Họ bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh,
lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao”
(Lc 24,32)
BÀI ĐỌC I: Cv 2, 14. 22-28
“Không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Đức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng Đavít đã nói về Người rằng: ‘Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa’“.
ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Đáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh (c. 11a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: “Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con”. – Đáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. – Đáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Pr 1, 17-21
“Anh em được cứu độ bằng Máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu anh em gọi Người là Cha, Đấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.
TIN MỪNG: Lc 24, 13-35
13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Chúa Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”.
19 Chúa Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.
25 Bấy giờ Chúa Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao”
27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Chúa Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.
32 Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao”
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”. 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
GIẢI ĐÁP CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra trao cho họ, mắt họ mở ra và họ nhận ra Người… Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,30-32)
Suy niệm: Đức Ki-tô Phục Sinh xuất hiện trên đường như một lữ khách. Người đã giải thích cuộc đời mình dưới ánh sáng Kinh Thánh. Việc duyệt lại đời Ngài giúp hai môn đệ Em-mau duyệt lại đời mình. “Lòng ta đã chẳng bừng cháy khi nghe Người giải thích Kinh thánh trên đường chiều đó sao?” Qua cuộc đàm thoại và chuyến hội ngộ bên quán trọ chiều hôm ấy, với những cử chỉ thân quen của Chúa “cầm lấy bánh bẻ ra”, họ đã nhận ra người đã chết nay là Đấng hằng sống. Tháng ngày quá khứ dường như đã chết của họ nay lại hồi sinh. Chỉ khi nhận ra Chúa Phục sinh, cuộc đời mới trở thành niềm vui.
Mời Bạn: Đức Ki-tô vẫn luôn hiện diện Người đồng hành với chúng ta trên khắp nẻo đường đời. Hãy đọc cho ra mặc khải Chúa trong Thánh Kinh, sẽ thấy lửa đức tin bừng sáng lên, dù có xuôi vạn lý, cũng không thấy đường đời đơn côi. Đức tin không phải là một mớ kiến thức học được trong sách vở, nhưng là cuộc gặp gỡ cá vị và trực tiếp với Đức Ki-tô. Lời Chúa làm đảo lộn tâm hồn, Thánh Thể giúp ta tiếp nhận sự sống đời đời của Đấng Phục Sinh.
Chia sẻ: Bạn đã giúp gia đình bạn cầu nguyện và sống lời Chúa thế nào?
Sống Lời Chúa: Kiên trì đọc Lời Chúa mỗi ngày và xin cho Lời Chúa biến đổi giúp bạn bỏ đi một tính xấu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, vì Lời Chúa là sức sống đời con, là ánh sáng đời con, là đường để con hằng đi tới. Amen.
B/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
CHÚA VẪN LUÔN HIỆN DIỆN
Sau khi phục sinh, nhiều lần Chúa Giêsu hiện đến với các chứng nhân trong những hoàn cảnh khác nhau. Chúa hiện đến với Maria Madalena khi chị khóc bên mộ Chúa; Chúa hiện đến với các Tông đồ, đang khi các ông còn sợ hãi nhốt mình trong nhà tiệc ly; và, Chúa hiện đến với hai môn đệ trên đường về Emmau.
Hai môn đệ này, không thuộc nhóm 12 Tông đồ, nhưng thuộc nhóm 72 môn đệ, được chính Chúa Giêsu kêu gọi và sai đi loan báo Tin Mừng. Hẳn là các ông đã được sống với Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Đặc biệt, các ông đã nghe Chúa loan báo cuộc vượt qua Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Nhưng bấy nhiêu sự ấy, hai môn đệ này đã quên hết, trong lòng họ bây giờ chỉ còn một nỗi thất vọng ê chề.
Tại sao mà họ thất vọng? Thưa, vì họ đã không tin vào Kinh Thánh, Lời Chúa báo trước: “…ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Họ cũng không tin vào lời các nhân chứng loan tin vui Chúa đã phục sinh. Và có lẽ, họ thất vọng vì đã hy vọng Chúa Giêsu sẽ giải phóng Israen bằng vũ lực. Cho nên, việc Chúa chết đến nay đã là ngày thứ ba, làm tiêu tan mộng bá vương của các ông; không còn gì để mà hy vọng nữa; thôi đành về quê, ta làm lại từ đầu.
Hai môn đệ rời bỏ Chúa, rời bỏ Cộng đoàn. Nhưng Chúa không bao giờ bỏ các ông, Chúa đi tìm, đi cùng, kiên nhẫn lấy Lời Hằng Sống mà mở đôi tai lòng cho các ông, lấy bánh trường sinh mà mở mắt đức tin cho các ông, nhờ đó mà hai môn đệ đã nhận biết Chúa phục sinh.
Hành trình của hai môn đệ trên đường Emmau, cũng là hành trình đức tin của chính chúng ta hôm nay. Như hai môn đệ, chúng ta cũng được Chúa kêu gọi và sai đi loan báo Tin Mừng. Hằng ngày, ta được Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng Mình Máu thánh Chúa, được ban tràn trề ơn thánh qua Hội thánh Công giáo. Vậy đó, nhưng đức tin của ta dường như vẫn còn khô khan, lạnh nhạt, có khi đức tin ấy tắt lịm trước những gian nan thử thách, trước những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý và khoái lạc trần gian.
Hai môn đệ Emmau cho ta kinh nghiệm để làm bừng lên đức tin, đó là cùng nhau chú tâm lắng nghe, suy ngẫm, Lời Chúa – Lời Hằng Sống, cùng nhau tham dự tiệc Thánh Thể – thần lương nuôi sống linh hồn. Đặc biệt, như môn đệ, ta “Xin Chúa hãy ở lại với con” trong những gian nan thử thách này; “Xin Chúa hãy ở lại với gia đình con” trong lúc cơm không lành canh không ngọt này; “Xin Chúa hãy ở lại với Hội thánh, với thế giới của chúng con” trong hoàn cảnh rối reng này. Có như thế, ta mới nhận ra Chúa vẫn đang hiện diện nơi tha nhân, nơi mọi biến cố buồn vui trong đời. Chúa không bao giờ bỏ ta một mình, Người đang đồng hành và nâng đỡ ta trên con đường tiến về Thiên quốc. Và như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã cảm nghiệm được tình yêu dịu dàng của Chúa Kitô phục sinh, chúng ta dám trỗi dậy, cộng tác với anh chị em, đem Tin Mừng yêu thương đến với mọi người, ở mọi nơi, và suốt cuộc đời.
C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CÓ CHÚA CON CÒN SỢ CHI AI?
I. TRÊN ĐƯỜNG ĐI LÀNG EMMAU
Khi Đức Giêsu Phục sinh, không ai được chứng kiến việc Ngài sống lại, nhưng có một số người được thấy Ngài khi Ngài hiện ra với họ. Ngài đã hiện ra với Maria Mađalena, với Phêrô và Gioan, với 10 người, rồi với 500 môn đệ cùng một lúc. Nhưng trong các lần hiện ra, không có lần nào được các thánh sử ghi lại một cách sống động và nhiều chi tiết rõ ràng như khi thánh Luca ghi lại câu chuyện Đức Giêsu đi với hai môn đệ đến làng Emmau.
1. Vị trí làng Emmau
Emmau là quê hương của hai môn đệ mà hôm nay hai ông trở về sau cái chết của Đức Giêsu. Ngày nay chúng ta khó mà đặt được vị trí cho làng nhỏ này. Các bản văn không hợp nhau về dậm đường xa. Có bản viết Emmau nằm về phia tây bắc Giêrusalem và cách đó 60 dậm, có bản viết cách 160 dậm. Mỗi dậm đường là 185 mét. Nếu nhận Emmau cách Giêrusalem 160 dậm thì khoảng cách là 29 cây số, như vậy thì làm sao hai môn đệ có thể trở về ngay trong một ngày được. Như vậy, bản văn viết 60 dậm có vẻ hợp lý hơn vì Emmau chỉ cách Giêrusalem có 11 cây số.
2. Cuộc hành trình đi Emmau
a) Tâm trạng của hai môn đệ
Đây là hai môn đệ trong số 70 mà Chúa sai đi giảng đạo. Họ đến Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, nay lễ tất, các ông trở về. Một người tên là Cléopas, còn người kia không được nêu tên (có người cho là chính Luca). Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ u buồn và thất vọng. Tại sao họ lại có cái tâm trạng u buồn như thế? Chúng ta có thể nêu ra ba lý do:
* Đức Giêsu, người mà bấy lâu nay họ tin tưởng như “một vị tiên tri có quyền lực trước mặt Thiên Chúa và tòan thể dân chúng” mà sao đã bị xử tử và đóng đinh trên thập giá (Lc 24,20-21).
* Sự nghiệp và chương trình của Đức Giêsu là Cứu thế đã vỡ tan tành vì “Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu Israel” mà các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi (Lc 24,21).
* Lý do riêng của các ông: Tin theo Đức Giêsu để hy vọng có một tương lai tươi sáng mà nay chỉ thấy mây mù che phủ. Thất vọng !.
b) Đức Giêsu giải thích và khích lệ
Với tư cách là khách bộ hành, Ngài đã nhập cuộc đi với họ. Với bao tế nhị, Ngài khai mào câu chuyện để cho họ thổ lộ tâm can, cởi mở tâm hồn. Càng bị dầy vò khắc khoải, người ta muốn được kẻ khác lắng nghe chia sẻ. Ngài cùng đi với họ trên đoạn đường dài.
Sau một thóang im lặng, Ngài bắt đầu chậm rải nói chuyện. Ngài “giải thích cho hai ông tất cả lời Thánh Kinh chỉ về Ngài”, về “vụ ông Giêsu”, người lạ lắng nghe quan điểm trình bầy về vụ án, cuộc tử nạn, việc treo trên cây thập giá làm cho các ông xao xuyến.
Chúng ta có thể tóm tắt lời giải thích và yên ủi hai ông trong hai điểm:
– Trước hết, Ngài cho các ông biết sự đau khổ và cái chết của Đấng Cứu thế đã được trù liệu trước, nên đó không phải là thất bại:”Nào Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang sao”?(Lc 24,26)
– Sau cùng, Ngài đã tới Emmau về nhà các ông cùng nói năng, dạy dỗ, cùng ăn cùng uống với các ông. Điều đó chứng tỏ Ngài đã sống lại thật và sống lại vinh quang.
3. Kết quả cuộc hành trình
Chúng ta có thể khẳng định: cuộc hiện ra trên đường đi Emmau là làm cho các môn đệ tin thật Ngài đã sống lại. Họ không thể ngồi yên, lật đật trở về Giêrusalem để thuật lại cho mọi người sự vui mừng mà họ vừa nhận được. Gặp 11 Tông đồ đang hội họp với những người khác, hai bên như tranh nhau làm chứng: họ muốn nói cho các Tông đồ, nhưng các Tông đồ đã nói trước:”Chúa thật đã sống lại và hiện ra với Simon”. Thiết tưởng là một cuộc họp vui không thể tả, nhất là liền sau đó Chúa lại hiện ra với họ.
II. ĐÃ CÓ CHÚA TRONG ĐỜI
1. Chúa củng cố niềm tin cho các môn đệ
Người ta thường nói: chết là hết. Chết là chấm dứt mọi sự, kể cả những công việc vĩ đại con người đã thực hiện được. Khi theo Chúa Giêsu trên đường truyền giáo, các môn đệ cũng đã có niềm tin vào Ngài nhưng niềm tin ấy còn hời hợt. Niềm tin ấy bị tan vỡ khi bị thử thách. Bằng chứng là, sau khi Đức Giêsu chịu chết và chịu táng trong mồ, các môn đệ tỏ ra hoảng sợ, lo lắng, thất vọng, thậm chí ngay ngày Chúa phục sinh đã có hai môn đệ bỏ cộng đoàn để về quê cũ là Emmau, ở cách Giêrusalem quãng 11 cây số. Ta chỉ biết có một ông tên là Cléopas và một người nữa bất kỳ ai. Hai ông chán nản lê bước trên đường, lòng dười dượi buồn, nói chuyện với nhau về sự việc mới xẩy ra và tương lai bấp bênh của mình. Tâm trí các ông còn bị che phủ bởi các ông chưa hiểu lời Kinh thánh nói về Đức Kitô,
Rất may, hai ông được khách bộ hành cùng song hành nói chuyện. Lúc này khách bộ hành mới cắt nghĩa cho hai ông những đoạn Kinh thánh nói về Đức Kitô từ Maisen đến các tiên tri và Thánh vịnh: Người phải chịu chết rồi mới sống lại. Những lời giải thích Thánh kinh chỉ là câu chuyện trao đổi với nhau chưa làm cho hai ông tin được rằng Chúa đã sống lại, vì tâm trí các ông còn mù tối. Đến khi hai ông cùng với khác bộ hành dùng cơm chiều, trong lúc bẻ bánh, người khách bộ hành mới tỏ nguyên dạng là Đức Giêsu phục sinh. Lúc này mắt các ông sáng ra, lòng đầy vui mừng tin tưởng, các ông tức tốc trở về báo tin cho các môn đệ khác còn ở tại Giêrusalem.
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn còn ở bên cạnh chúng ta . Người không hiện diện rõ ràng như khi hiện ra với hai môn đệ. Người hiện diện dưới muôn hình muôn vẻ, con mắt thịt không thể nhìn thấy mà chỉ con mắt đức tin mới thấy Người. Khi Saulô đến Đamas tìm bắt các tín hữu Chúa, tại sao Chúa lại hỏi Saulô:”Tại sao ngươi tìm bắt Ta “. Chữ Ta đây không phải là chính Chúa mà là các Kitô hữu. Vậy khi bắt các Kitô hữu là bắt chính Chúa Giêsu vì Ngài đã đồng hóa các tín hữu với Ngài.
2. Chúa củng cố niềm tin cho ta
a) Chúa hiện diện bên cạnh ta
Trong cuộc sống của ta, Chúa hằng hiện diện khắp nơi, trong mọi sinh hoạt thường ngày của ta. Nhưng làm sao ta thấy Ngài được? Câu trả lời là mắt trần hoàn toàn vô dụng. Sự hiện diện của Đấng phục sinh khác hẳn với sự hiện diện của Đức Giêsu Nazareth. Đây là một sự hiện diện mới mẻ, chỉ tỏ hiện với con mắt đức tin được nuôi bằng Kinh thánh và việc chia sẻ bữa ăn với Đức Giêsu. Nếu muốn thấy và sống sự hiện diện của Đấng phục sinh, các tín hữu phải trang bị cho mình hai điều kiện ấy vì họ luôn có sẵn trong tay Thánh kinh và Thánh lễ (M. Sevin, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, tr 135).
Ngày nay Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện ngay bên cạnh ta, nhưng theo một cách mới. Chúng ta không thể nhận ra cách hiện diện mới ấy vì cặp mắt thể xác của ta như “bị ngăn cản” bởi một bức màn. Chỉ khi nào Ngài muốn và cho những ai Ngài muốn thì Ngài mới cất bức màn ấy đi và khi đó mắt chúng ta mới “mở ra” và thấy được Ngài.
Truyện: Chúa đến nơi tha nhân.
Một tác giả kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị chiếc xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quí. Và người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là một ngày cuối đông, cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại, hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn báo cho người khách quí biết mình phải đi ra ngoài.
Nhưng tìm đường dẫn bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra được nhà đứa bé, và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh, nhưng đó không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chớp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về đến nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe thấy tiếng Chúa nói với anh:”Cảm ơn con đã dọn trà nóng cha Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay”.
b) Người yên ủi nâng đỡ ta
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta cũng gặp những lúc hoang mang, lo sợ như hai môn đệ về làng Emmau. Theo tính tự nhiên, ai cũng phải lo sợ. Có thể lo sợ vu vơ, không có lý do chính đáng, hoặc nhút nhát sợ sệt không dám hành động vì thiếu động lực thúc đẩy. Nhưng cũng có những lo sợ khôn ngoan, có tính toán, đề phòng những bất trắc xẩy ra, nhằm tránh thiệt hại cho tương lai:
Thấy anh em cũng muốn theo,
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi.
Lấy anh em biết ăn gì?
Lộc sắn thì chát, lộc si thì già.
(Ca dao)
Khi đã tìm được lý do đánh tan sự sợ hãi thì con người bắt đầu hành động một cách vững mạnh, đầy tin tưởng. Trong Thánh kinh, câu “Đừng sợ” được nói tới 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày suốt một năm. Đã có Chúa ta còn sợ hãi chi?
Truyện: Đức Giáo hoàng Piô XI
Được thăng giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Piô XI đăng quang, Ngài đã can đảm qua hết các lễ nghi rồi, nhưng đến khi các nghi thức xong xuôi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức tiên Giáo hoàng, tức Đức Bênêdictô XV, thì tự nhiên một mối lo âu bao trùm lấy Ngài. Thực sự lúc ấy có biết bao lo lắng đổ trên đầu vị Giáo hoàng vì Giáo hội bị tấn công mọi mặt. Cuộc đệ nhất thế chiến vừa chấm dứt và cuộc đệ nhị thế chiến đang âm ỉ, Giáo hội phải trải qua một giai đoạn thử thách gắt gao.
Nghĩ đến tất cả những chuyện ấy, Đức Piô tràn ngập lo âu. Lúc ấy Ngài làm công việc duy nhất mà một người lo sợ có thể làm đó là Ngài quỳ xuống, cầu nguyện. Trong khi Ngài cầu nguyện như thế, tay Ngài đưa ra, chạm phải một chiếc ảnh còn lại trên bàn giấy của Đức Bênêdictô XV. Ngài cầm mẫu ảnh lên xem và tự nhiên nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn Ngài tràn ngập bình an. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Những làn sóng lo âu, sợ sệt trong tâm hồn Đức Piô XI êm lặng lại. Ngài giữ bức ảnh ấy trên bàn giấy của Ngài luôn. Từ đó về sau, mỗi lần lo âu gì, Ngài chỉ việc nhìn vào bức ảnh để trên bàn đó và nhớ rằng Chúa Giêsu sẵn sàng phán một lời truyền cho sóng gió phải yên lặng (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, tr 36-37).
c) Niềm tin được thử thách
Đi theo Chúa thì dễ. Các môn đệ đã theo Chúa Giêsu ba năm, nghe những lời Ngài dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, các ông đã tin tưởng vào Ngài, ít ra coi Ngài là một tiên tri có quyền phép. Nhưng sau khi Đức Giêsu chịu chết và táng trong mồ, niềm tin của các ông như thế nào? Hoàn cảnh của chúng ta cũng giống như các môn đệ xưa, ta vẫn tin theo Chúa, hứa trung thành với Người, nhưng khi gặp đau khổ, gian nan thử thách, chúng ta có thái độ nào? Có lẽ chúng ta cũng giống như ông Simon Phêrô. Khi Chúa hỏi các ông là các ông cũng muốn bỏ Ngài như những người Do thái chăng, thì ông đã nhanh miệng trả lời:”Bỏ Ngài chúng con biết theo ai, vì chỉ Ngài mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68) , nhưng rồi ông đã chối Chúa… Sau đó ông lại hối hận và đi theo Chúa.
Trong cuộc sống trên biển trần gian này, thỉnh thoảng biển cũng nổi sóng gió, có khi bão táp như biển hồ Tibêria. Các Tông đồ phải khó nhọc chèo chống trong cảnh thất vọng, nhưng Chúa Giêsu đã kịp thời hiện đến bảo các ông “Đừng sợ”, tức thì sóng gió phải ngưng ngay, biển trở lại yên lặng như tờ (x. Ga 6,16-21).
Truyện: Tại sao thất vọng sợ hãi?
Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ xem như là một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức giận xỉ vả hơn.
Trước tình thế khó xử đó, khi đã có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.
Viên sĩ quan hỏi:
– Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?
Bà vợ trả lời:
– Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu em.
Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng nói:
– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương anh? (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 46).
Cuộc đời chúng ta cũng giống như hai môn đệ đi đế làng Emmau. Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Trong mọi hành động Chúa vẫn chia sẻ với ta: lo âu, tin tưởng, đau khổ cũng như vui sướng, thành công cũng như thất bại. Chỉ khi nào chúng ta dùng con mắt đức tin thì mới nhìn ra sự hiện diện ấy.
Không có câu chuyện nào cảm kích hơn có thể cho ta thấy thực sự Chúa phục sinh luôn đi bên cạnh trong cuộc lữ hành trần gian. Điều đáng buồn là vì thiếu lòng tin nên con mắt chúng ta thường bị mờ không nhận biết sự hiện diện của Ngài. Chúng ta bước đi rầu rĩ, trong khi đáng lẽ ra ta phải hớn hở vì được đồng hành với Ngài. Có thể là đang khi Ngài cắt nghĩa Kinh thánh cho chúng ta, hay khi chúng ta tham dự nghi lễ bẻ bánh, sự đui mù được cất đi, để rồi cuộc hành trình chấm dứt khi ta về đến nhà, ta sẽ thấy Ngài đối diện với ta, không phải phai mờ trong màn đêm âm phủ, nhưng rực rỡ trong ánh sáng vinh quang đời đời. Để được thế, ngay lúc này ta phải tập luôn sống trong sự hiện diện của Ngài:
Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Lẩn nơi nào cho thoát được Thánh Nhan?
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,
Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn,
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.
(Tv 138)
Phải sống mãi trong Chúa Cứu thế, đừng bao giờ xa Ngài. Hãy duy trì mối giao hảo hạnh phúc với Chúa, để khi Ngài đến, các con đầy lòng tin tưởng, không phải hổ thẹn lúc gặp Ngài … Chúng ta sẽ giống như Ngài vì chúng ta sẽ thấy chính Ngài.