• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật, Tuần V, Mùa Chay

Ngày Đăng: 25/03/2023
Trong Mùa Chay - Phục Sinh

Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.

Bài đọc 1: Ed 37,12-14

Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.

Bài trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en.

12 Đức Chúa là Thiên Chúa phán như sau : “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. 13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. 14 Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.”

Đáp ca; Tv 129,1-2.3-4.5-6a.6b-8 (Đ. x. c.7bc)

Đ.Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

1Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa,2muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con.
Dám xin Ngài lắng tai để ý
nghe lời con tha thiết nguyện cầu.

Đ.Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

3Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng ?4Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài.

Đ.Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

5Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi,
cậy trông ở lời Người.6aHồn tôi trông chờ Chúa,
hơn lính canh mong đợi hừng đông.

Đ.Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

6bHơn lính canh mong đợi hừng đông,7trông cậy Chúa đi, Ít-ra-en hỡi,
bởi Chúa luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.8Chính Người sẽ cứu chuộc Ít-ra-en
cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

Đ.Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

Bài đọc 2: Rm 8,8-11

Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, ngự trong anh em.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.

8 Thưa anh em, những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa. 9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô. 10 Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. 11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

Tin mừng: Ga 11,1-45 

1 Khi ấy, có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. 2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô. 3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.”
4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo : “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa : qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô. 6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. 7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ : “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê !
8 Các môn đệ nói : “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?”
9 Đức Giê-su trả lời : “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao ? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. 10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình !”
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ : “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.”
12 Các môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.”
13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ : “La-da-rô đã chết. 15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” 16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn : “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy !”
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. 19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây giờ con biết : Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”
23 Đức Giê-su nói : “Em chị sẽ sống lại !”
24 Cô Mác-ta thưa : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
25 Đức Giê-su liền phán : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?”
27 Cô Mác-ta đáp : “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” 28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ : “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy !” 29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su.
30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. 31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em. 32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”
33 Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. 34 Người hỏi : “Các người để xác anh ấy ở đâu ?” Họ trả lời : “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.”
35 Đức Giê-su liền khóc. 36 Người Do-thái mới nói : “Kìa xem ! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy !”
37 Có vài người trong nhóm họ nói : “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư ?” 38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. 39 Đức Giê-su nói : “Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói : “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.”
40 Đức Giê-su bảo : “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”
41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói : “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. 42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” 43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng : “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”
44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo : “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” 45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

SUY NIỆM
A/ 5 phút cho Lời Chúa

HƯỚNG VỀ PHỤC SINH

“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống.” (Ga 11,25)

Suy niệm: Đối với con người, một khi lưỡi hái tử thần đã buông xuống, thì mạnh như Hercule, giỏi như Cesar, quyền lực như Tần Thủy Hoàng, đẹp như Cléopâtre cũng đành cuốn gói đi về với cát bụi. Thế nhưng, có một người đã dám chống lại Tử Thần và đã chiến thắng. Đó là Đức Ki-tô Phục Sinh. Và tiếp bước theo Người, những người Ki-tô hữu cũng sẽ sống lại như thế. Nhờ vào đâu vậy? Thưa, nhờ tin và chịu phép rửa trong Đức Ki-tô, nghĩa là cùng “chịu phép rửa trong cái chết của Người, anh em cũng sẽ được cùng sống lại với Người” (Cl 2,12). Tất cả niềm tin, niềm hy vọng của người Ki-tô hữu được đặt trên nền tảng này.

Mời Bạn: Hành trình đức tin của Mác-ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh cho thấy sự phục Sinh không phải là cái gì bên kia cái chết, nhưng đang có mặt ngay tại đây, hôm nay và mọi ngày, nơi mỗi tâm hồn đón nhận và tin kính Ngài như Mác-ta, và Chúa không ngừng chất vấn bạn như đã chất vấn Mác-ta: “Con có tin điều đó không?”

Chia sẻ: Niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh có là động lực thúc đẩy bạn dấn bước theo Chúa triệt để hơn không?

Sống Lời Chúa: Tôi sẽ hướng mọi việc mình làm, mọi sự kiện cuộc sống mình về mầu nhiệm phục sinh.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, màu tím của mùa Chay là màu của tang tóc, đau khổ. Nhiều khi con cảm thấy hụt hẫng, tối tăm trong đời, nhất là khi đối diện với cái chết của những người thân. Xin cho màu trắng Phục Sinh giúp con can đảm trung thành sống theo những gì Mùa Chay đòi hỏi, để cũng được phục sinh với Chúa. Amen.

B/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist

AI TIN TÔI SẼ KHÔNG PHẢI CHẾT

Tin Mừng Chúa Nhật V, Mùa Chay, Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời khẳng định này được chứng minh bằng việc Ngài làm cho Lazaro sống lại. Một chi tiết có lẽ làm chúng ta phân vân: Tại sao Chúa Giêsu biết trước Lazaro bạn thân của Ngài bệnh nặng và sẽ chết, nhưng Ngài không can thiệp để sự chết khỏi đến với Lazaro. Phải chăng Ngài bất lực hoặc đùa giỡn trước những đau khổ và sự chết của cong người, mà Lazaro là người đại diện?

Chúng ta lần dở lại Lịch Sử Cứu Độ để thấy những hành động yêu thương của Thiên Chúa. Đoạn sách Edekien (37,12-14) cho ta biết tâm trạng tuyệt vọng của dân Israel bên Babilon (thế kỉ VI TCN), họ nói: “Xương chúng tôi đã khô đét, hy vọng tiêu ma”. Và như vậy có thể nói họ bị chết hai lần: Họ chết về thân xác khi phải sống trong cảnh cùng cực của kiếp sống nô lệ. Họ chết về mặt tinh thần, khi không có tự do, không có hi vọng gì ở tương lai.

Đang khi Israel phải chết 2 lần như thế, khi họ bó tay thì Thiên Chúa ra tay: “Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi mồ, hỡi dân Ta. Ta sẽ dẫn các ngươi về lại thửa đất Israel. Ta sẽ ban Thần Khí cho các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh”. Thật vậy, trong dòng lịch sử Thiên Chúa đã thực hiện đúng như lời Ngài đã hứa cho người Israel được sống, được thoát cảnh nô lệ, được hồi hương vào năm 539. Thiên Chúa lại còn Phục sinh thân xác họ, khi Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại, đồng thời tỏ cho họ biết, Ngài là sự sống, ai tin vào Ngài sẽ sống đời đời (x. Ga 11,1).

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma (8,1-11) đã làm rõ Giáo lý về sự sống đời đời. Ngài cho biết có 2 sự sống: sự sống xác thịt và sự sống Thần Khí. Trong đó, sự sống thể xác có thể chết vì tội lỗi nhưng sẽ được sống nếu gắn bó với Đức Kitô: “Nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dù thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống” (Rm 8,10).

Điều đó minh định rằng, dù phận người phải đau khổ và phải chết nhưng Thiên Chúa đã tự nguyện mang lấy đau khổ và cái chết để làm cho con người được sống. Cái chết của Lazaro và của người ta và của mỗi chúng ta không phải là sự đùa giỡn của Đấng Tạo Hóa, không phải là đi vào ngõ cụt. Thật ra, giống như thời gian chết của Israel trong cảnh lưu đày tại Babilon và thời gian chết 4 ngày của Lazaro, đây là thời gian chờ đợi để được sống đời đời; Israel đã được hồi hương và Lazaro được sống.

Phép lạ Chúa Giêsu phục sinh Lazaro chứng tỏ quyền năng và tình thương của Ngài vượt trên sự chết, khơi dậy và bảo đảm đức tin của chúng ta vào sự sống đời đời. Đồng thời, vực dậy đức tin “sắp chết” nơi nhiều người khi gặp thử thách gian nan, mà Mácta và Maria là đại diện: “Nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết”.

Chẳng phải chúng ta tin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa hằng sống sao? Ấy thế mà khi gặp đau khổ, thử thách chúng ta lại thất vọng, buồn phiền kêu trách Chúa không hiện hữu, Chúa không thương con… một số người hoài nghi rồi bỏ Chúa. Thái độ đó báo động cho biết đức tin của ta đang ‘chết’.

Cho nên, Lời Chúa đang thúc giục chúng ta kiên vững: Chúa là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Chúa thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Chúa sẽ không phải chết bao giờ. Chúa đã chết và đã phục sinh, đó là nguồn cậy trông, hy vọng và bảo đảm cho đức tin của chúng ta.

Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhìn thấy Chúa đang ở kề bên, để nghe được tiếng Chúa đang nói: “Bất cứ ai tin vào tôi sẽ không phải chết bao giờ”, để dù sống dù chết chúng con luôn được bình an hạnh phúc trong Chúa mãi mãi. Amen.

 C/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

NIỀM HY VỌNG SỐNG LẠI

I. DẪN NHẬP

Cổ nhân đã đặt câu hỏi:”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết? Đây là một sự thật hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được. Nhưng chết rồi sẽ ra  sao? Có nhiều ý kiến cho câu hỏi này? Hòai nam Tử nói:”Sinh ký tử qui”: sống là gửi, chết mới là về. Câu hỏi tiếp: về đâu và để làm gì? Đó là câu hỏi đòi chúng ta phải suy nghĩ và tìm ra câu giải đáp cho bản thân mình.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu làm cho Lazarô đã chết được sống lại trước mặt nhiều người chứng kiến. Cô Martha và những người chứng kiến đã xác nhận: Lazarô đã chết được 4 ngày và đã nặng mùi rồi. Đức Giêsu đòi cô Martha phải chứng minh cho mọi người thấy là Lazarô đã chết thật và đòi cô phải tin vào Ngài. Sau khi truyền mở cửa mộ, Ngài hô lớn tiếng:”Lazarô, hãy ra đây” ! Lazarô đã chỗi dậy và ra khỏi mồ trước mặt mọi người. Sau đó Ngài truyền cởi dây băng và khăn liệm cho anh. Qua phép lạ này, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày chung thẩm.

Chúng ta đã đi qua được một nửa Mùa chay trong sự hy sinh hãm mình, trong việc sửa đổi con người cũ của mình. Chúa nhật này mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng của Kytô giáo. Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng ấy, đồng thời mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác cuộc sống chúng ta cho Ngài::”Ai tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời”. Với niềm tin tưởng đó người Kitô hữu chúng ta phải cố gắng sống một đời sống xứng đáng ở trần gian này,  và mạnh dạn đón nhận cùng vượt qua mọi gian nan thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa cao đẹp và lạc quan.

II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

         + Bài đọc 1: Ez 37, 12-14.

Dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt. Nhiều người đã tỏ ra thất vọng, sống cho qua ngày, coi mình như đã chết. Thiên Chúa cho tiên tri Ezéchiel đến yên ủi và báo cho họ biết rằng Ngài sẽ đoái thương họ, Ngài sẽ giải cứu họ và đem họ về quê hương. Lời loan báo này của tiên tri Ezéchiel đi sau thị kiến đặc biệt về “các bộ xương khô”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho Israel. Các bộ xương sẽ được cơ thịt bao phủ, được thổi hơi làm cho sống lại, trở thành một sinh linh mới. Lời hứa Phục sinh này mang hai ý nghĩa:

  1. a) Phục sinh tinh thần: họ sẽ được hồi hương.
  2. b) Phục sinh thể xác: họ sẽ được sống lại.

Lịch sử dân Israel cho thấy lời hứa phục sinh tinh thần đã được thực hiện vào năm 539. Còn phục sinh thể xác sẽ diễn ra sau này nơi Chúa Kitô và mọi Kitô hữu.

         + Bài đọc 2: Rm 8,8-11.

Theo thánh Phaolô, con người có hai sự sống: sự sống theo thể xác và sự sống theo Thần Khí. Sự sống theo Thần Khí quan trọng hơn. Mặc dầu thân xác Kitô hữu đã bị dâng cho tử thần vì tội lỗi, nhưng nhờ Phép Rửa, Kitô hữu lại nhận được Thần Khí sự sống và Phục sinh của Đức Kitô:”Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới”(Rm 8,11).

         + Bài Tin Mừng: Ga 11,1-45.

Bài trình thuật việc ông Lazarô sống lại khá dài, có nhiều chi tiết, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa, nhưng điểm nổi bật nhất là việc Đức Giêsu  làm cho kẻ chết sống lại, loan báo sự phục sinh thể xác sau này. Việc cứu sống Lazarô là sự phục sinh thể xác  cho chính Lazarô, nhưng việc cứu sống ấy còn báo trước cho chúng ta sự phục sinh thể xác của Chúa Giêsu và của mọi người nữa.

Phép lạ phục sinh Lazarô như là một dấu chỉ: một đàng để làm vinh danh Chúa Cha nơi Người ; đàng khác, để cho các môn đệ tin rằng Người được Chúa Cha sai đến. Lời tuyên xưng của cô Martha đã nói lên điều ấy:”Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11, 27) và trong số những người Do thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người (Ga 11,15).

III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC SỐNG LẠI

1. ĐỨC GIÊSU CHO LAZARÔ SỐNG LẠI

Câu chuyện Đức Giêsu cho Lazarô sống lại là một trình thuật căn bản của Tin mừng Gioan. Đức Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nazareth là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa tòan năng.

1.1. Đức Giêsu đến Bêtania

Bêtania ở cách Giêrusalem khỏang 3 cây số. Ở đó có một gia đình gồm ba chị em mà Đức Giêsu quen biết, đó là Martha chị cả, Maria và Lazarô là em út. Mỗi người có một tính tình khác nhau: Martha năng động, lo việc bếp núc và chạy vạy mọi việc trong nhà. Maria thì trầm lặng, ít họat động, thích chiêm mộ. Còn Lazarô, bạn thân của Chúa, đã được mời dự tiệc tại nhà ông Simon tật phong.

Một hôm Lazarô bỗng đau nặng, hai chi em sai người đi báo tin cho Đức Giêsu một cách tế nhị:”Người Thầy yêu đau liệt”. Lúc đó Ngài còn đang đi truyền giáo tại Pêrê bên kia sông Giorđan chưa về. Ngài còn ở lại đó hai ngày nữa vì Ngài đã bảo người đưa tin rằng:”Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó con người sẽ được hiển vinh”. Nhưng dù sao lễ Vượt Qua sắp tới, Ngài cũng cần phải đi Giêrusalem để dự lễ.

Các môn đệ có vẻ ngần ngại vì thái độ thù nghịch của biệt phái mỗi ngày một tăng:”Mới hôm nào bọn Do thái tìm ném đá Thầy mà nay Thầy lại trở về đó sao”? Tuy các ông vẫn còn lưỡng lự, Đức Giêsu mới cho biết rõ:”Lazarô đã chết”. Rồi Ngài cương quyết:”Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”.

1.2. Đàm thọai với Martha và Maria

Khi tới Bêtania thì được tin Lazarô chết chôn được 4 ngày rồi. Nếu tính thời gian ấy thì tròn bốn ngày: đi báo tin Lazarô chết mất một ngày, Đức Giêsu ở lại hai ngày và trở về mất một ngày. Và theo phong tục Do thái thì chết là chôn ngay: chết sáng thì chiều chôn và chết đêm thì ban mai phải chôn, không được để lâu.

Khi Đức Giêsu tới nơi thì có nhiều người Do thái đang đến chia buồn với gia đình này. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Martha đã vội vàng chạy ra đón và thưa ngay:”Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”. Qua lời nói đó, chúng ta có thể đọc rõ tâm trí của Martha. Cô muốn nói rằng:”Lúc được báo tin, sao Thầy không chịu đến ngay? Bây giờ mới đến thì đã muộn mất rồi”. Ngay sau khi thốt ra những lời ấy, tiếp theo là những lời nói trong đức tin, một đức tin thách thức mọi sự kiện, mọi kinh nghiệm. Cô nói bằng một niềm hy vọng trong tuyệt vọng:”Tuy nhiên, con biết rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy bất luận điều gì Thầy cầu xin”.

Để yên ủi cô, Ngài phán:”Em con sẽ sống lại”. Martha nói lên niềm tin của mọi người Do thái thời đó:”Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại”. Đức Giêsu cho cô Martha biết Ngài sẽ cho Lazarô sống lại nhưng đòi ở nơi cô lòng tin mạnh mẽ.

1.3. Lazarô được sống lại

Đức Giêsu hỏi:”Đã an táng Lazarô ở đâu”? Các cô dẫn Ngài đến mộ. Đứng trước cửa mộ, Đức Giêsu truyền mở cửa mộ ra, nhưng người ta trả lời:”Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã 4 ngày”. Chúa đòi Martha xác nhận  cho mọi người biết là em mình đã chết thực sự và đã bắt đầu thối. Trước khi làm phép lạ Chúa đòi cô phải có lòng tin mạnh mẽ vào Ngài.

Sau khi hòn đá che cửa mộ được cất ra, Đức Giêsu lớn tiếng gọi:”Lazarô, hãy ra đây”. Người chết liền đi ra trước mặt mọi người, chân tay còn quấn băng và mặt còn phủ khăn liệm. Ngài ra lệnh cởi băng cho ông.

Kết quả: một số đông người chứng kiến đã tin theo Đức Giêsu, nhưng còn một số đi báo tin cho nhóm biệt phái, những người luôn là đối thủ của Ngài.

Có lẽ đây là một phép lạ lớn nhất mà Gioan thuật lại trong Tin mừng của ông. Làm cho kẻ chết sống lại là làm chủ cả sự chết lẫn sự sống. Nếu so sánh việc làm cho con gái ông Giairô và cậu con trai bà góa thành Naim vừa chết chưa thối thì phép lạ này hòanh tráng hơn nhiều và củng cố niềm tin cho những người chứng kiến.

Trong câu chuyện này, cả Martha lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Martha đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do thái:”Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế”. Đức Giêsu mời cô tiến thêm một bước:”Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không”? Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho những ai tin vào Ngài. Đó chính là mục đích của phép lạ này:”Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con… Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con” (Fiches dominicales A, tr 102).

2. NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI.

2.1. Tin vào Lời Chúa

Một quá trình dài tường thuật, chuẩn bị phép lạ cho Lazarô được sống lại, cho chúng ta thấy rằng mục tiêu chính yếu của đoạn trích Phúc âm Gioan 11,1-45 không phải là sự sống lại thể xác của Lazarô, nhưng chính là một “tiến trình niềm tin”cho những người vây quanh Đức Giêsu  và cho chúng ta hôm nay.

Đức Giêsu ngước mắt lên trời cảm tạ Chúa Cha không có mục đích cầu xin để làm cho Lazarô được sống lại nhưng có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, cho chị em Martha và Maria cũng như cho những người đến chia buồn với chị em.

Tất cả bài học, lời dạy của Đức Giêsu hôm nay đều tập trung trong hai câu 25 và 26. Đức Giêsu đã mang lại cho chúng ta một mạc khải nền tảng:”Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25-26). Chính niềm tin vào Đức Kitô là một bảo đảm tuyệt đối để được sự sống muôn đời.

Phép lạ cho Lazarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép  lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, tự nơi tạm bợ đến chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo hội. Thánh Phaolô nói:”Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em  thật hão huyền và anh em vẫn còn sống  trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).

Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng:”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại…” Chính là trên cơ sở phải tin Đức Kitô đã phục sinh…  Sứ điệp Phục sinh không đem đến cho chúng ta những thực tế dễ dàng, hấp dẫn, dựa trên cở sở những kinh nghiệm khả giác và kỳ lạ, nhưng cho chúng ta một nhận thức về một mạc khải, một lời hứa: mạc khải Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết và lời hứa mà Ngài có quyền hội nhập chúng ta vào sự chiến thắng đó.

2.2. Người đời nghĩ thế nào?

2.2.1. Mọi người đều phải chết

Người ta công nhận rằng mọi người trên thế gian này đều phải chết, đây là một công lệ khắt khe buộc con người phải theo, dù muốn dù không. Vì thế cổ nhân đã nói:

                                   Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
                                   Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
                                           (Văn thiên Trường)
                                   Ngày xưa, người thế ai không chết,
                                   Chết, để lòng son rạng sử xanh.

Mọi người cũng đều công nhận là đời sống rất mong manh: Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Nhưng triết lý về cuộc sống của mỗi người lại khác nhau, mỗi người có một cái nhìn, một nhân sinh quan về đời sống. Có người có cái nhìn lạc quan, có người lại có cái nhìn bi quan. Có người tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống, có người coi cuộc sống là phi lý, là vô nghĩa như trường hợp của những người theo triết thuyết hiện sinh vô thần như ông Jean Paul Sartre. Có lẽ họ thích sống theo triết lý người La mã xưa:”Hãy ăn nhậu cho say, vì ngày mai bạn có thể chết”.

         Tâm lý con người: tham sinh húy tử.

Đúng như vậy, con người ai cũng thích sống và ai cũng sợ chết. Đó là mối bận tâm muôn thuở của nhân loại. Đã là qui luật là qui luật: mọi người đều phải chết. Nhưng khi con người biết sống thì không sợ cái chết nữa, hay ít là coi nhẹ cái chết:

                                   Nhân cố hữu nhất tử,
                                   Tử hoặc trọng ư Thái sơn,
                                   Hoặc khinh như hồng mao.
                                   Người đời ai cũng vẫn phải chết
                                   Nhưng có cái chết nặng như núi Thái sơn
                                   Có cái chết nhẹ như lông hồng.

2.2.2. Chết rồi sẽ ra sao?

Đối với những người không có đức tin thì câu hỏi chết rồi sẽ ra sao thì không thành vấn đề. Theo họ, chết là hết. Chết là kết thúc cuộc sống ở trần thế này và sẽ trở về hư không.

         Nhà văn Nhất Linh, một ngày bâng khuâng, ông tự hỏi mình:

         – Chết rồi sẽ ra sao nhỉ?

         Nghĩ ngợi một chốc, rồi ông lại tự trả lời lấy:

         – Hồi Hai Bà Trưng, tôi chưa ra chào đời. Thế khi ấy tôi ở đâu?  Chết, tức là trở về tôi hồi ấy vậy.

Nói cách khác, định mệnh bắt tôi phải đầu hàng thần Chết vô điều kiện. Tôi đã bởi hư vô mà có, thì chết rồi, tôi lại rơi vào cõi hư vô.

Thảo nào mà một nhà thi sĩ lương dân đã phải khóc lên não nuột khi tưởng nhớ đến giây phút tủi nhục này:

                                   Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi !
                                   Tôi run như lá, tái như đông,
                                   Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng,
                                   Năm đẩy tháng dồn tôi đã đến
                                   Trước bờ lạnh lẽo cõi hư không.
                                             (Xuân Diệu)

Đối với một số người, không những chết là hết nhưng chết còn là một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. Karl Marx, ông tổ thuyết mac-xít vô thần, trong một bức thư viết cho người bạn của ông là Lassanler đã nói về cái chết của đứa con mình như sau:

 “Cái chết của đứa con trai tôi đã làm cho tôi đảo điên. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như cái chết ấy mới xẩy ra ngày hôm qua thôi. Còn vợ tôi thì hoàn toàn ngã gục vì biến cố này”.

Ai trong chúng ta cũng cảm thông được với nỗi đau đớn tột cùng này của ông tổ thuyết Mac-xít vô thần. Cái chết là một mất mát mà không gì có thể lấp đầy được. Sự mất mát ấy lại càng khủng khiếp hơn khi con người không còn một niềm hy vọng nào vào cuộc sống mai hậu. Chối bỏ cuộc sống mai hậu cũng có nghĩa là tự đọa đầy mình vào một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp nhất (D. Wahrheit, Phép lạ trong cuộc đời, tr 257).

Nếu không còn niềm tin nào vào cuộc sống mai hậu thì người ta dễ đi đến những kết luận bi quan, muốn tận hưởng trước khi chết để đi vào hư vô:

                                   Người ơi, tận hưởng đi mùi thế tục,
                                   Trước ngày tan nát cõi tha ma.
                                                 (Omar)

2.3. Chúng ta nghĩ thế nào?

Chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa. Thiên Chúa là Đấng chân thật và trung thành với lời hứa. Tin vào Chúa sẽ không bị đi lầm đường:”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. (Ga 11,25-26). Tuy đã tin vào Chúa, nhưng đức tin không miễn trừ cho chúng ta  những thử thách khổ đau trong tang chế, trong sự từ bỏ mình hằng ngày và sự sợ hãi đối với sự chết, nhưng niềm tin của chúng ta chấp nhận để hiểu biết và sống trong những hoàn cảnh hiện tại theo ánh sáng của sự sống cao thượng hơn mà Đức Giêsu đã dạy và chính Ngài là nguyên nhân của sự sống cao thượng đó.

2.3.1 Mọi người đều phải chết.

Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trên trần gian này không có ai sống trường sinh bất tử. Tuy khoa học và cách riêng ngành y học đã đạt được đỉnh cao nhưng người ta chưa tìm ra được một phương cách nào để con người được sống mãi.
Truyện: Thuốc trường sinh.
Thời chiến quốc, có người dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng:
– Vị thuốc này có uống được không?
Người ấy đáp:
– Uống được.
Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng:
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng:”Uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là thuốc bất tử được?  Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa.

2.3.2. Chết chưa phải là hết.

Nhà triết học Heiddeger đã nói:”Nếu chết là hết, thì người đời luôn luôn sống trong lo sợ. Bởi vì biết rằng mình sẽ chết, vậy sẽ trở về cõi hư vô, thì tức là đã mang hư vô trong mình rồi. Sống làm gì nữa để ngày mai rơi vào cõi hư vô”.

Thánh Phaolô đã xác quyết với chúng ta:”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).

2.3.3. Chết đi để sống lại

Một điều chắc chắn là sự chết dẫn ta đến sự sống lại. Lẽ dĩ nhiên chết không phải là điều tốt, nhưng nó là đoạn đường ta phải vượt qua để đi từ cuộc sống đời tạm này qua cuộc sống vĩnh cửu. Sự chết không phải là sự chết đơn thuần, không phải là con đường cụt, không lối thoát. Thiên Chúa không yêu thương chúng ta vô ích, không dựng nên ta để rồi biến ta ra hư vô. Chúa yêu thương ta vô hạn, đã ban chính Con Một của Ngài cho ta không phải  để cho ta thấy ta biến vào hư vô sau cái chết, nhưng để ta được sống lại và được kết hợp với Ngài   (Lm Đỗ thanh Hà, báo Lên đường).

Chúng ta tin là có sự sống lại trong ngày sau hết như Chúa đã báo trước. Chúng ta cũng tuyên xưng đức tin trong kinh Tin kính:”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Tuy thế vẫn có những người không tin.
                                   Truyện: Không có sống lại.
Ở một nghĩa địa bên Đức, có một ngôi mộ lớn và đẹp, xây bằng đá hoa cương và bê tông cốt sắt. Đó là mộ của một bà giầu có và vô thần, trong chúc thư bà muốn xây như vậy để chối bỏ sự sống lại. Bà còn muốn trên ngôi mộ phải đề dòng chữ này: ngôi mộ này sẽ không bao giờ mở ra được.
Thời gian trôi qua, tình cờ một hạt giống rơi xuống, mọc cây, rễ của nó ăn vào mộ và xuyên thủng quan tài của bà. (Theo Veritas ngày 27.07.1993).

D/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông (Gp. Nha Trang)

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay nói về sự sống lại, về đời sống mới.
Ed 37: 12-14
Qua một thị kiến về những bộ xương khô, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng sẽ đến ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ, và cuộc giải thoát này sẽ được sánh ví như cuộc tái sinh.
Rm 8: 8-11
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô công bố: “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống”.
Ga 11: 1-45
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Để minh chứng điều đó, Ngài cho anh La-za-rô sống lại sau khi anh đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi.
BÀI ĐỌC I (Ed 37: 12-14)
Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Ông là vị ngôn sứ thứ ba trong bốn Đại Ngôn Sứ và là dung mạo vĩ đại nhất của Do Thái Giáo trong suốt thời lưu đày, vì thế được gọi là “cha của Do thái giáo”. Ông là vị ngôn sứ duy nhất trong số các ngôn sứ đã lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ ngoài đất Ít-ra-en, ở Ba-by-lon. Ông kết hợp mật thiết tinh thần tư tế và tinh thần ngôn sứ.
Ê-dê-ki-en đã trải qua những thời điểm bi thảm nhất, đó là thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon xâm chiếm vào năm 598. Ông thuộc vào đoàn người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon. Ông chia sẻ cuộc sống lưu đày với dân Ít-ra-en tại một thị trấn nhỏ, không xa Ba-by-lon, được gọi là Tel-Aviv (tên mà quốc gia Do thái hiện nay đặt cho thủ đô của họ để tưởng nhớ đến vị ngôn sứ nầy, người đã tiên báo “sự hồi sinh” của dân Ít-ra-en) và ông đã qua đời ở đó vào năm 571.
1.Hoàn cảnh của dân Ít-ra-en vào thời Ê-dê-ki-en:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lên án những bất trung của dân Chúa và loan báo sự trừng phạt sẽ giáng xuống trên Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến, vị ngôn sứ loan báo thời kỳ Thiên Chúa xót thương. Thiên Chúa sẽ khai đường mở lối cho đoàn người lưu đày được trở về quê cha đất tổ. Cuộc giải thoát nầy sẽ như một cuộc tái sinh, một cuộc tạo dựng mới. Lời văn đầy những hình tượng.
2.Hai lời hứa của Thiên Chúa:
Trong thị kiến, vị ngôn sứ được Thiên Chúa dẫn đưa vào một thung lũng đầy những bộ xương khô (37: 1-2). Thị kiến này mô tả hoàn cảnh tù đày của dân Ít-ra-en tại Ba-by-lon được sánh ví với những bộ xương khô: “Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en”, và niềm hy vọng được cứu thoát của họ đã tiêu tan: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (37 : 11).
Trong hoàn cảnh bi thương tuyệt vọng đó, qua vị ngôn sứ của mình, Thiên Chúa hứa với dân Ngài hai điều. Trước tiên, Thiên Chúa hứa sẽ cứu họ khỏi cảnh từ đày và sẽ dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ: “Hỡi dân Ta, Ta sắp mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi đó, và đưa ngươi về đất Ít-ra-en” (37 : 12). Khi làm như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài vẫn trung tín với Giao Ước của Ngài: “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (37: 13).
Thứ nữa, Thiên Chúa hứa ban thần khí của Ngài, nhờ hơi thở sáng tạo, những kẻ lưu đày bất hạnh sẽ được tái tạo, có thể nói, được hoàn lại cho họ cuộc sống như trước đây trên quê cha đất tổ: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi”. Lời hứa thứ hai cũng kết thúc với lời quả quyết trung thành của Thiên Chúa với Giao Ước : “Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Ta đã nói là Ta làm” (37: 14).
3.Phục hưng một dân tộc:
Lời Thiên Chúa hứa thứ nhất bắt đầu và kết thúc với lời kêu gọi gởi đến dân Ít-ra-en: “Hỡi dân Ta”. Lời Thiên Chúa hứa thứ hai được gởi đến toàn thể dân Ít-ra-en chứ không cá nhân. Như vậy, sấm ngôn này loan báo sự phục hưng của một đất nước, sự canh tân của một dân tộc, chứ không sự phục sinh của cá nhân. Quan niệm về sự phục sinh của cá nhân như thế vào thời của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en không thể nào nghĩ tưởng được. Sẽ phải chờ đợi đến thời kỳ Ma-ca-bê (giữa thế kỷ hai tCn) khi đó niềm hy vọng vào sự phục sinh cá nhân được phát biểu rất rõ nét. Niềm hy vọng nầy đã nâng đỡ các vị tử đạo khi các ngài nhất quyết trung thành niềm tin của mình, dù phải chịu các cực hình: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7: 9).
Louis Monloubou mời gọi người tín hữu hiện tại hóa thị kiến này vào trong lịch sử cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa: “Ngày nay dân Thiên Chúa phải kinh qua những giải thoát mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của cuộc đời mình, thậm chí trong chính thân xác của mình; ngõ hầu họ hiểu hơn, và rốt cuộc hiểu hơn ai thực sự là Thiên Chúa của mình, đối tượng niềm tin của mình không là một bóng ma nào đó, nhưng Đức Chúa, Đấng Cứu Độ. Cuối cùng ngày nay, Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là Thiên Chúa nói với dân Ngài, khuyến khích họ, ở bên cạnh họ, như bạn đồng hành thân thiết, Đấng cứu độ trung tín và có hiệu quả”.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 8-11)
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô họa nên một bức tranh tăm tối về nhân loại tội lỗi không thể tự sức mình giải thoát mình khỏi tội lỗi, vì thế cần phải đặt trọn niềm tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa. Sau đó, thánh nhân mô tả đầy cảm xúc cuộc sống mới của người Ki-tô hữu: cuộc sống trong ân sủng, nghĩa là cuộc sống được Thần Khí tác động chứ không còn chịu xác thịt chi phối nữa. Đoạn văn hôm nay được trích từ chương 8, chương dâng hiến một sự bình an và niềm vui.
1.Xác thịt và Thần Khí:
Thánh Phao-lô thích vận dụng những cặp đối nghịch: luật và đức tin, xác thịt và thần khí, con người cũ và con người mới, chế độ lề luật và chế độ ân sủng, vân vân.
Thánh nhân ban cho từ ngữ “xác thịt” một nét nghĩa tiêu cực không được gặp thấy trong Cựu Ước. Qua từ ngữ xác thịt, Thánh Kinh chỉ toàn bộ con người được Thiên Chúa sáng tạo, vì thế, xác thịt thực chất không thể nào là xấu được. Ngôi Lời sẽ đảm nhận xác thịt và “làm người”. Khi ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ít-ra-en “một trái tim bằng thịt thay cho trái tim bằng đá” ông ban cho từ ngữ “xác thịt” tất cả sự cao quý của nó. Chắc chắn ở nơi nhân tính có một khía cạnh địa giới mà từ ngữ xác thịt gợi lên, do đó đối lập với thiên giới, thế giới thần linh.
Trong cặp đối nghịch xác thịt-thần khí, thánh nhân được gợi hứng từ cặp đối nghịch: địa giới-thiên giới, theo quan niệm mang đậm nét Do thái, chứ không theo quan niệm nhị nguyên Hy lạp: thân xác-linh hồn. Tuy nhiên, thánh nhân xem bản tính địa giới là bản tính xấu, được ghi dấu bởi tội lỗi.
2.Sống theo Thần Khí:
Dù vẫn còn ở trong sự đối nghịch giữa xác thịt và thần khí, kinh nghiệm của người Ki-tô hữu chứng nhận rằng tác động Thần Khí biến đổi tận bên trong con người. Thánh nhân ngỏ lời với những người lãnh bí tích Thánh Tẩy: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (8: 9). Và thánh nhân chứng minh cho họ thấy việc phục sinh thân xác là tất yếu. Đây là nét độc đáo của đoạn văn nầy.
3.Thần Khí là sự sống và là nguyên lý của sự sống lại:
Do tội lỗi, thân xác của chúng ta tất yếu phải chết. Như ở nơi khác, thánh nhân đồng hóa thân xác phải chết với “con người cũ” phải bị diệt vong. Ấy vậy, Thần Khí ở nơi chúng ta là Sự Sống – chính ở đây mà quan niệm Do thái về một con người toàn diện, bất khả phân thân xác và thần thiêng, đóng một vai trò trong lập luận – Thần Khí nầy chắc chắn biến đổi thân xác chúng ta, thân xác sẽ trở thành “thần thiêng” và bất khả hư hoại.
Đây là điều thánh nhân đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô rồi: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí” (1Cr 15: 42-44). Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ánh sáng đã bao phủ thánh nhân trên đường đi Đa-mát và đã soi sáng cuộc đời ngài. Ở trung tâm những khai triển thần học của thánh nhân, chúng ta không ngừng gặp lại biến cố then chốt: sự kiện Phục Sinh. “Sự phục sinh của Đức Giê-su cấu tạo nên bước khởi đầu của cuộc tạo dựng mới mà chúng ta được dự phần vào nhờ đức tin. Từ đó phải rút ra những hiệu quả: trong đức ái, chúng ta sống như những con người được phục sinh; trong đức cậy, chúng ta đảm bảo sự phục sinh tương lai của chúng ta” (Karl Gatzweiler).
TIN MỪNG (Ga 11: 1-45)
Bài trình thuật: “Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại”, là bài trình thuật về dấu lạ dài nhất trong Tin Mừng Gioan, qua dấu lạ nầy, Đức Giê-su kín đáo loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Dấu lạ nầy cũng là lời cảnh báo tối hậu mà Đức Giêsu gởi đến cho những ai không chịu mở lòng ra mà tin vào Ngài. Vả lại, lời mời gọi tin vào Ngài là một chủ đề chạy xuyên suốt toàn bộ câu chuyện này. Sự căng thẳng giữa Đức Giê-su và dân Ngài, vốn hình thành nên hậu cảnh của Tin Mừng Gioan, không bao giờ đạt đến cao độ như thế ở nơi câu chuyện này.
-Dẫn nhập (11: 1-5):
Ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện giới thiệu gia đình của ba chị em: cô Mác-ta, cô Ma-ri-a và anh La-da-rô quê ở Bê-ta-ni-a, một gia đình Chúa Giê-su yêu quý (11: 5), và hoàn cảnh mà họ gặp phải: “Anh La-da-rô, người bị đau nặng” (11: 2). Chỉ vừa mới đây, Chúa Giê-su cùng với các môn đệ “lánh sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa và Người đã ở lại đó” (10: 40) để tránh dân chúng ném đá Ngài, như các môn đệ nhắc cho Ngài (11: 9). Chính ở nơi đây mà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a nhờ người đến báo tin cho Đức Giê-su về bệnh tình của anh La-da-rô, em trai của hai cô: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng” (11: 3). Đức Giê-su trả lời: “Bệnh nầy không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh nầy Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11: 4).
Như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan, lời Đức Giê-su chứa đựng hai nghĩa. Quả thật, Đức Giê-su sẽ “được tôn vinh” qua dấu lạ mà Ngài sắp thực hiện, nhưng dấu lạ nầy sẽ dẫn Ngài đến cái chết của chính mình, vì Ngài sẽ khiến kẻ thù của Ngài công phẩn đến tận xương tủy. Đối với Tin Mừng Gioan, vinh quang của Đức Giê-su rực sáng nhất ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài. Thánh Giá là cửa ngõ đưa Ngài trở về nhà Cha Ngài. Tin Mừng Gioan sẽ làm sáng tỏ sự kiện Thiên Chúa đã đặt “vinh quang” của chính mình vào trong sứ mạng cứu độ con người, vì Ngài đã đặt vào đây tất cả tình yêu của Ngài.
1.Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với các môn đệ (11: 6-16):
Khi được tin báo, thay vì khởi hành đến Bê-ta-ni-a ngay, Đức Giê-su lại trì hoãn. Sau hai ngày, Ngài mới tuyên bố: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê” (11: 7). Như vây, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a chỉ sau khi anh La-da-rô đã chết và mai táng trong mồ được bốn ngày rồi. Lý do của việc trì hoãn nầy chắc chắn là Ngài muốn gây ấn tượng ở nơi hành động của Ngài khi hoàn sinh người chết sau khi đã chết và mai táng trong mồ.
Các môn đệ lưu ý Thầy về hoàn cảnh nguy hiểm: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (11: 8). Trong câu chuyện này, độc giả được loan báo rằng việc Ngài ra đi không nhằm bất kỳ lý do thuần túy nhân loại, nhưng mặc một ý nghĩa cao siêu, tức là bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ chưa ngộ được ý nghĩa cao siêu nầy. Phản ứng của họ là phản ứng cẩn trọng của con người: ở Giu-đê, cuộc sống của Đức Giê-su bị đe dọa, vì thế Ngài không nên trở lại đó để thăm người bạn đang lâm bệnh vào lúc này. Đây là đề tài: “một từ đa nghĩa”, rất quen thuộc của Tin Mừng Thứ Tư.
Đức Giê-su sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua từ sự hiểu biết thuần túy địa giới đến một tiên cảm về mầu nhiệm. Như thông thường trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai lòng mở trí cho các môn đệ nhờ vào cách thức mặc khải bí nhiệm. Dựa trên ý nghĩa ẩn dụ “ngày và đêm”, Ngài công bố mầu nhiệm của Ngài. Theo nghĩa vật lý, thành ngữ nầy muốn nói rằng có thời gian cho mỗi việc, và thật thích hợp khi chọn ban ngày để bước đi ngỏ hầu tránh những tai nạn khi phải bước đi trong đêm tối. Theo nghĩa ẩn dụ (nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư), “ngày” là thời gian của ánh sáng. Điều này muốn nói rằng bao lâu Đức Giê-su vẫn còn đó, phải tận dụng ánh sáng của Ngài, mặc khải mà Ngài đem đến. Vì thế, nỗi sợ hãi thật sự không xuất phát từ những nguy hiểm do con người tạo ra, nhưng từ sự vắng bóng Ánh Sáng. Việc Đức Giê-su tiến về Giê-ru-sa-lem không được đánh giá theo sự chuyển biến thận trọng của con người, đúng hơn, thuộc phạm vi bày tỏ Ánh Sáng. Vì thế, đây là một lời mời gọi hãy tin vào Ngài nhờ vào Ánh Sáng nầy, nhưng cũng là lời loan báo về viễn cảnh đầy đe dọa của đêm sắp đến: cái chết và cuộc chiến thắng bóng tối, tức là quyền lực tử thần (x. Ga 13: 30b).
Tiếp đó, dù không ai cho biết điều gì về bệnh tình của anh La-da-rô, Đức Giê-su công bố rằng anh La-da-rô đã chết qua hình ảnh giấc ngủ : “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (11: 11), như trước đây đối với bé gái của viên trưởng hội đường: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5: 39). Đức Giê-su vui mừng vì sứ điệp của Ngài sẽ dễ dàng được hiểu ở nơi dấu lạ Ngài sắp thực hiện.
Các môn đệ không còn tìm cách ngăn cản Ngài nữa. Một trong các môn đệ của Ngài, ông Tô-ma, tự phát và bạo dạn nói với các bạn đồng môn của mình: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (11: 16). Ông không ngờ rằng lời ông diễn tả chân tính người môn đệ của Đức Giê-su.
2.Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với cô Mác-ta (11: 17-27):
Khởi đi từ câu 17, câu chuyện bắt đầu một giai đoạn mới: khung cảnh không còn ở Ga-li-lê, nhưng ở Bê-ta-ni-a, chiều kích mặc khải của dấu lạ không còn được loan báo, nhưng được vén mở. Chính trong khung cảnh của cuộc đối thoại với cô Mác-ta mà ý nghĩa dấu lạ dần dần được sáng tỏ.
A-Niềm tin của cô Mác-ta:
Trong khung cảnh Bê-ta-ni-a, chúng ta gặp lại tính tình khác nhau của hai chị em này: cô Mác-ta thì năng động, còn cô Ma-ri-a có đời sống nội tâm sâu lắng, đã được Tin Mừng Lu-ca ghi nhận trong một dịp Chúa Giê-su viếng thăm nhà của hai cô (Lc 10: 38-42). Tuy nhiên, trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, tính tình năng động của cô Mác-ta đã là cơ hội giúp Chúa Giê-su dẫn đưa cô, và qua cô dẫn đưa độc giả vào một mạc khải cao vời về chân tính của Ngài.
Dù bận rộn tiếp đón những người thân đến chia buồn, nhưng vừa khi nghe tin Chúa Giê-su đến, cô Mác-ta hối hả ra tận đầu làng để đón Ngài. Khi vừa mới gặp Chúa Giê-su, cô Mác-ta trách cứ Ngài, Ngài đã cứu chữa biết bao bệnh nhân, ấy vậy lại đã không đến kịp lúc để cứu chữa người bạn mà Ngài thương mến. Tuy trách cứ như vậy, nhưng cô vẫn nuôi hy vọng: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy” (11: 22). Nhưng Đức Giê-su muốn kiện toàn đức tin của cô, Ngài không muốn cô Mác-ta chỉ hài lòng thấy Ngài là “người của Thiên Chúa”, nghĩa là những gì Ngài cầu xin đều được Thiên Chúa nhận lời, nhưng cô còn phải nhận ra chân tính của Ngài.
B- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”:
Khi nói với cô Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại” (11: 23), Chúa Giê-su cho cô biết đó là dự định của Ngài khi đến đây. Nhưng cô Mác-ta lại hiểu lời này là lời an ủi nên cô đáp: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại” (11: 24). Ở nơi câu trả lời của cô hàm chứa niềm tin của đạo Do thái. Từ nhiều thế kỷ trước đó, niềm tin vào sự sống lại thuộc về gia sản tinh thần của đạo Do thái, ngoại trừ nhóm Sa-đu-xê-ô.
Chúa Giê-su tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (11: 25a), lời tuyên bố này được Chúa Giê-su khai triển xa hơn: “Ai sống và tin vào Thầy, thì dù đã chết, thì cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11: 25b). Những lời nầy của Đức Giê-su đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên một điều chắc chắn: Đức Giê-su khẳng định Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Thêm nữa, tiến trình của câu chỉ ra rằng Ngài muốn hiệu đính, hay đúng hơn bổ túc lời khẳng định của cô Mác-ta: Đối với người Ki-tô hữu, còn hơn cả sự sống lại vào ngày sau cùng, một cuộc sống siêu nhiên vô tận khơi nguồn ở nơi sự hiệp nhất của họ với Đức Ki-tô ngay từ cõi thế này. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng cuộc sống không kết thúc ở nơi cái chết. Trong Thánh Lễ Cầu Hồn, Giáo Hội khẳng định: “Cuộc sống không hề mất đi, nhưng thay đổi” (vita mutatur non tollitur).
Cuộc Mặc Khải chấm dứt với lời mời gọi dứt khoát theo thể nghi vấn: “Chị có tin thế không ?” (11: 26). Câu hỏi này được đặt ra, ở bên kia cô Mác-ta, cho những ai hiểu lời hứa nầy của Đức Ki-tô. Cô Mác-ta đã lắng nghe. Cô đã đạt đến một niềm tin cao vời khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.
3.Thực hiện dấu lạ (11 : 28-44):
Sau lời tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta, câu chuyện bước vào giai đoạn thứ ba, trực tiếp hướng đến việc thực hiện dấu lạ. Sự hiện diện của cô Ma-ri-a và của những người Do thái đem đến cho câu chuyện một hướng phát triển mới, một bước nhảy vọt. Việc thực hiện dấu lạ không đem đến những yếu tố mới cho phần mặc khải trước đó, nhưng cho phép ghi nhận thêm lần nữa vài phản ứng tiêu biểu của những người chứng kiến dấu lạ.
A-Đức Giê-su xúc động:
Cảm xúc của Đức Giê-su được gợi lên đến ba lần: Ngài thổn thức tận đáy lòng (11: 33), Đức Giê-su liền khóc (11: 35), Đức Giê-su lại thổn thức tận đáy lòng (11: 38). Hơn bất cứ biến cố nào khác, biến cố nầy bày tỏ “nhân tính” của Đức Giê-su rất rõ ràng: sự xúc động của Ngài, sự dịu dàng của Ngài, nước mắt của Ngài, đồng thời cũng biểu lộ “thần tính” của Ngài, Đấng chủ tể sự sống và cái chết khi cho anh La-da-rô đã chết và được mai táng bốn ngày rồi được sống lại.
B- “Hãy cất phiến đá nầy đi ”:
Người kể chuyện kể tỉ mỉ ngôi mộ : “Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại”, vì những chi tiết nầy báo trước một cuộc mai táng khác, cuộc mai táng của chính Chúa Giê-su, theo đó cũng một phiến đá được lăn lấp mộ và được lăn ra khỏi mộ một cách mầu nhiệm.
Khi cầu nguyện lớn tiếng, Chúa Giê-su có chủ ý khơi động niềm tin của những người có mặt, niềm tin vào Ngài, niềm tin vào sự hiệp nhất của Ngài với Cha Ngài, niềm tin mà Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải kiên vững ngay trước khi cuộc thử thách lớn lao sắp xảy đến và để họ nhớ lại quyền năng của Ngài trên sự chết vào buổi sáng Phục Sinh.
Khi mô tả cách chi tiết việc anh La-da-rô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn liệm, Tin Mừng Gioan có chủ ý nhấn mạnh với độc giả sự tương phản với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, Ngài bỏ lại trong mồ mọi liên hệ với cái chết, cái chết nầy Ngài đã chiến thắng cách vĩnh viễn, không còn tác động gì đến Ngài.
Đoạn Tin Mừng Gioan được trích trong Phụng Vụ hôm nay chấm dứt với câu 45 nhưng chúng ta phải đọc cho đến câu 53 để thấy dấu lạ của sự phục sinh này gây nên hai phản ứng trái ngược nhau từ phía người Do thái, những chứng nhân của dấu lạ: những người nầy tin (11: 45) trong khi những người khác “đi gặp nhóm Biệt phái và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm” (11: 46), theo cách nào đó, đó là những người cộng tác vào quyết định của những kẻ thù của Đức Giê-su, bởi vì dấu lạ này còn là cái cớ để giai cấp lãnh đạo Do thái buộc tội và kết án tử cho Chúa Giê-su.

ShareTweet

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần III Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần III Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần III Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần III Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần III, Mùa Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần III, Mùa Phục Sinh

Thứ Hai, Tuần III Phục Sinh

Thứ Hai, Tuần III Phục Sinh

Chúa Nhật III Phục Sinh – Năm C

Chúa Nhật III Phục Sinh – Năm C

Bài Viết Mới

ỦY BAN THÁNH NHẠC: BÀI HÁT “CẦU CHO ĐỨC GIÁO HOÀNG”

ỦY BAN THÁNH NHẠC: BÀI HÁT “CẦU CHO ĐỨC GIÁO HOÀNG”

HĐGMVN-Thông báo về Đức Tân GH Lêô XIV

HĐGMVN-Thông báo về Đức Tân GH Lêô XIV

Robert Francis Prevost – Tiểu sử của vị Tân Giáo Hoàng Lêô XIV

Robert Francis Prevost – Tiểu sử của vị Tân Giáo Hoàng Lêô XIV

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần III Phục Sinh

Ủy Ban Thánh Nhạc: Hội Thảo Thánh Nhạc Lần Thứ 54

Ủy Ban Thánh Nhạc: Hội Thảo Thánh Nhạc Lần Thứ 54

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 09 Nguyễn Thái Học – Tp. Đà Lạt – Lâm Đồng – Việt Nam
– Điện thoại: 0918.525.019
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
  • Phụng Vụ
  • Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi