• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật Lễ Lá – Năm C

Ngày Đăng: 13/04/2025
Trong Mùa Chay - Phục Sinh

“Sự thương khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”

 

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.
Xướng: Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.
Xướng: Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.
Xướng: Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Lc 22, 14 – 23. 56 (bài dài)

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.
Ðến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông:
J. “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”.
C. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán:
J. “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!”
C. Ðoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”.
C. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán:
J. “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Ðành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!”
C. Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo:
J. “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!”
C. Rồi Chúa nói:
J. “Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”.
C. Ông thưa Người:
S. “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”.
C. Nhưng Người đáp:
J. “Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy”.
C. Và Người bảo các ông:
J. “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?”
C. Các ông thưa:
S. “Không thiếu gì cả”.
C. Vậy Người nói:
J. “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: “Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác”. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”.
C. Các ông thưa Người:
S. “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”.
C. Và Người bảo:
J. “Ðủ rồi”.
C. Ðoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Ðến nơi, Người bảo các ông:
J. “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”.
C. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng:
J. “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”.
C. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo:
J. “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”.
C. Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn:
J. “Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?”
C. Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:
S. “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?”
C. Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo:
J. “Thôi, đủ rồi”.
C. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng:
J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”.
C. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo:
S. “Cả ông này cũng theo hắn”.
C. Nhưng ông chối và nói:
S. “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”.
C. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:
S. “Chính ông cũng là người trong bọn đó”.
C. Nhưng Phêrô đáp:
S. “Này anh, đâu có phải tôi”.
C. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng:
S. “Ðúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa”.
C. Phêrô đáp:
S. “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?”
C. Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng:
S. “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”.
C. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói:
S. “Nếu ông là Ðấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay”.
C. Người trả lời:
J. “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”.
C. Mọi người đều hỏi lại:
S. “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?”
C. Người đáp:
J. “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”.
C. Bấy giờ họ nói:
S. “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”.
C. Ðoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:
S. “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua”.
C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:
S. “Ta không thấy người này có tội gì”.
C. Nhưng họ cố nài rằng:
S. “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây”.
C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:
S. “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”.
C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:
S. “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”.
C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:
S. “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!”
C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:
S. “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”.
C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:
J. “Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?”
C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:
J. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”.
C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:
S. “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”.
C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:
S. “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”.
C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:
S. “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:
S. “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?”
C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:
S. “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
C. Chúa Giêsu đáp:
J. “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”.
C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:
S. “Ông này quả thật là người công chính”.
C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Ðoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbat, các bà nghỉ theo đúng luật.

 

SUY NIỆM

A/ 5 phút Lời Chúa
B/ Đức TGM Giuse Vũ Văn Thiên
PHÓ MÌNH TRONG TAY CHÚA CHA
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM C
 (Lc 19,28-40 – Làm phép và rước lá)
Với nghi thức nhắc lại sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, phụng vụ dẫn đưa chúng ta vào Tuần Thánh. Thánh lễ hôm nay nhằm chuẩn bị tâm hồn các tín hữu, giúp họ tham dự tích cực vào việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, để cùng hiệp thông với Người, sống mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời. Trình thuật về cuộc thương khó của Chúa, giúp chúng ta theo Chúa Giêsu từ phòng tiệc ly đến chân thánh giá. Trong biến cố này, có sự phản bội của Giuđa, sự hận thù ghen ghét của các kỳ mục Do Thái, sự thay lòng đổi dạ của quần chúng đám đông. Nhưng trên hết, đó là sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Chúa Cha. “Người đã yêu thương đến cùng” – Thánh Gioan nói với chúng ta như vậy (Ga 13,1). Đức Giêsu như một người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa được loan báo trong ngôn sứ Isaia. Người mang trên đôi vai mình tội lỗi của nhân loại. Người không dùng bạo lực đối lại với bạo lực, không dùng lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa. Người là con chiên vượt qua mà người Do Thái vẫn giết trong Đền thờ vào dịp lễ để kỷ niệm cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Máu của Người đổ ra là hy lễ xá tội muôn dân.
Trước biến cố thập giá, Chúa Giêsu luôn phó thác nơi cánh tay Chúa Cha. Người  sẵn sàng đón nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Người đến trần gian để thực hành thánh ý của Chúa Cha. Người chấp nhận mọi sự, miễn là ý của Chúa Cha được thành tựu. Lời cầu nguyện: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” đã diễn tả niềm tín thác kỳ diệu ấy. Trong sa mạc, đã có lần ma quỷ thách thức Người gieo mình từ trên nóc Đền thờ xuống. Nếu khi ấy, Người đã không gieo mình xuống theo thách thức của tên cám dỗ, thì giờ đây, Người lại hoàn toàn phó thác mà gieo mình vào lòng Chúa Cha. Người không tính toán, không băn khoăn, nhưng một niềm tin tưởng nơi Chúa Cha.
Thập giá là trung tâm điểm của nghi thức phụng vụ Tuần Thánh. Hai mươi thế kỷ đã qua, các tín hữu được mời gọi nhìn lên thập giá để cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa. Thập giá là một mầu nhiệm mà trí khôn loài người không thể suy thấu. Quả thật, làm sao có thể lý giải được việc Thiên Chúa chịu đau khổ và chịu chết? Làm thế nào để hiểu sự kiện một Thiên Chúa quyền năng lại chấp nhận chịu bắt bớ, hy sinh và cuối cùng phải chết một cách nhục nhã trên cây thập giá? Quyền năng Thiên Chúa ở đâu nơi thập giá?
Có một câu trả lời duy nhất và ngắn gọn, đó là tình thương. Cũng như chỉ có tình thương mới giúp người mẹ hy sinh khuya sớm để chăm sóc đứa con bệnh tật lâu năm mà không một lời phàn nàn oán trách, chỉ có tình thương mới dẫn đưa Đức Giêsu đến việc chấp nhận khổ đau và chết trên thập giá. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để tất cả những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Vụ án Chúa Giêsu không chỉ là câu chuyện của quá khứ, nhưng là của ngày hôm nay. Tại một số nước Hồi giáo, vẫn có các Kitô hữu bị thảm sát, là nạn nhân của mối thù hận. Đây đó trên thế giới, vẫn còn những người vô tội bị giết. Bóng thập giá vẫn phủ ngang qua mọi mảnh đời bất hạnh, phá vỡ hạnh phúc, sói mòn niềm tin. Đấng Cứu thế vẫn đang bị hành hình nơi những người nghèo khổ, người di dân lánh nạn và người cô thế cô thân. Thập giá là tiếng kêu hãy ngưng bạo lực và đối xử với nhau cho xứng tình người. Một điều lạ lùng là, chính  khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá là lúc mọi người nhận ra Người là Con Thiên Chúa, trong khi trước đó họ nhạo báng Người. Viên đại đội trưởng là đại diện cho dân ngoại, và dân chúng có mặt lúc bấy giờ đều đấm ngực ăn năn. Họ đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Công chính. Khi chiêm ngưỡng và suy ngắm mầu nhiệm thập giá, chúng ta cũng hãy nhận ra nơi con người chịu treo trên thập giá là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá cũng mời gọi chúng ta noi gương Chúa Giêsu, phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa quyền năng và nhân hậu, để Ngài hướng dẫn cuộc đời chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống trần gian. Đó là niềm tín thác trọn vẹn của người con nơi cha mình, biết rằng bao giờ cha cũng muốn những điều tốt lành cho con và làm mọi sự để con được sống vui và hạnh phúc.
Bài Thương Khó kết thúc trong bầu khí trầm lắng suy tư. Mỗi người chúng ta có thể nhận ra mình là một nhân vật trong “vở kịch thương khó” mà tác giả Luca đã thuật lại. Dù chúng ta là nhân vật nào đi nữa, lời mời gọi nhận ra tình thương vô bờ của Thiên Chúa vẫn đang thôi thúc chúng ta.

 

C/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CHÚA GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEM 

 (Lc 19,28-40 – Làm phép và rước lá)
Cả bốn phúc âm đều ghi lại việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nhưng có rất nhiều khác biệt. Có những khác biệt có thể nhận ra ngay từ đầu, có những khác biệt tinh vi, đòi hỏi nhiều chú ý hơn. Mỗi một dị biệt này chỉ có ý nghĩa trong mỗi phúc âm. Để quán triệt ý nghĩa mỗi trang phúc âm, điều quan trọng là phải làm quen với những phản ứng của tác giả tiềm tàng trong bản văn và làm cho bản văn được phong phú nhờ những tiềm năng của chúng. Cần tham chiếu văn mạch để xác nhận một yếu tố với toàn thể của nó.
Dựa vào những nguyên tắc trên, chúng tôi bắt đầu nghiên cứu bằng cách phân tích ngôn ngữ được dùng trong bốn trình thuật phúc âm.
I. CÁC NGUỒN CỦA NGÔN NGỮ
Các trình thuật khác nhau về việc vào Giêrusalem có dùng một ngôn ngữ chung, gồm nhiều điểm biểu tượng và văn hóa, mà chúng ta phải phân tích trước hết. Kết quả của cuộc phân tích này, cho dù nhỏ bé đến đâu cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn các “hệ thống” phúc âm và sức hoạt động nội tại của chúng.
1. Núi cây dầu và Đấng Messia
Dựa trên các quan niệm Do thái đương thời, việc Chúa Giêsu đến tạm trú trên núi cây dầu có thể mang một tính cách thiên sai. Bản văn sau đây của Zacaria đệ nhị có thể là khởi điểm của một truyền thuyết, hoặc là chứng tá của một niềm tin liên hệ với Đấng Messia: “Ngày ấy, chân Ngài đứng trên núi cây dầu, đối diện với Giêrusalem về phía đông. Núi cây dầu sẽ bị rẽ ra chính giữa từ đông sang tây, làm thành một thung lũng thật lớn…” (14,4).
Những lời đó mô tả việc Giavê can thiệp trong trận chiến cánh chung mà Giêrusalem sẽ là chiến trường (x. Ez 11,23). F. Josèphe, sử gia Do thái nổi tiếng, đương thời với các tác giả phúc âm đã nói đến trào lưu tư tưởng này trong cuốn “Antiquites juives”: “Lúc bấy giờ một người Ai cập tự xưng là tiên tri đến tại Giêrusalem và khuyên bảo dân chúng cùng với ông tiến về núi cây dầu đối diện với thành phố cách xa năm dặm. Thật vậy, ông đã nói cho dân chúng rằng: theo lệnh truyền của ông, các bức thành Gierusalem sẽ sụp đổ và từ đó ông hứa sẽ khai thông cho họ một lối đi”.
Như thế, vào thời Chúa Giêsu và các tác giả phúc âm, có lẽ sấm ngôn của Zac 14,4 đã được liên kết với cách trình bày quen thuộc về biến cố thiên sai. Trong sách chú giải (midrash haggadique) “Sepher Eliyahu”, ta nhắc lại tầm quan trọng của chương 14 Zac trên các bản văn thiên sai khác của Cựu ước mà núi Cây Dầu (c.4) là trung tâm điểm. Từ đó, ta nhận ra ý nghĩa thiên sai trong trình thuật của Mc nói về hoạt động của Chúa Giêsu tại Giêrusalem và việc Ngài cùng với các môn đệ lưu lại trên núi Cây dầu (Mc 11,11tt).
2. Bêthania và Bethphagé
Cũng như vị trí của chúng trên bản đồ, nguyên ngữ của 2 địa danh thật có lợi cho việc tìm hiểu bản văn. Bêtania (tiếng Do thái: Bet – ani) có nghĩa là “nhà của người nghèo”, “của người khiêm nhu” hay “của người đau khổ”: trong mạch văn của Mc nói về việc tiến vào Giêrusalem (nghĩa là toàn thể trình thuật khổ nạn), các ý nghĩa của địa danh này rất quan trọng. Dù được dân chúng tung hô, Chúa Giêsu không dừng lại ở Giêrusalem; ngay buổi tối sau khi vào thành cách trọng thể (Mc 11,11), Ngài lui về Bêtania.
Bethphagé (theo tiếng aramêô: Bet-pagge) có thể hiểu là “nhà của trái vả”, đây là một dữ kiện khác cần chú ý, nếu ta biết rằng trong Mc, những đoạn nói về việc vào thành Giêrusalem và việc trú ngụ ban đêm ở Bêthania được tiếp nối bằng đoạn nói về cây vả không có trái (11,12-14).
3. Con lừa
Thời cổ xưa ở Trung Đông, con lừa được gắn liền với thần thoại và tế tự thần linh, chẳng hạn thần thoại Ai Cập của Typhon (hay Set) thần sự dữ, đối thủ của Osiris, thần sự lành. Trong thần thoại này con vật linh thánh của Typhon là con lừa. Lừa vẫn là con thú thần Dionysios cưỡi …
Trong Cựu ước, con lừa có mặt trong nhiều trình thuật của truyền thuyết các tổ phụ; nó cũng là con vật để vua cưỡi và từ đó là con vật để đấng Messia cưỡi. Cần phải trích dẫn hai bản văn được truyền thống Do thái giải thích theo hướng thiên sai: sấm ngôn của Giuda trong St 49,11: “người cột lừa con vào gốc nho…” và Zac 9,9: “Này đây vua ngươi đến với ngươi, Ngài công minh, chiến thắng, khiêm tốn cưỡi trên lừa mẹ”.
Văn chương chú giải (midras) liên kết hai bản văn này trong các bài giảng giải về Đấng Messia và việc Ngài đến. Ta có thể đọc thấy trong Bereshit Rabbah 98 như sau: “người cột lừa con vào gốc nho…” (St 49,11). Câu này được các thầy giải nghĩa là: Thiên Chúa phán: “Ta cột vào vườn nho (nghĩa là Israel) và vào trái nho của thành nó (tức là Giêrusalem) một con lừa con, để khi Đấng (được Zac 9,9 gọi là Đấng khiêm tốn và cưỡi lừa) sẽ đến…”
Chắc hẳn giáo huấn này được viết ra nhiều năm sau khi phúc âm đã được biên soạn. Nhưng các phản ứng thần học đã ảnh hưởng đến việc hình thành và truyền đạt các phúc âm cũng có thể giúp chúng ta đang nghiên cứu.
4. Con vật linh thánh, chưa bao giờ được dùng
Chi tiết này chỉ được Mc và Lc minh nhiên ghi nhận. Dưới ánh sáng lịch sử các tôn giáo, người ta thấy được ý nghĩa linh thánh của con vật chưa bao giờ được sử dụng. Con vật được dùng cho việc hiến tế hay cho việc thánh, phải là thanh khiết, chưa bị xử dụng cách trần tục. Văn chương ngoại giáo làm chứng điều đó, như đoạn “Metamorphoses” của Ovide sau đây: “Phoebus nói cùng con là Agénor rằng: con sẽ gặp trong các cánh đồng trơ trụi một con bò cái tơ chưa bao giờ mang ách và kéo cày. Con hãy theo đường nó đi và trong các đồng cỏ xanh tươi nơi nó nghỉ ngơi, con hãy đào móng xây thành lũy và đặt tên là Béotien”
Mệnh lệnh Chúa Giêsu ban cho các môn đệ có thể xuất phát từ một văn mạch như thế, nhưng nhất là được trực tiếp cảm nhận từ khoản luật trong kinh thánh mà Ds 19,2 ghi lại: “Một con bò cái…không tì ố, và chưa bao giờ mang ách…” (X.Đnl 15,19; 21,3; 1S 6,7).
5. Dư âm lễ đăng quang trong Kinh thánh
Trình tuật về việc vào thành Giêrusalem nhắc lại nhiều bản văn Cựu ước, như 2V 9,13: “Lập tức, họ lấy áo trải ra, đồng thời thổi tù và và hô lớn: Jehu là Vua”, nhưng nhất là 1V 1,13: khi Đavit ban các lệnh liên quan đến việc tấn phong Salomon: “Hãy đem đội thị vệ, hãy đưa Salomon con ta lên ngồi trên lưng con la riêng của ta và rước về Gihôn”.
Động từ “épibibazô” (đưa lên) chỉ tìm thấy trong Tân ước nơi Lc và Công vụ (Lc 10,34; 19,35; Cv 23,24). Động từ này còn có trong trình thuật của Lc nói về việc vào thành Giêrusalem (19,35): “Họ đưa Chúa Giêsu lên” (epibizah). Còn ba tác giả phúc âm kia viết: “Ngài ngồi” (ékathisen: Mt 21,7; Mc 11,7; Ga 12,14).
6. Việc “giá lâm” của các hoàng đế Hy lạp
Không thể tách rời Mc 11,1-10 và các bản song song khỏi bối cảnh các cuộc tiếp đón hoàng đế trong các đô thị Hy lạp. Bản văn sau đây trích từ cuốn “Guerre des Juifs” của F.Josèph là một ví dụ sống động: “Khi biết Titus gần đến, dân Antiokia vui mừng, không chịu ở lại trong thành; tất cả đổ xô ra đón hoàng tử. Họ đi gần ba mươi dặm, và không chỉ đàn ông thôi, nhưng cả đàn bà và con nít nữa. Khi thấy Titus tiến đến, họ đứng hai bên đường, đưa tay phía hoàng tử và hoan hô, rồi theo hoàng tử vào thành, vừa đi vừa chúc tụng. Thành ngữ “ra đón” được thấy lại hầu như nguyên văn trong trình thuật của Gioan nói về việc vào thành Giêrusalem (Ga 12,13; x. Mt 8,34 và 25,1)
Trong thế giới Hy la, cuộc tiến vào đó là một phần trong nghi lễ “giá lâm” (Parousia); “Giá lâm” là việc nhà vua chính thức thăm viếng một tỉnh hay một thành phố. Vào thời tôn thờ hoàng đế, từ ngữ này mang một ý nghĩa vừa chính trị vừa tôn giáo. Trong chiếu chỉ của một thành thuộc vương quốc Pergame, có đoạn viết: “Các tư tế nam nữ phải tiến ra đón hoàng đế”. Vì thế, L.Kerfaux đã có thể viết: “Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem có cùng một đặc điểm như việc Messia viếng thăm kinh đô của Ngài”
7. Hosanna
Các câu 25 và 26 của thánh vịnh 118 đều được cả bốn tác giả phúc âm trích dẫn và được sửa chữa theo quan niệm riêng của mỗi vị (Mt 21,9; Lc 19,38; Ga 12,13). Thánh vịnh 118 là thánh vịnh cuối cùng của “Hallel” là chữ mà một hội đường xa xưa gán cho một nhóm thánh vịnh (113-118). Những thánh vịnh này được dùng để ca tụng Thiên Chúa trong một vài đại lễ hay hành hương (dịp lễ Vượt qua, ngũ tuần, trong tám ngày Lễ Lều và Cung hiến), vào lúc hiến tế ban sáng. Điệu hát của “Halleluia” đặc biệt nhấn mạnh nghi lễ vượt qua, nhất là nghi thức bữa tiệc (x. Mt 26,30; Mc 14,26)
Trong dip lễ lều, điệu hát này mang một vẻ rất long trọng. Sau một vài câu, cả hội đường lắc “lulab” là bó hoa gồm nhiều lá dừa và lá liễu, theo như Lv 23,40 (những nhánh của “lulab” đôi lúc gọi là “hosanna”). J.T.Nelis viết: “Vào thời Tân ước, cuốn biên khảo Sukkat (3,9) đã ghi lại một vài tập tục đặc biệt. Trước hết người ta lắc “lulab”. Nghi thức này xuất hiện lúc hiến tế ban sáng, khi các thày Lêvi xướng Halleluia, bắt đầu thánh vịnh 118 và khi họ hát đến câu 25 và 28 của thánh vịnh đó (x. 2M0,7)
“Hosanna” là phiên âm Hy lạp của tiếng arameô “hosha-na” dịch từ tiếng Hy bá “hoshi”a-(n)na” có nghĩa “hãy cứu”. Tiếng này nói lên lời van nài liên lỉ hay lời tung hô có tính cách phụng vụ. Trong Lễ Lều, đó là lời xin trời đổ mưa; nhưng trong các phúc âm, đó là tiếng ngợi khen: “Cũng như chữ Halleluia, Hosanna là từ ngữ trong phụng vụ Kitô giáo thời biên soạn phúc âm”, P.Bonnard đã viết như thế.
8. Đấng đang đến
Cũng như trong Mt 11,2 và Lc 7,19 (việc Gioan sai các môn đệ mình đến cùng Chúa Giêsu), phân từ: ho erchomenos, đấng đang đến, chắc chắn nhắm đến Đấng Messia. Tuy nhiên cách ám chỉ Messia như “Đấng đang đến” không phải là thường xuyên. Sau khi được dùng làm tước hiệu của Đấng Messia, phân từ này chắc chắn đã góp phần vào việc móc nối St 49,10-11 (vương trượng không rời xa Giuda…cho tới khi Ngài đến…Ngài cột lừa vào gốc nho …) với Zac 9,9 “Này đây vua ngươi tiến đến cùng ngươi”.
9. Lá vạn tuế
Chỉ Gioan nói đến lá vạn tuế. Như đã nói, theo Lv 23,40 và những dư âm sau này trong Do thái giáo. Những cành lá vạn tuế làm thành “lulab” được dùng đến trong lễ lều (so sánh với Neh 8,15). Liên hệ giữa lá vạn tuế với Lễ Lều Tạm được thấy trong việc trang hoàng nhà hội Do thái cổ xưa.
Việc dùng lá vạn tuế có một lịch sử lâu dài, có liên hệ với tiền tệ, và ý nghĩa tượng trưng của nó thay đổi tùy không gian và thời gian. Người ta thấy hình lá vạn tuế trên đồng tiền của Vespasien và Nerva, để kỷ niệm cuộc chiến thắng các người Do thái nổi loạn lần thứ hai, đồng tiền của họ có hình lá vạn tuế, ám chỉ một hoài bão hy vọng dân tộc sẽ chiến thắng. Theo các nguồn văn chương sau này, cây vạn tuế là biểu tượng của Israel, trước cuộc nổi loạn lần thứ nhất (dưới thời vua Hêrođe Antipas) biểu tượng của cây này không có tính cách chính trị.
Việc dùng lá vạn tuế trong phụng vụ đưa chúng ta trở lại thời hưng thịnh của chủ nghĩa quốc gia của Macabeô. Tiếng Baion (“cành vạn tuế”) chỉ tìm thấy trong thánh kinh nơi 1M,51 khi nói về Simon vào thành Giêrusalem cách khải hoàn: “Dân Do thái vào (thành thánh) ngày 28 tháng thứ hai năm 171 với những tiếng hoan hô và cành lá vạn tuế… vì một đối phương vĩ đại đã bị đuổi xa khỏi Israel.
Còn tiếng phoinix (cây vạn tuế, lá vạn tuế), nếu được dùng nhiều lần trong Cựu ước, thì trong Tân ước chỉ có ở Ga 12,13 và Kh 7,9. Sách Macabê thứ hai nhắc đến nó trong nghi thức Cung hiến, nghi thức được thiết lập để kỷ niệm việc tinh luyện và cung hiến đền thánh sau chiến thắng của Macabeô (x. 1M 4,54tt). Nghi lễ đã dựa vào nghi thức của lễ lều tạm: “Họ hân hoan dâng lễ trong suốt 8 ngày theo cách lễ lều tạm…cầm những cành cây và lá vạn tuế (phoinikas), họ dâng lên lời ca lên Đấng đã thanh luyện thánh điện của Ngài” (1M 10,6-7).
Thành ngữ “cành lá vạn tuế” (baia phonikon) của Gioan được giữ lại nguyên văn trong ngụy thư (“Testament de Nephtali” 5,4-5). Đoạn ngụy thư này kể lại việc trao lá vạn tuế cho Lêvi như là biểu tượng uy quyền của ông trên toàn Israel. Vậy chắc chắn lá vạn tuế nói lên cuộc chiến thắng, cuộc khải hoàn vương đế và đồng thời biểu hiện cho quyền uy của Israel. Nhưng nhờ việc rung hoa (lulab) lá vạn tuế cũng có tương quan với việc cử hành lễ nghi phụng vụ.
Việc nghiên cứu trên đây giúp chúng ta hiểu thêm các tài liệu mà 4 trình thuật của 4 phúc âm đã dùng để ghi lại việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Mỗi một trình thuật nói lên một mầu sắc sống động về Đấng thiên sai: việc nhìn núi Cây dầu với tất cả ý nghĩa Do thái của nó, hình ảnh con lừa với những truyền thuyết về nó, kể cả tước hiệu “Đấng đang đến”. Mỗi tác giả phúc âm làm nổi bật màu sắc đó tùy cảm thức và ý hướng riêng tư của mình. Như vậy, Lc phản ảnh các trình thuật cổ xưa về việc đăng quang hay phong vương trong kinh thánh, còn Gioan cảm hứng từ những nghi lễ “Giá lâm” của các hoàng đế Hy la.
Là một biến cố thiên sai, cảnh này cũng mặc lấy, trong bốn phúc âm, một đặc tính phụng vụ không thể chối cãi. Việc trích dẫn thánh vịnh 118 làm liên tưởng đến các đại lễ lớn của Israel và điệu hát “Halleluia”. Việc nhắc đến lá vạn tuế, chỉ có nơi Gioan, hình như muốn xác định đó là một cử hành có tính cách quốc gia và do đó có tính cách chính trị hơn.
Dù giống hay khác nhau, tất cả những dữ kiện này chỉ là cái đà giúp giải thích các bản văn đứng đắn hơn.
(người dịch đã bỏ 3 trình thuật kia vì không có trong năm C. Xin xem chú giải phúc âm Chúa nhật năm A,B)
II. TRÌNH THUẬT LUCA 19, 28-40
1. Không tiến vào thành Giêrusalem
Trong phần đầu của trình thuật (c.28-35), Lc theo khá sát bản văn Mc, nhưng có sửa đổi đôi chút. Các câu 37-40 thì thuộc một nguồn cảm hứng khác và tạo cho toàn thể diễn từ Lc nét độc đáo và sống động riêng biệt.
Trước hết, cần để ý rằng Lc không nói đến cuộc “tiến vào thành Giêrusalem”. Ông chỉ nói (c.28 và 41) Chúa Giêsu tiến về hướng hay tới gần thành ấy. Chính “trong đền thờ” (c.45, eis to hieron) mà tác giả phúc âm mới đưa Chúa vào. Nhận xét này thật quan trọng đối với toàn bộ tác phẩm Lc; thật vậy, phúc âm thứ ba bắt đầu và kết thúc trong đền thờ (chương 1 và chương 24,53).
Một nét khác đáng chú ý trong câu đầu của trình thuật là việc dùng tiếng Hy lạp “Hierosolyma” để chỉ thành thánh. Lc ít dùng chữ đó hơn các tác giả phúc âm khác. Tiếng ông quen dùng là tiếng “Hierousalêm”, là chữ chỉ gặp được một lần nơi ba tác giả phúc âm khác, trong Mt 23,27 (ngược lại: 26 lần trong Lc và 39 lần trong Cv). Hình như Lc dùng chữ “Hierousalem” khi muốn nói đến ý nghĩa thần học của Thành, nghĩa là khi muốn nói nó đóng một vai trò rõ ràng trong lịch sử cứu rỗi mà Chúa Giêsu là trung tâm.
Luật trừ này còn củng cố luật chung không? Và phải chăng Lc muốn lưu tâm đến đền thờ hơn Giêrusalem? Nếu có, thì tại sao? Những phân tích sau đây sẽ trả lời. Một hiện tượng tương tự đã xảy ra trong trình thuật dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (2,22tt). Trình thuật này là đoạn duy nhất (trong 6 đoạn của các chương 1-2) dùng chữ Hy lạp “Hierosolyma”. Không phải chính trong đền thờ mà Simeon “đã được Thánh Thần thúc đẩy” (2,27) đi đến gặp Chúa Giêsu đang được cha mẹ bồng đến…để làm theo điều lệ Luật dạy” và loan báo “ơn cứu độ” (2,30) đã đến cho muôn dân sao ?
Đàng khác, Lc 19,28-40 là dư âm của Lc 13,35: “Nhưng Ta bảo các ngươi, các ngươi sẽ chẳng thấy Ta cho đến khi các ngươi nói: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Câu này thật đáng lưu ý vì là câu kết luận lời than trách Giêrusalem (“Giêrusalem, Giêrusalem…”). Mt đặt lời than trách này (được kết thúc như nơi Lc bằng Thánh vịnh 118,26), ngay trước bài diễn từ cánh chung, nghĩa là sau việc tiến vào thành Giêrusalem (23,37-39). Bây giờ, cần phải rút tỉa mối tương quan giữa Lc 13,35 và Lc 19,28-40.
Câu 37 là một câu có nhiều chi tiết đặc biệt của riêng Lc. Trước hết, là việc nói đến núi Cây Dầu mà ông đã tiên báo trong c.29 (x. Mt và Mc song song): việc ghi lại địa danh này cho thấy một biến cố mới sắp bắt đầu. Cũng thế, động từ “đến gần” (“khi Ngài đã đến gần”, eggizontos de autou) cũng chỉ là lặp lại của c.29 (“khi Ngài đã tới gần” hôs êggisen)
Thành ngữ “tất cả đoàn lũ” (hapan to plêthos) cũng đặc biệt thuộc về Lc. Từ ngữ “đoàn thể các môn đồ” (to plêthos tôn mathetôn) trong Cv 6,2 được dùng để chỉ cộng đoàn Kitô hữu. Liên quan giữa phác âm thứ ba và Cv rất hữu ích để hiểu rõ Lc 19,37. Thật vậy, trong toàn bộ tác phẩm Lc, Kitô học và giáo hội học xem lẫn nhau ở mỗi một trang, đến nỗi cần phải đọc Lc và Cv một lượt mới có thể hiểu rõ hệ thống các ý nghĩa tạo nên tác phẩm của ông. Như thế, người ta tự hỏi phải chăng trong Lc 19,37, “đoàn lũ môn đệ” đã không ám chỉ cộng đoàn tín hữu của dân Thiên Chúa mới, được Chúa Giêsu thành lập sao?
Động từ “ca ngợi” cũng là của riêng Lc. Mối liên lạc giữa động từ “ca ngợi” và “thấy” thật đáng lưu tâm; người ta còn thấy liên lạc này nơi khác, chẳng hạn trong Lc 2,20; 18,43 và Cv 3,9. Bảng sau đây nêu lên tương quan mật thiết giữa bốn bản văn:
Lc 2,20Lc 18,43Lc 19,37Cv 3,9
Các mục đồng (1)Toàn dân (1)Đoàn lũ môn đồ (1)Toàn dân (1)
tôn vinh vàthấy vậy (4)bắt đầu…thấy nó đi (4)
ca ngợi (2)ngợi khen (2)ca ngợi (2)và ngợi khen (2)
Thiên Chúa  (3)Thiên Chúa (3)Thiên Chúa (3)Thiên Chúa (3)
vì mọi điềuvì mọi phép lạ
đã được nghehọ đã được thấy (4)
và thấy
Mỗi đoạn đều được kết cấu bởi bốn yếu tố giống nhau: chủ từ (1) thay đổi nhưng có một chủ từ được lặp lại (Lc 18 và Cv) mỗi khi nói đến việc chữa bệnh: “toàn dân”; một đối tượng không thay đổi: “Thiên Chúa” (3); một hoạt động (2): “Ngợi khen” (Thiên Chúa); và một động lực (4) diễn tả qua động từ “thấy” (những công việc của Thiên Chúa). Thiên Chúa là đối tượng của lời ngợi khen, và vì các sự nghiệp vĩ đại Ngài thực hiện, Ngài cũng là nguồn mạch và nguyên nhân của việc ngợi khen đó.
Như thế, theo nhãn giói của Lc, Chúa Giêsu và các tín hữu liên đới với số phận Ngài đã không muốn vào Giêrusalem như một ông vua vì những hoài bão trần tục. Vì vậy, người ta hiểu được lý do tại sao Lc đã bỏ việc tiến vào thành Giêrusalem và qua đó ông đã làm nổi bật việc tiến vào đền thờ, nơi cư ngụ của Thiên Chúa; và hiểu được tại sao Tv 118,26 (“chúc tụng Đấng…”) được trích ra ở đây lần thứ hai và lần cuối cùng khác hẳn với Mt. Tiếng “cho đến khi” của Lc 13,35 đã đạt đến mục đích và cao điểm của nó ở đây rồi.
2. Những nhân vật của một phụng vụ thiên quốc
Câu 38 với công thức “Ngài là Vua” (ho Basileus), chắc chắn là chìa khóa để hiểu đoạn này. Ý nghĩa và tầm quan trọng của tước hiệu này – khác hẳn nơi Mt, Mc và Ga – được hiểu nhờ câu 37 (đã được phân tích) và câu 38b: “Bình an trên trời và vinh quang trên chốn cao vời”. Tính cách song song đối với Lc 1-2 ở đây còn rõ ràng hơn nữa:
Lc 2,13-14Lc 19,37-38
Đoàn lũ (plêthos) cơ binhĐoàn lũ (plêthos)
trên trời…môn đồ…
Vinh quang Thiên ChúaBình an trên trời
trên trời cao thẳm
và bình an dưới đấtvà vinh quang trên
cho kẻ người thươngchốn cao vời
Đầu đời cũng như cuối đời Chúa Giêsu, khung cảnh đều như nhau. Chắc chắn có tương quan giữa “đoàn lũ (plêthos) cơ binh trên trời” và “đoàn lũ (plêthos) môn đồ”; trong cả hai trường hợp, người ta đang đứng trước các nhân vật của một phụng vụ thiên quốc. Ngoài ra, Lc là tác giả phúc âm duy nhất đã loại bỏ chữ “Hosanna” trong trình thuật tiến lên Giêrusalem (19,38) như để tránh những gì có thể gợi lại những cuộc hành hương trần tục và những âm hưởng chính trị. Nhưng qua những dấu chỉ cho thấy mối liên hệ giữa hai bản văn này (“vinh quang… trên các tầng trời”) cần phải để ý những gì tạo nên sự khác biệt giữa hai bản văn. Một bên, “bình an dưới đất” (2,14), một bên, “bình an trên trời” (19,38). Trong động lực duy nhất mạc khải vinh quang Thiên Chúa, người ta thấy hai chuyển động tự hạ và nâng lên. Cũng thế, “Thiên Chúa” (2,14) nhường chỗ của ngài cho “Vua” (trong 19,38): đây là một thay đổi tất có ý nghĩa. Cũng vậy, những lời chúc tụng và vinh quang đi từ miệng các thiên thần (2,14) sang miệng “các môn đệ” (19,38); qua sự kiện này, các môn đệ vừa thay thế mục đồng, vừa thay thế các thiên thần. Xa nhau khi Chúa Giêsu tự hạ sinh ra ở Belem, hai loại người này giờ đây, lúc Ngài được nâng lên, nối kết thành một, thành “đoàn lũ môn đệ”, nghĩ là, như trong Cv 6,2, các tín hữu của Chúa Giêsu Kitô. Bảng sau đây nêu rõ các yếu tố này:
Lc 2,14.20Lc 19,37-38
Cơ binh trên trời (c.14)Đoàn lũ môn đệ (c.37)
  * vinh quang trên trời cao thẳm  * thấy hết các phép lạ
        / Thiên Chúa
  * bình an dưới đất cho người  * ngợi khen Thiên Chúa
Các mục đồng (c.20)Đoàn lũ môn đệ (c.38)
  * thấy mọi điều  * vinh quang trên chốn cao vời
         / Vua
  * ngợi khen Thiên ChúaBình an trên trời
Văn mạch của đoạn Lc 19,28-40 có liên hệ đến bản văn diễn tả lại cách độc đáo việc tiến vào thành Giêrusalem đó. Câu 28 (“Nói thế rồi…”) liên kết trình thuật này với dụ ngôn các Yến bạc (19,11-27) là dụ ngôn riêng của phúc âm thứ ba. Lời nhập đề của dụ ngôn này cho thấy dụ ngôn muốn diễn tả một cách ẩn dụ (allégoriquement) việc Chúa Giêsu Kitô được nâng lên (c.12), biến cố mà trình thuật Lc về việc tiến vào (hay đúng hơn: việc – không – tiến – vào) Giêrusalem không còn là lời ẩn dụ (allégorie) mà là trình thuật tiên báo, tiên báo việc nâng lên đích thật của ngày phục sinh.
Bản Pháp ngữ của André Paul
Assemblées du Seigneur số 19.
 D/ Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
BƯỚC THEO CHÚA GIÊSU KHỔ NẠN VÀ PHỤC SINH
SUY NIỆM LỄ LÁ – NĂM C
(Lc 22, 14-23, 56)
Khai mạc Tuần Thánh với nghi thức làm phép Lá, kiệu Lá kèm theo những bài hát reo hò vang dội phấn khởi mừng vui. “Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 36-38). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô Thế Tử nhà Đavít…” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Toàn bộ sứ mạng của Người Tôi Tớ Đau Khổ được Isaia tóm lại: lắng nghe để huấn luyện, huấn luyện để loan báo: “Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn … Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.” (x. Is 50, 4-7).
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, chia sẻ tất cả vinh quang của loài người và vinh quang Thiên Chúa: “Đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (Pl 2,7). Là con người, một tạo vật có giới hạn trong thời gian, gắn liền với khổ đau, ngược đãi và bị giết chết. Trở nên giống phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi. Dù là Đấng vô tội, Chúa Giêsu đã khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành Con của loài người, để liên đới với chúng ta là những người tội lỗi. Không những thế, Người đã sống giữa chúng ta trong một “điều kiện của kiếp nô lệ”: không phải như là vua, cũng không phải là ông hoàng, nhưng là nô lệ. Người đã hạ mình, và vực thẳm sự hạ mình của Người mà Tuần Thánh cho chúng ta thấy xem ra không có đáy, “vâng lời cho đến chết” (Pl  2,8), đành mất tất cả để có được vinh quang trở về với Thiên Chúa.
Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế nhạo, xỉ vả, và khạc nhổ,  thân xác phải chịu đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến cho diện mạo của Người không còn hình tượng người ta nữa. Trước quyền bính tôn giáo và chính trị: Ngài đã tự biến thành tội nhân và bị coi là bất chính.
Sau khi bị bán với 30 đồng bạc và bị phản bội bởi một môn đệ Người đã chọn và gọi là bạn. Người bị nộp vào tay kẻ dữ, bị mạc cả với kẻ sát nhân, phải vác thánh giá nặng nhục nhã và bị nhạo báng như tên nô lệ. Người khiêm nhường đến độ không còn được tôn trọng. Người đã tự hủy mình ra không, không còn sức để vác cây thập giá. Người đã cảm nhận trên da thịt mình sự dửng dưng, bởi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối với số phận của Người. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo, thích cho kẻ sát nhân được trả tự do cho họ hơn. Và thế là Chúa bị chết trên thập giá, là cái chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho các kẻ phản bội, nô lệ và các kẻ tội phạm tồi tệ nhất.
Chúa không đòi cho mình một đặc quyền đặc lợi nào, chẳng là gì trước sự tàn bạo của binh lính, kể cả Simon người Cyrênê, Chúa cũng chẳng là gì, ông kề vai vác đỡ, chẳng qua ông bị bắt vác mà thôi. Ông không biết ý nghĩa, cử chỉ vác thánh giá này. Những người nhạo báng hay tên lính lấy bọt biển nhúng giấm cho Chúa uống, họ có hiểu được không?
Ba năm mỏi chân đi giảng đạo cho muôn dân, với những phép lạ Chúa không giúp cho họ khám phá con người thật của Chúa Giêsu. Trong vườn Cây Dầu, một mình đối diện với Chúa Cha, Chúa không xin điều gì: ngoại trừ xin ơn tha thứ cho những ai làm khốn mình, vì Chúa đến để mang ơn tha thứ cho mọi người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34).
Cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu có hai tên trộm cướp, một đứa bên trái, một đứa bên phải. Một kẻ nhạo báng Chúa, còn kẻ kia thừa nhận mình là kẻ có tội: “Chúng ta phải chịu xứng với việc chúng ta đã làm” (Lc 23, 41).
Một trong hai tên trộm thưa Chúa Giêsu rằng:  “Xin nhớ đến tôi cùng…” (Lc 23, 41). Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23, 42). “Vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín…màn trong đền thờ xé ra” (Lc 23,44-45). Chúa Giêsu trút hơi thở trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha và từ nay, chắc chắn Người là tác nhân Phục Sinh, hoàn tất điều có thể trao ban. Lòng thương xót của Chúa chạm tới con tim của viên quản bách quân, khiến anh ngợi khen vinh quang Thiên Chúa, và đám đông cảm thấy nhu cầu cần thiết phải được tha thứ liền đấm ngực ăn năn trở về mừng lễ Vượt Qua.
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành các mầu nhiệm thánh, Chúa đã ban cho chúng con được thỏa chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước. Amen.
ShareTweet

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Thứ Bảy, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Bảy, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần VII Phục Sinh

Bài Viết Mới

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần X Thường Niên.

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần X Thường Niên.

Thứ Ba, Tuần X Thường Niên

Thứ Ba, Tuần X Thường Niên

Giáo Xứ Đại Lộc (Bảo Lộc): Thánh Lễ Tạ Ơn Hồng Ân Vĩnh Khấn Của Hai Nữ Tu

Giáo Xứ Đại Lộc (Bảo Lộc): Thánh Lễ Tạ Ơn Hồng Ân Vĩnh Khấn Của Hai Nữ Tu

Sa mạc Horeb 53: Nơi Ngọn Lửa Bùng Cháy

Sa mạc Horeb 53: Nơi Ngọn Lửa Bùng Cháy

BẢN TIN GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT – Từ ngày 01/06 đến ngày 08/06.

BẢN TIN GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT – Từ ngày 01/06 đến ngày 08/06.

Hiệp Thông: Bà Cố CATARINA BÙI THỊ HỘI

Hiệp Thông: Bà Cố MARIA TRẦN THỊ MÙI (TỤ)

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 09 Nguyễn Thái Học – Tp. Đà Lạt – Lâm Đồng – Việt Nam
– Điện thoại: 0918.525.019
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
    • Văn Kiện Giáo Phận
    • Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi