kiểm của đứa con hoang đàng.
Như thế đã đủ để cho ta thấy rõ hạng người mà dụ ngôn muốn nhắm đến. Chúa Giêsu ngỏ lời với những kẻ tự cho mình là tôi trung của Thiên Chúa, những kẻ đã cố giữ để đừng bao giờ vi phạm giới răn Ngài. Họ nghĩ rằng một lòng đạo đức như thế cho họ được quyền, và họ phẫn uất trước những gì xem ra bất công đối với họ. Không pgải là họ phẫn uất trước kẻ tội lỗi, những người này chỉ làm cho họ khinh bỉ. Sự phẫn uất, khó chịu của họ, chúng ta đã thấy rồi là do thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân: nếu Thiên Chúa cũng nhân lành với kẻ tội lỗi như thế, thì người công chính nào có hơn gì không? Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tôi lỗi há không làm lung lay nền tảng của một tôn giáo chủ trương trung thành vâng lời Thiên Chúa sao? Nếu các kẻ tội lỗi là những người được Thiên Chúa ưu đãi, thì cần gì phải mất công giữ giới răn của Ngài ?
2. Người con thứ
Ta đã thấy dụ ngôn cố sức làm nổi bật sự bắt bẻ của người con cả, nhưng không nhận chìm nhân vật mà qua đó, các đối tượng phải nhận ra chính mình. Bây giờ là chân dung của người con thứ; anh ta không được tô điểm chút nào và phù hợp với hình ảnh mà người biệt phái có thể có về một người tội lỗi chính danh.
Sau khi đã thu được phần gia tài, đứa con thứ trẩy đi xa (dĩ nhiên là vùng lương dân) ở đó anh ta phung phí của cải bằng một đời sống phóng đãng (mà chỉ bọn ngoại giáo mới sống). Cuối chặng đường phiêu lưu đó, anh chàng làm nghề chăn heo. Đối với người Do thái, đấy là tồi tệ hết chỗ nói. Ta có thể đoán được khi nghe đến đây, người biệt phái ắt bỉu môi, kinh tởm.
Sau cùng, đã đến lúc suy nghĩ lại. Nhưng hãy xem anh chàng ăn chơi suy nghĩ gì nào? Hối tiếc thái độ của mình? Hối hận vì đã gây buồn khổ cho cha? Không có đâu, anh ta đã tự trách đã dại dột để mình chết đói đang khi gia nhân của cha có bánh ăn no đầy. Tại sao không lợi dụng điều đó và đi về xin làm gia nhân của cha? Để hoàn thành kế hoạch, anh ta dọn trước một câu thật hay: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời, và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa, xin xử với con như một người làm công của cha thôi” (cc-19). Câu này thật hay, nhưng anh quá biết đấy là một mánh khóe hết sức tầm thường. Cái làm cho thằng con lo lắng là không có gì mà “tống cho đầy bụng” (c.16). Hắn trở về nhà là để được ăn thả cửa. Những lời lẽ hối hận của hắn không phù hợp với cảm nghĩ đích thật của hắn. Những lời đó chỉ có mục đích làm động lòng người cha đang tức giận một cách chính đáng, hắn chỉ cần khêu gợi lòng thương cảm của cha với hy vọng ông sẽ không tìm cách soi thấu lòng dạ của của hắn mà thôi.
Không! Trình thuật này không có lý tưởng hóa tội nhân. Chân dung vẽ ra là đúng như lòng mong đợi của biệt phái mà Chúa Giêsu đang ngỏ lời. Khi muốn sửa chữa chân dung đó để biến đứa con hoang đàng thành mẫu gương thống hối, ta sẽ bỏ qua giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho thính giả Ngài. Từ lâu trong Israel, người ta biết rõ là Thiên Chúa thích tha thứ cho những kẻ tội lỗi ăn năn trở về. Nếu Chúa Giêsu chỉ muốn nói thế, thì người biệt phái không có lý do gì để phẫn nộ cả.
3. Người cha
a. Người cha và đứa con thứ: phải đọc lại đoạn mô tả xúc động về thái độ của người cha khi đứa con hoang trở về ở câu 20-24. Làm thế nào để chú giải một đoạn văn như vậy mà không làm mất đi tính cách sống động của nó? Ta thấy người cha xúc động khi nhận ra con mình từ đàng xa. Động từ có nghĩa là: người cha bồi hồi cảm xúc và chạnh lòng thương xót. Mối xúc động bên trong này tức khắc biểu lộ ra bằng những cử chỉ cuồng nhiệt: người ta ngạc nhiên thấy ông già đương phương đường bệ này chạy bổ vào đứa con, thằng con bắt đầu tụng lên câu dọn sẵn, nhưng nó không đọc hết được, vì cha nó đã hối hả kêu gia nhân: “Mau mau. Đem áo thượng hạng mà mặc cho nó, hãy xỏ nhẫn vào tay nó, và giày vào chân nó, rồi đem con bò tơ béo mà hạ đi, ta phải ăn khao mới được. Mau lên.
Tất cả sự náo nhiệt này được hiểu như là một sự bùng vỡ niềm vui. Nỗi sung sướng của người cha thật tràn trề đến nỗi ông chạy lăng xăng khắp nhà. Câu 24 kết thúc đoản văn bằng cách đưa ra lý do sâu xa của niềm vui này: “Vì con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất đi mà lại tìm thấy được”. Dù tội lỗi đến đâu, tên hoang đàng vẫn là đứa con của cha nó. Đối với ông cha, chỉ điều ấy là đáng kể. Ông đã không bao giờ ngừng yêu mến con ông. Đã một thời đi xa, đứa con như mất đi, bây giờ tìm lại được nó. Kể chi đến quá khứ, chỉ biết bây giờ nó đã trở về. Người cha dào dạt niềm vui, bởi vì ông đã yêu con như bất cứ người cha nào.
b. Người cha và đứa con cả: người cha đã không muốn nghe hết lời thú tội của thằng con thứ, nay tránh cắt ngang lời trách móc của đứa con cả. Ông lắng nghe hết câu than vãn đó. Và lúc ấy, ông mới trả lời, bằng một giọng âu yếm trái hẳn với giọng điệu hằn học của đứa con.
Trước hết, người con cả nói về mình, về hạnh kiểm gương mẫu của mình mà anh ta nghĩ rằng đã bị cha đối xử bất công. Người cha bắt đầu trả lời những trách cứ của anh: “này con, con hằng ở luôn với cha thì tất cả của cải của cha đều là của con” (c.31). Chúng ta không cần nghe nói đến con dê bị khước từ nữa: “Tất cả những gì là của cha đều là của con”. Thật thế, người con cả không thể phàn nàn rằng anh ta đã bị xử bất công.
Câu trả lời này nhắc ta nhớ lại rằng mình đang đứng trước một dụ ngôn. Cho nên không có vấn đề đi tìm một ý nghĩa mầu nhiệm nào đó trong các từ ngữ được xử dụng. Ta sẽ lạc đề hoàn toàn chẳng hạn như muốn áp dụng những từ ngữ của câu trả lời về liên hệ giữa người cha và người con này vào mối liên hệ giữa Thiên Chúa và những người biệt phái. Điều đúng trên phương diệm là Thiên Chúa không bất công đối với người biệt phái cũng như người cha đã không bất công với đứa con cả vậy.
Phần thứ nhất của câu trả lời bác lại một bắt bẻ, phần thứ hai đi xa hơn và đưa ra một giáo huấn tích cực. Dĩ nhiên nơi đó mới là điểm quan trọng. Câu trả lời lấy lại điệp khúc đã kết thúc phần thứ nhất của trình thuật (c.24), nhưng biến đổi rất có ý nghĩa. Thay vì nói “con ta đây, nó đã chết…” để đổi lại từ ngữ đứa con cả dùng: “thằng con của ông kia đã về sau khi đã ngốn xong sản nghiệp của ông” người cha đã sửa lại một cách tế nhị: “Em con đó”, “phải ăn khao mà mừng chớ, vì em con đó nó đã chết mà lại sống, đã mất mà lại tìm thấy được” (c.32). Nếu người cha đã vô cùng hạnh phúc khi tìm lại được đứa con, thì người anh sao lại không hoan hỉ lúc tái ngộ em mình ?
Trình thuật chấm dứt với lời kêu gọi của người cha. Cuối phần nhất, điệp khúc được tiếp liền bằng một câu kết vắn tắt: “Và người ta mở tiệc ăn mừng” (c.24). Ta có thể tưởng tượng một câu kết luận như thế cho cả trình thuật để bảo rằng đứa con cả đã hoàn toàn được thuyết phục. Nhưng trình thuật vẫn cố ý bỏ ngõ, vì chính thính giả phải tự nói là họ có đáp trả lời kêu gọi này của dụ ngôn hay không. Kết luận của trình thuật tùy thuộc vào thái độ của họ. Họ chịu để thuyết phục không? Họ có chấp nhận chia sẻ không? Họ có chấp nhận chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa khi một tội nhân trở về không? Họ có đủ sức thông hiệp vào tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng mang lại cho những người anh em tội lỗi không? Chỉ có họ mới trả lời được.
c. Mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa: trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu vạch trần cạm bẫy mà trong đó thường rơi vào những kẻ đạo đức xét theo lề luật và những kẻ thỏa mãn với sự công chính riêng của mình, họ đòi hỏi Thiên Chúa phải công nhận vì họ “công chính” sờ sờ ra đó. Nhưng sự công chính này, mà họ tưởng có thể dựa vào, lại lôi họ đến chỗ tiêu diệt . Họ bị hiểm nguy vì họ quên rằng họ là những người con và vẫn là con ngay cả trong sự trầm luân. Quả thực, Thiên Chúa Cha đã đến gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài.
Ngay trước khi đứa con hoang đàng xưng thú tội lỗi mình, người cha đã ôm nó vào lòng mà hôn. Cái hôn trên má dành thường dành cho người ngang hàng. Chúa Giêsu diễn tả sự phục hồi tư cách, địa vị làm con của đứa em bằng cách nói: người ta đem lại cho gã cái áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay và mang giày vào chân gã. Việc mặc áo ngày lễ chúng tỏ: người cha không những tha thứ hết mọi tội lỗi thằng con mà còn ngầm báo nó đừng sợ, cha không phạt đâu. Tuy nhiên việc chú giải dụ ngôn còn cho một kết luận khác nữa: việc Thiên Chúa tha thứ không phải chỉ là cất hình phạt, song còn là một hành động sáng tạo. Nếu tội lỗi của con người là dấu hiệu khuất phục sự chết, thì sự tha thứ nhân danh Chúa Giêsu và nhân danh Thiên Chúa không phải chỉ là chết đi tội lỗi, nhưng còn băn khoăn một thực thể mới, thay đổi con người toàn diện.
KẾT LUẬN
Hai dụ ngôn của chương này kết thúc một cách vui vẻ, nhưng dụ ngôn thứ ba thì được “bỏ ngỏ”: người con trưởng có chấp nhận lời mời không? Đó không phải là câu hỏi để kết thúc. Sau khi đã hiểu được niềm vui khôn tả của Thiên Chúa, câu hỏi đích thực liên hệ đến chúng ta: chúng ta có thực lòng chung vui với Thiên Chúa và Chúa Kitô, khi thấy người anh em tội lỗi vào nước trời? Nếu thực lòng chung vui, chúng ta đang đi vào tâm tình của Chúa Kitô, và nhờ người, được liên kết với Chúa Cha, là đấng yêu thương hết thảy mọi người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người (1Tim 2,4), không phải chỉ cách tổng quát và tập thể, nhưng còn là một cách cá biệt. Ngài không muốn một số kẻ được chọn nào đó, Ngài muốn cứu vớt tất cả. Cho dù chỉ có một linh hồn cần được đưa về với Ngài (một con chiên trong số 100 con) Ngài cũng lo liệu tìm mọi cách để đưa kẻ ấy trở về.
2. Chúa Kitô là mục tử tốt lành, biết tên từng con chiên một (Ga 10,3). Sứ mệnh của Ngài là đưa những con chiên lạc nhà Israel trở về đàn (Mt 15,24). Cũng như Chúa Kitô, Kitô hữu không được bỏ rơi kẻ nào trong những tương giao nhân loại hay tôn giáo của mình, nhưng phải sẵn sàng tiếp nhận mọi thiện chí, sẵn sàng tiếp xúc một cách chân thành hữu ích. Không phải môi trường rộng lớn mới là quan trọng. Thánh Francois de Sales có nói: “Một linh hồn đã là một địa phận khá lớn cho một giám mục rồi”
3. Cho dù tội lỗi đến đâu, chúng ta đừng bao giờ thất vọng. Tình yêu của Thiên Chúa và của Chúa Kitô luôn đeo đuổi chúng ta (Rm 8,37-39). Thiên Chúa rình chờ chúng ta, để vác chúng ta lên đôi vai khi cần (Is 40,11) và đưa chúng ta về lại ràng. Chúng ta hãy tin tưởng vào sự âu yếm của Thiên Chúa chúng ta. Hãy thưa với Ngài rằng chúng ta là con chiên lạc lối và hãy xin Ngài đến tìm kiếm ta cho mau (Tv 119,176) để từ đây săn sóc ta như con chiên thân thuộc (Tv 95,7) trong tình yêu thắm thiết của Ngài.
4. Hôm nay, ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa vui mừng biết bao được tụ họp đoàn dân Ngài trong giáo hội để nhờ Chúa Kitô dâng lên hy lễ thờ phượng. Trong đoàn dân này, Ngài nhận ra những con chiên trung thành của Ngài và có lẽ cũng nhận ra một vài tâm hồn Ngài đã dùng ân sủng đánh động riêng, đã trở về cuộc sống thờ phượng: đó là những con chiên tìm thấy những đồng bạc thu hồi, những tâm hồn đã được đưa về để tôn thờ Thiên Chúa đích thật hầu được cứu rỗi.
5. Chúng ta tìm thấy được dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng một mạc khải về sự âu yếm khôn lường của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Tình âu yếm đó đã được Chúa Giêsu tỏ ra cho loài người trong việc Ngài chăm lo cho các tội nhân suốt sứ vụ tại thế, và nhất là trong viêc hy sinh mạng sống Ngài để chuộc tội cho họ. Việc khám phá ra một tình yêu như vậy không thể làm cho ta tràn đầy tin tưởng vào Đấng đã yêu thương chúng ta. Chúng ta quá biết mình là những tội nhân; nhưng chúng ta từ nay không được quên rằng thân phận khốn nạn đó không làm Thiên Chúa ghét bỏ chúng ta, trái lại càng khiến Ngài yêu chúng ta hơn. Vì vậy chúng ta vững tin cho chính mình, và cũng vững tin cho những kẻ khác. Chúng ta cũng đang sống giữa những người tội lỗi. Khi thấy các anh em ấy gặp khốn khó hay lầm lạc, chúng ta hãy nhớ lại rằng họ vẫn được Thiên Chúa yêu, và tình yêu đó đủ mạnh để cứu rỗi họ.
6. Người con cả của dụ ngôn, vì không hiểu tình yêu của Cha, cũng không hiểu được lời mời gọi phát xuất từ tình yêu đó: anh ta chỉ thực sự là người con hiếu thảo của cha khi biết chia sẻ tình yêu của cha, biết thương mến đứa em. Việc đề phòng mà dụ ngôn muốn nhắc nhở cho người người biệt phái không phải là không liên hệ đến Kitô hữu. Dụ ngôn nhắc cho họ nhớ rằng người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh em, cho dù những người này là tội nhân. Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với con tim lạnh lùng kiêu căng của người biệt phái, kẻ tưởng mình đang sống an toàn vì đã thi hành tỉ mỉ những giới luật. Làm sao có thể xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu nếu ta khinh bỉ xa tránh những kẻ đang gặp hoạn nạn khó khăn do tội lỗi. Tình yêu Thiên Chúa kêu mời chúng ta yêu mến anh em. “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11).