“Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái”.
Bài Ðọc I: Cv 9, 26-31
“Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy Chúa thế nào”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi tới Giêrusalem, Saolô tìm cách tiếp xúc với các môn đệ; nhưng mọi người đều sợ ngài, không tin rằng ngài đã trở thành môn đệ. Barnaba dẫn ngài đến gặp các Tông đồ, và ngài thuật lại cho các ông biết trên đường ngài đã thấy Chúa thế nào, đã được Chúa phán dạy, và tại Ðamas ngài dạn dĩ xưng danh Ðức Giêsu thế nào. Và từ đó, ngài ra vào Giêrusalem với các ông, và dạn dĩ xưng danh Chúa. Ngài cũng giảng dạy cho dân ngoại, và tranh luận với những người Hy-lạp, nên họ tìm cách giết ngài. Các anh em biết việc đó, nên đem ngài xuống Xêsarêa, rồi tiễn đưa ngài về Tarsê.
Hội Thánh được bình an trong miền Giuđêa, Galilêa và Samaria, sống trong sự kính sợ Chúa, được xây dựng và đầy ơn an ủi của Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28 và 30. 31-32
Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong đại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: “Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời”.
Xướng: Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa; bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn con sẽ sống cho chính Chúa.
Xướng: Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: “Ðiều đó Chúa đã làm”.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 18-24
“Ðây là giới răn của Người: là chúng ta phải yêu thương nhau”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật. Do đó, chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.
Các con thân mến, nếu lòng chúng ta không khiển trách, thì chúng ta tin tưởng nơi Thiên Chúa, và bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng được Người ban cho, vì chúng ta giữ giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người.
Và đây là giới răn của Người: Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 4 và 5b
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con; ai ở trong Thầy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 15, 1-8
“Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
“Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Ðây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
“Ở LẠI TRONG CHÚA”
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái.” (Ga 15,5)
Suy niệm: Nếu Đức Giê-su sống ở Việt Nam, hẳn Ngài sẽ nói: “Thầy là cây ổi, Thầy là cây xoài… anh em là cành.” Cũng như cây ổi, cây xoài, cây nho có cành lá, có hoa trái. Muốn có lá xanh trái ngọt, thì cành phải gắn liền với cây, tiếp nhận nhựa sống của cây. Người môn đệ Chúa Ki-tô cũng vậy, muốn cây đời của mình sinh hoa trái thơm ngon, phải ở lại trong Ngài, hiệp thông với sự sống thần linh của Ngài. Thế nào là “ở lại trong Ngài”? – Là sống mối tương quan thân thiết với Ngài: cầu nguyện, đối thoại với Ngài, đọc Lời Chúa, “tiêu hóa” Lời ấy qua việc suy niệm, hiện thực Lời hằng sống trong cuộc sống mỗi ngày; hiệp thông với Ngài qua các bí tích, cách riêng trong Thánh Thể, cố gắng trở nên giống Đấng mình lãnh nhận, đồng hình đồng dạng với Ngài.
Mời Bạn: Nếu đến trang trại nho trong thời gian cắt tỉa, bạn sẽ ngạc nhiên vì số cành lá bị cắt tỉa nằm dưới đất nhiều hơn cành lá trên cây. Chủ trang trại sẽ giải thích phải làm vậy mới có mùa nho sai trái. Đời bạn cũng vậy thôi, phải để Chúa “cắt tỉa” mình qua hy sinh, khổ chế, thập giá… đó là những nhát kéo cắt tỉa đau đớn, nhưng nhờ vậy, đời Kitô hữu bạn mới sản sinh hoa trái ngon ngọt của tình mến Chúa yêu người.
Sống Lời Chúa: Tôi suy nghĩ xem phải làm gì để có thể “ở lại trong Ngài” trong hoàn cảnh cụ thể của bậc sống mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là cây nho Chúa Cha đem trồng trong vườn nho Nước Trời. Tất cả chúng con là cành nho gắn liền với cây nho. Xin cho con luôn nỗ lực “ở lại trong” Chúa qua việc gắn bó với Chúa trong mọi sinh hoạt đời thường của mình. Amen.
B/ Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh mời gọi mỗi Ki-tô hữu phải xác tín rằng cuộc đời Ki-tô hữu không thể nào đơm hoa kết trái nếu không được cắt tỉa.
Cv 9: 26-31
Sách Công Vụ tường thuật Giáo Hội Giê-ru-sa-lem ngần ngại tiếp đón thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân đã hoán cải. Nhưng thánh nhân đã thật sự hoán cải: một môn đệ rao giảng Đức Ki-tô với một con tim bốc lửa và một niềm xác tín sâu xa.
1Ga 3: 18-24
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan khuyên người Ki-tô hữu hãy đứng về phía sự thật; có như thế, cuộc đời chúng ta mới thanh thản và bình an và lời nguyện cầu của chúng ta mới được Thiên Chúa nhậm lời.
Ga 15: 1-8
Đức Giê-su là cây nho thật. Được kết hợp với Ngài, các môn đệ mới có thể đơm bông kết trái được, nhưng phải biết rằng họ phải chịu cắt tỉa, nghĩa là phải chịu thử thách.
BÀI ĐỌC I (Cv 9: 26-31)
Trong suốt sáu Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả Bài Đọc I đều được trích dẫn từ sách Công Vụ: năm trong số đó liên quan đến lãnh vực hoạt động của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội. Một đoạn trích duy nhất, đoạn trích hôm nay, nêu bật dung mạo của thánh Phao-lô. Chứng liệu này cống dâng cho chúng ta mối quan tâm về lịch sử cũng như tâm lý: chính yếu là thời gian thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, sau khi hoán cải. Thánh nhân được đón tiếp với thái độ nghi kỵ.
1. Những thử thách đầu tiên của thánh Phao-lô
Các Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những biết mà còn biết quá rõ về ông Phao-lô này. Trong cuộc bách hại đạo đầu tiên giáng xuống trên họ, ông Phao-lô là kẻ bách hại cuồng tín nhất: “Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục” (Cv 8: 3). Ông đã dự phần vào việc ném đá thánh Stêphanô, chính ở dưới chân ông mà người ta để áo để rảnh tay ném đá (Cv 7: 58).
Nhiều năm sau này, chính thánh Phao-lô vẫn còn nhớ thái độ cuồng tín mà ông đã phô bày vào lúc đó: “Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế ủy quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ” (Cv 26: 9-11).
Ấy vậy, cũng chính nhân vật này trở lại Giê-ru-sa-lem và tự nhận mình là môn đệ của Đức Giê-su. Làm thế nào cộng đoàn Ki-tô hữu không khỏi nghi ngờ về việc một kẻ bách đạo cuồng tín này nay đã được chính Đấng Phục Sinh quy phục để trở thành một trong những nhà truyền giáo nhiệt thành nhất của họ được chứ? Thật ra, tin đồn về cuộc hoán cải của thánh nhân đã vang dội tới Giê-ru-sa-lem; nhưng phản ứng đầu tiên là ngờ vực.
Trong thư gởi các tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô tường thuật những gì đã xảy ra cho thánh nhân sau khi được ơn trở lại. Sau khi Đấng Phục Sinh đã tỏ mình ra cho thánh nhân trên đường đi Đa-mát và sau những ngày thánh Phao-lô đã trải qua giữa nhóm nhỏ Ki-tô hữu thành Đa-mát, thánh nhân viết: “Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày” (Gl 1: 16-18).
Tại sao thánh Phao-lô lại trì hoãn lên Giê-ru-sa-lem? Phải chăng vì kẻ bách hại xưa kia đã gây ra biết bao điều tang tóc cho những người Ki-tô hữu ở tại kinh thành này nay cảm thấy ngại ngùng? Lý do thật sự mà thánh Phao-lô cho chúng ta ở nơi những lời này: “Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập”. Thánh nhân không hỏi ý kiến của bất kỳ ai, tự xem mình là người được chính Đấng Phục Sinh ủy nhiệm, là người đã nhận mệnh lệnh loan báo Tin Mừng từ chính Chúa. Tức khắc, ông khởi hành ra đi loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây không là lần duy nhất, như đoạn trích Công Vụ hôm nay cho thấy.
Tuy nhiên, trong những ngày lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, khi “tìm cách nhập đoàn với các môn đệ”, thánh Phao-lô lại càng gieo nỗi sợ hãi ở nơi họ. May thay, có một người trong số họ, không xuất thân từ Giê-ru-sa-lem nhưng từ đảo Síp, rất có uy tín trong cộng đoàn vì tấm lòng quảng đại của ông (Cv 4: 37), đó là ông Giu-se, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là “người có tài yên ủi” (Cv 4: 36). Chính ông nhận ra nhân cách của thánh Phao-lô, vì thế ông lấy uy tín của mình mà đứng ra bảo lãnh thánh nhân và chân thành giới thiệu ơn gọi đặc biệt của thánh nhân. “Từ đó thánh Phao-lô cùng với các tông đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng danh Chúa”.
Nhưng rồi thánh Phao-lô nhận thấy Hội Thánh Giê-ru-sa-lem quá bận tâm về sự hoán cải của những người Do thái bản địa, vì thế thánh Phao-lô toan tính mở rộng sứ vụ truyền giáo đến những người Do thái gốc Hy-lạp. Sở hữu hai nền văn hóa: Do-thái và Hy-lạp, những người Do thái gốc Hy lạp này đến sinh sống ở Giê-ru-sa-lem và hình thành nên một nhóm nhiệt thành và năng động, nhưng cũng là một nhóm nguy hiểm. Thánh Tê-pha-nô đụng phải họ và đã phải trả giá bằng mạng sống của mình (x. Cv 6: 9). Thánh Phao-lô cũng phải chịu chung số phận. Lòng nhiệt thành của thánh nhân đánh thức lòng thù hận của họ. Thánh nhân phải lìa bỏ Giê-ru-sa-lem không chỉ để cứu mạng mình nhưng còn vì lợi ích của Hội Thánh Giê-ru-sa-lem: “Anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô”.
Những bước khởi đầu đầy gian nan này không ảnh hưởng đến tâm tình mà thánh Phao-lô dành cho Hội Thánh-Mẹ; thánh nhân luôn luôn công bố uy quyền của Hội Thánh-Mẹ mà ông gắn bó sâu xa. Thánh nhân sẽ không quản ngại ra sức quyên góp để giúp đỡ Hội Thánh-Mẹ. Với tấm lòng nhiệt thành truyền giáo, thánh nhân luôn luôn là người tiên phong, nhưng luôn luôn hoạt động trong mối hiệp thông với Hội Thánh.
Ông Ba-na-ba sẽ không quên người bạn đồng hành có tâm hồn bốc lửa này. Vài năm sau này, ông sẽ cất công đi tìm thánh Phao-lô ở Tác-xô, dẫn thánh nhân theo với mình đến An-ti-ô-khi-a; đoạn, lôi kéo thánh nhân vào cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên của mình. Thánh nhân cảm thấy mình thoải mái hơn trong cuộc mạo hiểm lớn lao này.
2. Hội Thánh được bình an
Sau những sự cố xảy ra trong những ngày thánh Phao-lô lưu lại ở Giê-ru-sa-lem, Hội Thánh lại được bình an. Thời kỳ yên ổn này không kéo dài được bao lâu. Vào năm 42-43, cuộc bách hại xảy đến một lần nữa, lần này do vua Hê-rô-đê Ác-ríp-pa, cháu của vua Hê-rô-đê An-ti-pát. Trong cuộc bách đạo này, nạn nhân đáng chú ý nhất là thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, bị xử trảm.
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 18-24)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Bức thư này được triển khai theo một dàn bài khó xác định. Cũng những chủ đề xuất hiện nhiều lần, lúc thì với những lập đi lập lại, lúc thì với những hàm chứa mới. Nhưng giọng văn luôn luôn thôi thúc và nồng nàn. Vị Tông Đồ trình bày những tiêu chuẩn cho cuộc đời Ki-tô hữu chính danh.
Thánh nhân khuyên người Ki-tô hữu “đứng về phía sự thật”, tức là “sống trong sự thật”, “sống trong bình an” và “sống trong mối hiệp thông với Thiên Chúa”. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo thường hằng được nhắc đi nhắc lại trong bức thư này: một ngón đòn hữu hiệu nhất đối lại với những đạo lý sai lạc đang hoành hành nhân danh Ki-tô giáo, tự cho mình là cao vời siêu việt.
1. Sống trong sự thật
Sống trong sự thật, chính là sống theo cách sống của Thiên Chúa, nghĩa là sống trong tình yêu, vì Thiên Chúa là tình yêu.
“Đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Đây là lời khuyên cảnh giác của vị mục tử, nhưng cũng là lời quở trách ngầm đối với những người lạc giáo mà thánh Gioan vừa mới lên tiếng ở trên: “Ai nói mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1Ga 2: 9). Chúng ta không thể xác định cách cư xử của những thầy dạy sai lạc này, nhưng sau này chúng ta biết rằng những nhà thuyết giáo ngộ đạo này bày tỏ sự khinh miệt đối với đám đông tín đồ không có khả năng vươn tới sự khôn ngoan của họ.
2. Sống trong bình an
Người Ki tô hữu nào thực hành tình yêu chân chính cho anh em mình, mới có thể sống trong sự thanh thản và bình an: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa”. Chữ “lòng” ở đây phải được hiểu theo nghĩa của văn hóa Do thái, nơi lương tâm ngự trị: “vì nếu lương tâm chúng ta cáo tội chúng ta thì Thiên Chúa còn lớn hơn lương tâm chúng ta, và Người biết hết mọi sự”.
Cả câu trích dẫn trên và câu theo sau: “Nếu lương tâm không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, hình thành nên hai thái độ căn bản ở nơi người Ki-tô hữu: thái độ của tội nhân thống hối ăn năn và thái độ của người công chính làm những việc đẹp lòng Chúa.
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta đừng xao xuyến vì tội lỗi của mình. Thiên Chúa biết rõ cõi lòng sâu thẳm của chúng ta còn hơn chúng ta nữa; chúng ta hãy phó thác vào trong sự hiểu biết sâu xa của Ngài. Mẫu gương mà bức thư này thường trích dẫn để minh họa lời khuyên bảo này là mẫu gương của thánh Phê-rô, rõ ràng được thánh Gioan tường thuật trong Tin Mừng của mình, khi Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”, vị Tông Đồ nhớ lại ba lần mình đã chối Thầy, nên không dám quả quyết ngay là mình yêu mến Thầy, nhưng khiêm tốn phó thác vào sự hiểu biết của Đức Giê-su, Đấng thấu suốt cõi sâu thẳm của lòng người: “Thưa Thầy, Thầy biết là con yêu mến Thầy”. Và lần thứ ba, với một giọng trầm buồn, thánh nhân thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 18). Ở đây, chúng ta gặp lại cùng một diễn ngữ trong thư thứ nhất của Gioan: “Người biết mọi sự”.
Trường hợp thứ hai là thái độ của người Ki-tô hữu trung tín: lương tâm của họ không cáo tội họ. Thánh Gioan không ngần ngại khuyên bảo họ hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Khi người công chính đạt được tâm trạng này, họ biết rằng những lời cầu nguyện của mình phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa; vì thế, “xin điều gì được Người ban cho điều đó”. Chủ đề này vang dội trong bản văn của Tin Mừng hôm nay.
3. Sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa
Diễn ngữ “Tuân giữ các điều răn của Người” được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc xuyên suốt bức thư này. Trong đoạn trích này, thánh Gioan hòa hợp ý muốn của Chúa Cha và lệnh truyền của Chúa Con thành một viễn tượng duy nhất, trong quan điểm hiệp nhất của Thiên Chúa. Chúa Cha đòi hỏi họ phải “tin vào Con của Ngài” và “yêu thương nhau” như Chúa Con đã đòi hỏi họ. Hai huấn lệnh này “được đúc kết thành một huấn lệnh duy nhất”. Như vậy, đối với thánh Gioan, “tin” và “yêu thương nhau” thì bất khả phân ly.
Đức tin sống động này đảm bảo cho người tín hữu rằng “mình ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong mình” (chúng ta gặp lại động từ “ở trong” chất chứa cùng một ý nghĩa như trong Tin Mừng thứ tư). Chính Thần Khí bảo lãnh đức tin và đức ái này một cách chắc chắn và chính thực. Như vậy, chương này kết thúc với cuộc đời Ki-tô hữu trong cùng một quan điểm của Ba Ngôi Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Ga 15: 1-8)
Vì Lễ Thăng Thiên: tưởng niệm cuộc ra đi của Đức Giê-su, sắp đến gần, các bản văn Tin Mừng của Chúa Nhật V và Chúa Nhật VI Phục Sinh được trích dẫn từ những cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào con đường Khổ Nạn.
1. Bối cảnh của dụ ngôn “cây nho”
Dụ ngôn “cây nho” được Chúa Giê-su công bố với các môn đệ Ngài trong cuộc chuyện trò sau cùng này. Xét về hình thức, dụ ngôn này khó lồng vào khuôn khổ lịch sử của buổi chiều cáo biệt này. Đức Giê-su nói rất nhiều điều với các môn đệ mình; đoạn Ngài tỏ dấu rời khỏi bàn tiệc mà đến vườn Ô-liu: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”. Ấy vậy, ngay sau lời này, Ngài công bố: “Thầy là cây nho thật”. Phải chăng Chúa Giê-su kể dụ ngôn này khi Ngài cùng với các môn đệ cùng chung bước trong đêm trên đường đến vườn Ô-liu? Xem ra hợp lý hơn, Chúa Giê-su công bố dụ ngôn này đang khi Ngài cùng các môn đệ rảo bước băng qua vườn nho của miền Pa-lét-tin. Đây là cách thức thông thường Ngài đưa ra giáo huấn của mình khởi đi từ những dữ kiện cụ thể.
Tuy nhiên, còn chỗ nào thích hợp hơn là bữa Tiệc Ly ở đó Đức Giê-su nhắc lại dụ ngôn này khi mà chén rượu được chuyền tay, khi mà cây nho thật sắp sản sinh rượu nho tinh tuyền nhất từ cuộc Khổ Nạn sắp đến của Ngài nhỉ? Dụ ngôn “cây nho” ngân vang một cung giọng đậm nét Thánh Thể. Trong Tin Mừng của mình, dù thánh Gioan không tường thuật Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể, thánh ký đã biết đóng ấn Bí Tích này trên bữa Tiệc Ly cao cả này.
2. “Thầy là cây nho thật”
Nếu chúng ta liên kết hai bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước và của Chúa Nhật này, sứ điệp của Chúa Giê-su thật tuyệt vời. Sau khi Chúa Giê-su đã gợi lên tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa dưới dung mạo “Người Mục Tử Nhân Lành”, bây giờ Ngài gợi lên tấm thân tình gần gũi của Thiên Chúa qua một hình ảnh khác, hình ảnh “Cây Nho Thật”.
Khi tuyên bố mình là “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su quy chiếu về một lịch sử dài của biểu tượng chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: Ít-ra-en là cây nho được Thiên Chúa ân cần chăm lo, điều này được các ngôn sứ không ngừng nhắc đi nhắc lại: Hô-sê, I-sai-a, đặc biệt Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Tv 80, các sách Khôn Ngoan v.v… Nhưng cây nho này, dù đã được Thiên Chúa hết lòng chăm sóc, đã không đơm bông kết trái như lòng Chúa mong ước. Các vị lãnh tụ hiện nay của dân cung cấp một bằng chứng rõ ràng (x. Mt 21: 33-44).
Đức Giê-su là cây nho thật, cây nho hoàn hảo, cây nho sinh hoa kết trái như Chúa Cha mong đợi, nghĩa là Đức Giê-su là Ít-ra-en mới; các Ki-tô hữu kết hợp với Ngài hình thành nên Dân Thiên Chúa Mới, dân mà Ngài chuyển thông nhựa sống của mình cho họ.
Đức Giê-su long trọng khẳng định: “Thầy là cây nho thật”. Đây là một trong những lời khẳng định độc quyền của Đức Giê-su khi Ngài tuyên bố “TÔI LÀ”, một danh xưng mà Cựu Ước chỉ dành riêng cho Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Những lời khẳng định này thường có một âm vang chiều kích Mê-si-a và luôn luôn mặc lấy tính chất siêu việt. Ở đây, Đức Giê-su xác định: cây nho chính là Ngài, Con Thiên Chúa; người trồng nho chính là Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Như vậy Chúa Giê-su muốn nói rằng sự sống mà Ngài chuyển thông thực chất là sự sống thần linh. Thân nho và các cành nho hình thành nên chỉ một cây nho duy nhất, hình ảnh mật thiết về Chúa Ki-tô với Giáo Hội của Ngài. Ở đây, khía cạnh Giáo Hội cũng rõ ràng như trong dụ ngôn Người Mục Tử Nhân Lành, nhưng điểm nhấn được đặt trên đời sống nội tại của Giáo Hội.
3. “Anh em là cành”
Ở nơi lời tuyên bố “Thầy là cây nho, anh em là cành”, chúng ta nhận ra một chủ đề căn bản của Tin Mừng Gioan. Đức Giê-su đòi hỏi một sự chọn lựa: hoặc gắn bó với Ngài hay từ chối Ngài. Gắn bó với Ngài không là một con đường dễ dàng. Đức Giê-su gợi lên những công việc mà thính giả của Ngài biết rất rõ, những công việc của người trồng nho xử lý cây nho của mình như thế nào để cây nho được trổ sinh nhiều hoa trái: chặt cành tỉa lá một cách nghiêm khắc, không biết xót thương. Chúa Cha hành xử như vậy đối với những môn đệ của Con Ngài. Đức Giê-su sử dụng những từ rất mạnh mẽ; Ngài chuẩn bị cho các môn đệ của Ngài bước vào những thử thách đang chờ đợi họ. Đây chính là mầu nhiệm Vượt Qua mà chính Ngài sẵn sàng sống. Luật cắt tỉa luật cứng rắn, nhưng chỉ như vậy người Ki-tô hữu mới trở thành những cành nho đơm bông kết trái.
Tuy nhiên, Đức Giê-su trấn an các ông: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em”. Chữ “lời” được hiểu theo nghĩa giáo huấn, sứ điệp . Đây là nét nghĩa thường hằng trong Tin Mừng Gioan: “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (8: 51); “Ai nghe lời tôi, và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (5: 24); “Các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông” (8: 37). Vả lại, đặc ngữ này quy chiếu đến Ngôi Lời trong Tựa Ngôn: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”.
Trước đó, Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô rồi khi Ngài rửa chân cho ông: “Về phần anh em, anh em đã sạch” (13: 10). Các Tông Đồ được sạch nhờ Lời Thiên Chúa mà họ đã đón nhận, Lời này đã trở thành ở trong họ một sức mạnh biến đổi nội tâm. Đây là một chủ đề tiêu biểu của thánh Gioan: Ai kết hợp với Sự Thật, người ấy có ở trong mình sức mạnh thanh tẩy, sức mạnh giải phóng khỏi sự dối trá và tội lỗi: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8: 31). Sự thật là sự sống; hai khái niệm rất gần nhau tại Tin Mừng Gioan.
4. “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”.
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em”. “Ở lại” là từ chủ chốt của dụ ngôn này. Chúng ta biết rằng, khác với ba Tin Mừng Nhất Lãm, thánh Gioan không sử dụng kiểu nói: “Nước Thiên Chúa” (ngoại trừ trong cuộc đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô ở đó kiểu nói này xuất hiện hai lần: Ga 3: 3 và 5). Thánh nhân không bao giờ nói: “Nước Thiên Chúa đã đến gần” hay “Nước Thiên Chúa ở đó”, vì Nước Thiên Chúa không là một thực tại bên ngoài. Thánh Gioan nhấn mạnh “chiều kích nội tại của Nước Thiên Chúa” và diễn tả chiều kích nội tâm hóa này bởi động từ “ở lại”.
Cành nho không thể tự mình đơm bông kết trái được, cũng vậy: “Không có Thầy, anh em không làm gì được”. Đây cốt là cuộc sống siêu nhiên mà không ai có thể đạt được hay tăng trưởng được, nếu chỉ cậy nhờ vào những phương thế của riêng mình.
Toàn bộ dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Hậu cảnh bí tích được tiềm ẩn ở đây. Đức Giê-su công bố những lời này vài giờ trước cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Chính Giáo Hội là những cành nho, nhất thiết phải gắn bó mật thiết với Đức Ki-tô là thân nho, để tiếp nhận nhựa sống thần linh. Nước Rửa Tội và Rượu Thánh Thể sẽ là những chính lộ của sự chuyển thông này; cây nho thật là cây ban sự sống.
5. “Anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”
Trong Diễn Từ Cáo Biệt của mình, Đức Giê-su nhiều lần nhấn mạnh lời cầu nguyện: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”. Chính Ngài nêu gương khi hoàn tất cuộc trò chuyện của Ngài với các môn đệ bởi một lời cầu nguyện dài thân thưa với Cha Ngài, được gọi “Lời Nguyện Hiến Tế” (17: 1-26).
Trong viễn cảnh của sự kết hợp mật thiết giữa thân nho và cành nho, Đức Giê-su gợi lên tính hiệu lực của lời cầu nguyện. Cường độ của cuộc sống nội tâm kéo theo như một sự thẩm thấu giữa những ý muốn của Thiên Chúa và những ước muốn của người tín hữu.
6. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh
Như chúng ta đã biết, Tin Mừng Gioan được chia thành hai phần: phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về các dấu lạ” (2: 1-12: 50) và phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về vinh quang” (ch. 13-21). Quả thật, phần thứ hai này đề cập rất nhiều về vinh quang của Chúa Cha và sự tôn vinh của Chúa Con.
Điều đem lại vinh quang của người trồng nho chính là chất lượng của trái nho cũng như sự phong phú của chùm nho. Cũng vậy, các môn đệ sẽ góp phần vào vinh quang của Chúa Cha bằng những hoa trái thánh thiện và sự rạng ngời sứ vụ của họ. Lúc đó, họ xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa Giê-su. Bằng những lời này, Đức Giê-su diễn tả mối bận lòng chủ yếu của Ngài: thực hiện ý muốn của Cha Ngài trên con người, tức là họ phải nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
HƯỞNG GIA NGHIỆP MUÔN ĐỜI
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Đức Kitô, Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử: xin Chúa lấy tình Cha mà âu yếm đoái nhìn chúng ta, là những kẻ tin kính Đức Kitô, và ban cho chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là được tham dự vào tiệc cưới Con Chiên, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền cho thấy: Đức Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng đã lên ngôi hiển trị. Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là vui hưởng ánh sáng của Đức Kitô, Người là “ngày” không bao giờ tàn lụi, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Mácximô đã nói: Ánh sáng của Đức Kitô là ngày không có đêm, là ngày vô tận. Thật thế, chính Chúa Con là Ngày, vì Chúa Cha là Ngày hằng thông ban bí nhiệm thần tính của Người cho Chúa Con. Tôi xin nhắc lại : chính Chúa Con là Ngày, vì Người đã phán qua vua Salômôn: Ta đã làm cho ánh sáng không tàn lụi bừng lên trên trời.
Hưởng gia nghiệp muôn đời là ơn cứu độ phổ quát dành cho tất cả mọi người, vì thế, chúng ta phải rao truyền ơn cứu độ đó cho mọi người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phaolô và thánh Banaba đã nhiệt tình rao giảng Tin Mừng khắp nơi: Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
Hưởng gia nghiệp muôn đời thì phải sống xứng đáng, và phải có cung cách hành xử giống như Đấng đã cho chúng ta được cùng hưởng gia nghiệp với Người, đó chính là phải biết yêu thương nhau, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan nói: Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia cũng nguyện giữ trọn điều khấn hứa cùng Chúa: Lạy Chúa, giữa lòng đại hội, con nguyện tán dương Ngài. Điều khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước mặt những ai kính sợ Người. Kẻ nghèo hèn được ăn uống thỏa thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Ai ở lại trong Thầy, thì sinh nhiều hoa trái. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Cành nho sẽ không thể tự mình sinh trái, nếu không gắn liền với cây nho; nếu không ở lại trong Đức Kitô, chúng ta sẽ không thể tồn tại được; nếu không chấp nhận bị cắt tỉa, chúng ta không thể sinh hoa trái được. Hoa trái của Thánh Thần xuất phát từ thân nho Giêsu, không tháp nhập, không thông dự vào những đau khổ của Đức Kitô, chúng ta không thể sinh được những hoa trái tốt lành. Nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đã thương cứu chuộc chúng ta, và nhận chúng ta làm nghĩa tử. Ước gì chúng ta biết ở lại trong Đức Kitô, để chúng ta được trở nên những con người tự do đích thực, và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
I. DẪN NHẬP
Trong bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn cây nho và cành nho để dạy các Tông đồ ý nghĩa sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các Tông đồ, cũng như giữa các Tông đồ với nhau.
Theo dụ ngôn đó, cành nho phải luôn kết hợp với cây nho để lấy được sức sống và sinh hoa kết quả. Cành nào không tháp nhập vào cây sẽ bị cằn cỗi và khô héo dần, chỉ còn quăng vào lửa. Vì thế, để là môn đệ đích thực của Chúa Kitô, điều cần thiết là phải sống kết hợp với Ngài và sống chính cuộc sống của Ngài.
Cành nho có nhiệm vụ phải sinh hoa kết quả. Cành nào không sinh trái sẽ trở nên vô ích, làm hại sức sống của cây, phải được chặt bỏ đi. Cắt tỉa cành nho không có mục đích làm cho thân nho phải đau đớn nhưng là để cho cây giữ được sức sống mạnh mẽ và sinh được nhiều trái hơn. Do đó, sống kết hợp với Chúa không có nghĩa là hoàn toàn loại trừ mọi đau khổ vì chính đau khổ làm cho con người được trưởng thành, gắn bó với Chúa hơn và sinh nhiều công phúc.
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Cv 9,26 -31.
Thánh Phaolô được ơn Chúa cho trở lại trên đường đi Damas khi ông đi lùng bắt các Kitô hữu về Giêrusalem hành hình. Sau khi được ơn trở lại cách lạ lùng, Phaolô đã đến Giêrusalem trình diện các Tông đồ và xin được ơn chính thức công nhận sứ mạng rao giảng Tin mừng của ông.
Nhưng bước đầu thật khó khăn vì mọi người vừa không tin vừa còn sợ ông. Người ta còn nhớ lại tại Giêrusalem những cuộc truy lùng bách hại ráo riết những Kitô hữu của ông. Nhờ Barnaba đứng ra bảo lãnh nên Phaolô mới được đón nhận. Thế là Phaolôâ bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, trước hết từ Giêrusalem, rồi đến Tac-sê. quê hương của ông.
+ Bài đọc 2 : 1Ga 3,18-24.
Trong đoạn thư này, thánh Gioan Tông đồ cho chúng ta biết làm thế nào để Kitô hữu biết được rằng mình sống kết hiệp với Chúa ? Ngài nói rõ : là nếu họ tin nơi Chúa Kitô bằng một đức tin sống động, và đức tin này được biểu lộ ra bằng một tình yêu thương chân thành với những việc làm cụ thể trong đời sống.
Ngài nhấn mạnh : “Tình yêu phải sinh hoa trái”, nghĩa là yêu thương không phải chỉ bằng lời nói trên đầu môi chót lưỡi mà phải bằng việc làm như cảm thông trong phục vụ, bác ái và bằng việc tuân giữ các điều răn của Chúa Kitô.
+ Bài Tin mừng : Ga 15,1-8.
Đức Giêsu muốn dùng dụ ngôn cây nho để nói lên sự thông hiệp chặt chẽ giữa Ngài và các môn đệ. Cũng như cành nho phải tháp nhập vào cây nho thì mới có sự sống và sinh hoa trái, thì Kitô hữu cũng phải kết hợp, gắn bó với Chúa Kitô để có được sức sống thiêng liêng của Ngài và mới có thể mang lại hoa trái ân sủng, sự thánh thiện, sức sống thiêng liêng…
Đức Giêsu còn cho biết thêm : để cành nho cho những hoa trái có chất lượng, cần phải được cắt tỉa, loại bỏ những mầm vô ích. Cũng vậy, Thiên Chúa Cha là người trồng nho thật, cũng cắt tỉa tâm hồn và con tim chúng ta bằng những việc xẩy ra không đúng ý mình muốn, làm cho mình đau khổ, để có thể sinh nhiều hoa trái hơn.
Đức Giêsu cũng còn hứa một điều tốt đẹp khi Ngài nói:”Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được”(Ga 15,7).
III. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thầy là cây nho đích thực.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã tự ví mình như Mục tử nhân lành, chăm sóc đoàn chiên và sẵn sàng thí mạng vì đàn chiên đã được giao phó. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài lại tuyên bố:”Thầy là cây nho đích thực” để nhắc nhở cho chúng ta phải kết hợp với Ngài để sinh hoa kết quả trong đời sống thiêng liêng.
A. HÌNH ẢNH CÂY NHO TRONG THÁNH KINH.
- Cây nho trong Cựu ước.
Trong Thánh kinh, nho là một hình ảnh, một biểu tượng quen thuộc. Có người nói đó là”Cây sự sống”trồng ở giữa vườn địa đàng (St 2,9).
Nhiều lần Cựu ước mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa : ”Vườn nho của Đức Giavê ấy là nhà Israel”(x. Is 5,1-7).
Qua Giêrêmia, thông điệp của Thiên Chúa đã truyền đến cho Israel rằng:”Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt” nhưng vườn nho đã sinh ra quả đắng đót (Gr 2,21).
Tiên tri Ôsê nói :”Israel là cây nho tươi tốt”(Os 10,1).
Hằng năm dân chúng mừng lễ mùa nho. Isaia sáng tác một bài dân ca mừng vườn nho xinh tươi của người bạn (Is 5,1-2) để ám chỉ tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài. Và khi sự việc tệ hại xẩy ra, tác giả Thánh vịnh vẫn xướng lên một bài ca hy vọng:”Lạy Thiên Chúa, xin hãy viếng thăm và bảo trợ vườn nho mà chính tay Chúa đã vun trồng”(Tv 80,15-16).
Cây nho đã trở nên biểu tượng của dân tộc Israel. Huy hiệu trên các đồng tiền hồi Maccabê là cây nho. Một trong những kỳ công chói lọi trong Đền thờ là cây nho bằng vàng thật lớn đặt trước Nơi Thánh. Nhiều vĩ nhân kể mình có vinh dự lớn khi được phép dâng một số vàng để đúc thêm một chùm trái mới cho cây nho ấy. Cây nho là một hình ảnh đặc trưng của người Do thái và là biểu tượng của dân Israel.
- Cây nho trong Tân ước.
Tại sao trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố:”Ta là cây nho đích thật”(Ga 15,1) ? Từ ngữ Alethnos có nghĩa là thật, có thật, đích thực chứ không phải giả tạo.
Sở dĩ, Đức Giêsu xưng mình là cây nho “thật” vì trong Cựu ước, như các tiên tri đã phàn nàn, biểu tượng cây nho luôn luôn được gắn liền với ý niệm về suy thoái.
Trong bức tranh của Isaia, vườn nho đã trở thành vườn nho hoang.
Giêrêmia đã than phiền vì dân tộc ông đã biến thành một cây nho lạ, thoái hóa thành một cây khác.
Hôsê thì kêu lên:”Israel là cây nho trơ trụi”.
Dường như Đức Giêsu muốn nói : các ngươi tưởng vì thuộc về dân Israel nên các ngươi là cành nho thật của Thiên Chúa. Dân Do thái là một cây nho, nhưng là một cây nho thóai hóa y như các tiên tri đã nhìn thấy. Chính Ta mới là cây nho thật.
B. ĐỨC GIÊSU LÀ CÂY NHO THẬT.
- Bối cảnh của dụ ngôn.
Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn này sau bữa Tiệc ly lúc tình yêu Thầy trò thật chan chứa. Có người cho rằng lúc ấy Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra khỏi thành xuống khe suối Cédron. Ngồi giữa khung cảnh đó, họ thấy nho mọc khắp vùng, rồi Ngài nói:”Thầy là cây nho thật… Các con là cành”. Đồng thời họ cũng nhìn thấy trong thung lũng đêm tối những đám cháy đang thiêu rụi những cành nho đã bị cắt quẳng đi lúc ban ngày. Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu nói thêm:”Ai kết hợp với Thầy… thì người ấy sinh hoa trái dồi dào… Ai không kết hợp với Thầy, thì bị quẳng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta sẽ ném nó vào lửa cháy đi”.
Khi Đức Giêsu khẳng định:”Thầy là cây nho đích thực và Cha Thầy là người trồng nho”(Ga 15,1) thì Ngài muốn các môn đệ nhận ra Ngài là cây nho Chúa Cha đã đưa từ trời xuống trồng cho thế gian được sống nhờ kết hợp với Ngài. Khác với thứ cây nho là dân Do thái được bứng từ Ai cập về như Thánh vịnh 80 đã mô tả : Thứ nho có bóng rậm cả núi non, nhánh vươn tới biển khơi và chồi lan tới sông cả. Nhưng nó chỉ hào nhoáng bên ngoài như cây nho bằng vàng giả tạo đúc trên cổng Đền thờ, nó vô tâm, vô hồn, được người ta ca tụng nó, nhưng nó không biết ca tụng Thiên Chúa, nên Ngài đã để cho kẻ qua lại dầy đạp nó, cho heo rừng và dã thú phá hủy nó. (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm C, tr 80)
- Liên hệ giữa cây nho và cành nho.
Khi Đức Giêsu nói:”Thầy là cây nho, các con là cành” thì Ngài có ý nói lên sự cần thiết chúng ta phải kết hợp với Ngài. Theo kinh nghiệm trồng nho của người Do thái : vào mùa xuân, những cành nho tràn ngập sức sống, dưới hình thức của những chiếc lá và nụ hoa. Vào mùa thu, chúng trĩu nặng những chùm nho. Nhưng chúng có được sự sống này, và có khả nặng tạo ra được quả, chỉ vì chúng nối kết với thân cây. Khi bị cắt khỏi thân cây, chúng sẽ không chỉ trở nên cằn cỗi, mà còn nhanh chóng bị khô héo và chết rục. Giống như những cành cây cần đến thân cây, chúng ta rất cần đến Đức Kitô. Khi bị tách lìa khỏi Ngài, thì chúng ta không có sự sống, và không có khả năng sinh hoa kết quả.
Đó là hình ảnh cho chúng ta biết : mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Đức Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối.
Tuy thế, cây nho cũng cần đến cành nho, chính những cành nho tạo ra hoa quả. Điều này có nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là những cành nho của Ngài. Cây nho và cành nho cần đến nhau. Bên nhau, chúng tạo ra một sự hợp nhất. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng sự tin tưởng mà Ngài đặt để nơi chúng ta vĩ đại như thế nào. Chúng ta có thể cảm thấy mình không được đầy đủ, nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng cây nho cứng cáp và đầy sức sống. Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta , để tạo ra hoa quả trong thế giới này.
Như vậy chúng ta phải kết hợp với Chúa để được thông ban sự sống, nếu không chúng ta sẽ trở nên những cành cây khô héo, trở nên những con người cô đơn, không giúp ích gì cho mình và cho kẻ khác.
Truyện : Con người cô đơn.
Khắp trên thế giới, nơi đâu cũng có bán máy chụp Kodak. Người ta có thể nói:”Các cửa hiệu bán máy chụp hình và phim Kodak không bao giờ đóng cửa”. Khi các cửa tiệm Đông phương đóng cửa nghỉ, thì các tiệm ở Tây phương mở cửa bán.
Ông chủ hãng phim Kodak sống ở toà nhà sang trọng bậc nhất New York, có không biết bao nhiêu tiền của ký gửi trong các ngân hàng lớn trên khắp thế giới, muốn lấy ra lúc nào tùy thích. Tài khoản thâu nhập của ông không tính theo mỗi năm, mỗi tháng, mà tính theo mỗi giây đồng hồ. Ông muốn gì cũng có, ông hưởng hết phúc lộc của con người. Người nào muốn ra tranh cử Tổng thống cũng đều phải nhờ ông làm hậu thuẫn, giúp đỡ tiền bạc. Mọi thứ trên đời này ông đều có, duy chỉ có một điều vô cùng quan trọng thì ông lại không có. Đó chính là Thiên Chúa. Vì không có Chúa nên lúc nào ông cũng cảm thấy cô đơn trống vắng. Mọi người thấy ông, cứ nghĩ là ông được sung sướng, nhưng thực ra ông rất đau khổ.
Ông dùng tiền của quá dư thừa của mình mà đi chu du vòng quanh thế giới, hưởng muôn sự khoái lạc thế gian, hầu khỏa lấp nỗi cô đơn, trống vắng trong cõi lòng. Nhưng một tâm hồn không có Chúa thì tất cả vũ trụ cũng không thể làm cho họ được hạnh phúc.
Kết thúc chuyến du lịch vòng quanh thế giới mà cõi lòng ông vẫn hoang vắng, buồn bã. Vì quá tuyệt vọng, ông đã lao mình xuống đại dương mênh mông tìm sự giải thoát.
- Muốn nhiều hoa quả, cần cắt tỉa.
Người ta trồng nho để lấy quả, cành nào không sinh hoa quả thì trở nên vô ích, cần phải cắt bỏ. Chúa bảo chúng ta là cành phải sinh hoa kết quả thì mới phát triển theo thánh ý Chúa. Chúng ta trổ sinh hoa quả, bằng cách phát triển, xử dụng và chia sẻ năng khiếu đó cho nhau vì mỗi người chúng ta đều có một số năng khiếu mà Chúa ban cho. Thế giới đang chờ đợi hoa quả của chúng ta. Đóù là gieo rắc tình thương để mọi người biết yêu Chúa và yêu thương nhau.
Cắt tỉa cây nho là một điều cần thiết và là điều kiện để sinh nhiều hoa trái. Một cây nho tơ trong ba năm đầu chưa có trái, mỗi năm nó phải được tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào mùa đông.
Có hai loại cành nho, một loại sinh trái và một loại không sinh trái. Loại cành không sinh trái phải chịu cắt bỏ không thương tiếc, để lại, chúng hút mất sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không cho trái đúng mức nếu không bị cắt tỉa thật kỹ. Chúa Giêsu biết rõ điều đó.
Nhưng cắt tỉa là một quá trình gây đau thương cho một cây ăn quả. Đây là một thực tế không thể chối cãi được. Nhưng mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, mà là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Nói tới việc cắt tỉa là chúng ta phải nói đến vấn đề đau khổ. Vấn đề đau khổ là một thực tại ngàn đời tồn tại và luôn luôn đòi được giải đáp. Đau khổ đến với ta dưới mọi hình thức : tinh thần, thể xác, bên ngoài, bên trong, cá nhận, tập thể, cộng đoàn. Ta có cảm tưởng đó là một lực lượng đến phá hủy tiềm năng phát triển con người. Nhưng với ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy được một khía cạnh của đau khổ. Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để thanh luyện chúng ta, để cho ta sinh hoa trái tươi tốt về đàng thiêng liêng. Điều cần thiết là phải lãnh nhận đau khổ với tinh thần đức tin và sự cậy trông ở lòng thương vô biên của Thiên Chúa.
IV. KẾT HỢP VỚI CHÚA KITÔ.
Đọc dụ ngôn cây nho và cành nho, chúng ta thấy rõ ý Đức Giêsu là Ngài muốn chúng ta kết hợp với Ngài. Mầu nhiệm cây nho được Đức Giêsu tóm lại trong hai sự việc sau đây : kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa muốn dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, có kết hợp với Chúa mới đem lại kết quả thiêng liêng cho kẻ khác và cho chính mình.
Chúng ta nên để ý đến câu Đức Giêsu nói với các môn đệ “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Đây là bổn phận của một cành nho. Điều kiện này không thể thiếu được, nếu không muốn đời sống siêu nhiên của mình bị héo tàn và vô dụng, vì Chúa nói rõ:”Không có Thầy, các con không thể làm được gì”(Ga 14,5) hoặc :”Không ở trong Thầy, các con không thể sinh hoa trái”.
Nếu chúng ta được ở trong Đức Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Ngài cũng ở trong Thiên Chúa nên khi chúng ta kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi. Tư tưởng này đã được thánh Hilariô trình bầy trong bài khảo luận về Chúa Ba Ngôi mà chúng ta trích dẫn sau đây :
“Nếu Người chỉ muốn ta hiểu về sự hiệp nhất theo ý chí, thì tại sao Người lại trình bầy sự hiệp nhất phải được hoàn thành theo một tiến trình và một trật tự ? Đó là vì chính Đức Kitô ở trong Chúa Cha theo bản tính Thiên Chúa, và chúng ta ở trong Đức Kitô theo bản tính nhân loại Người đã lãnh nhận ; do đó, chúng ta tin rằng Đức Kitô ở trong chúng ta nhờ bí tích Thánh Thể. Nhờ vậy, chúng ta biết được sự hiệp nhất trọn hảo do Đấng Trung gian thực hiện : Khi chúng ta ở trong Đức Kitô, thì Người vẫn ở trong Chúa Cha, và khi Người ở trong Chúa Cha thì Người cũng ở trong chúng ta nữa. Như thế, chúng ta ngày càng tiến triển trong sự hiệp nhất với Chúa Cha, bởi vì Chúa Con vẫn ở trong Chúa Cha theo bản thể do được sinh ra từ thuở đời đời, và chính chúng ta cũng ở trong Đức Kitô theo bản thể, đang khi Người ở trong chúng ta theo bản thể” (Trích Các bài đọc Kinh sách, Mùa chay và phục sinh, tr.26).
Đó là sự kếp hợp giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa cây nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao ? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương “Mỗi người là một hòn đảo” mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rời rụng đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.
Truyện : Kết hợp với Chúa.
Văn hào kiêm triết gia nổi tiếng người Ấn độ Rabindranath Tagore đã viết như sau:
“Trên bàn tôi là sợi dây Guitar, tôi xoay nó qua lại theo các chiều khác nhau, nó không bị ràng buộc chi cả. Vì nó được cuộn tròn nên khi tôi xoắn đầu này thì đầu kia cũng bật dậy, sợi dây dẫy nảy trong tay tôi, mà chẳng phát ra một âm thanh nào. Hiện tượng này biến mất khi tôi buộc nó vào chiếc đàn Guitar, hai đầu bị gắn chặt để sợi dây căng thẳng, rồi với đầu ngón tay, tôi gảy nhẹ vào sợi dây và lạ thay , một âm vang nổi lên hầu như du dương. Đây chính là lúc sợi dây được tự do để tạo nên nốt nhạc.
Cũng thế, trong cách trồng cây cà chua, cây yếu ớt ngã xoài trên mặt đất, nhiều khi lá bị héo úa dập nát. Nhưng nếu cây được cột vào một cọc dựng đứng, mọi phần tử của cây được phơi ra ánh nắng, cây sẽ mơn mởn và đâm nhiều bông trái. Chính vì bị ràng buộc mà cây đã có nhiều triển vọng sinh hoa kết quả”(Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 39).
Chúng ta cần lặp lại lời Đức Giêsu đã nói với chúng ta :”Không có Thầy các con không làm được gì”(Ga 14,5). Chúng ta sống được là nhờ có ơn Chúa, mọi sự phải nằm trong tay Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta chỉ có thể phát triển được khi có ơn Chúa nâng đỡ, ngoài Chúa ra không ai có thể giúp đỡ chúng ta làm được việc gì sinh ơn ích cho phần rỗi chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng phải cần đến nhau vì , theo Thomas Merton, “Không ai là một hòn đảo”. Mọi người phải liên đới với nhau, hành động của người này ảnh hưởng đến công việc của người kia. Vì thế, muốn hưởng tự do của mình, ta phải tôn trọng tự do kẻ khác. Nói cách khác, tự do của mỗi chúng ta ràng buộc lẫn nhau và giúp đỡ lẫn nhau nữa.