“Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông
và được đem lên trời”. (Lc 24,51)
Bài Ðọc I: Cv 1, 1-11
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng ?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời ? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.
Đó là Lời Chúa.
Bài Ðọc II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Đó là Lời Chúa.
Tin mừng: Mc 16,15-20
15Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.
17Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.18 Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
SỨ MẠNG MỚI
Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các tông đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông. (Mc 16,19-20)
Suy niệm: Xem ra việc Phục sinh là thời cơ để Chúa tung ra một chiến dịch phục hồi uy tín của Ngài đã bị tiêu tan khi Ngài chịu tử nạn. Nếu việc làm cho Ladarô sống lại đã khiến nhiều người Do Thái tin vào Chúa, thì nay đích thân Ngài quảng bá việc Ngài đã chết rồi nay phục sinh như lời Ngài đã báo trước, ắt là kết quả còn ngoạn mục biết chừng nào.
Thế sao Chúa Giêsu lại ‘vội vã’ về trời, ‘đùn đẩy trách nhiệm’ cho các tông đồ đang lúc công việc loan báo Tin Mừng cứu độ hầu như phải bắt đầu lại từ số không? Nhưng thánh ý Chúa vượt quá suy tính của con người. Khi sai các tông đồ ra đi, Chúa không ‘đem con bỏ chợ’, nhưng Ngài “cùng hoạt động với các ông” “với những dấu lạ kèm theo”. Giờ đây, mỗi tông đồ, mỗi Ki-tô hữu là một Giêsu tràn đầy Thần Khí, lo gì mà không thể “đi khắp tứ phương thiên hạ” mà “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” nữa!
Mời Bạn: Ấy thế mà cũng đáng lo đấy, nếu như ngày hôm nay, bạn và tôi chểnh mảng không chu toàn sứ mạng Ngài đã phân công cho chúng ta khi Ngài về trời! Bạn thử kiểm điểm xem mình đã thực hiện thế nào công tác loan báo Tin Mừng này.
Sống Lời Chúa: Mỗi tháng đặt ra cho cá nhân bạn, cho nhóm của bạn một chủ điểm loan báo Tin Mừng. Cuối tháng kiểm điểm và đặt chủ điểm mới.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai chúng con đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin đổ tràn đầy ơn Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con luôn nhiệt tâm thực thi mệnh lệnh Chúa truyền dạy.
B/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông
“ĐỨC GIÊ-SU ĐƯỢC ĐƯA LÊN TRỜI
VÀ NGỰ BÊN HỮU THIÊN CHÚA”
***
Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc tôn vinh của Chúa Con ngự bên hữu Chúa Cha, theo một công thức cô động mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thằng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có các Tông Đồ làm chứng và cuộc tôn vinh của Ngài không có nhân chứng.
Cv 1: 1-11
Sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Ngài, sách Công Vụ tường thuật cuộc Thăng Thiên hữu hình: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.
Ep 4: 1-13
Sau khi gợi lên biến cố Thăng Thiên vinh quang của Đức Ki-tô: “Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời”, thánh Phao-lô nhắc lại rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu là gặp lại Đức Ki-tô, vì Ngài là Thủ Lãnh của Giáo Hội, và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài.
Mc 16: 15-20
Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc tôn vinh của Chúa Con ngự bên hữu Chúa Cha, theo một công thức cô động mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Tông Đồ Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô nào đó, mà chúng ta không biết.
Sách Tin Mừng Lu-ca kết thúc với cuộc Thăng Thiên của Đức Ki tô: “Người rời khỏi các ông, và được đưa lên trời…” (Lc 24: 51) trong khi sách Công Vụ mở ra với hai lần gợi lên cùng một biến cố: “…cho tới ngày Người được rước lên trời” (Cv 1: 2) và“Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (1: 9). Như vậy, qua kiểu trình bày văn chương này: “ở phần cuối” sách Tin Mừng Lu-ca và “ở phần đầu” sách Công Vụ, cuộc Thăng Thiên rõ ràng được trình bày vừa đích điểm sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa và vừa khởi điểm sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa ở giữa loài người; đồng thời, vừa hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và vừa bắt đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
1. Hai cuộc Thăng Thiên:
Một cách nào đó, chúng ta có thể phân biệt hai cuộc Thăng Thiên: Cuộc Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng, đó là việc Đức Giê-su trở về cùng Cha Ngài ngay sau khi Ngài sống lại. Đây là một cuộc đoàn tụ Ba Ngôi, biến cố tuyệt mức thần linh; và đó cũng là cuộc tôn vinh Đức Giê-su bên cạnh cạnh Chúa Cha, cuộc tôn vinh mà Ngài đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài:“Vậy, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).
Cuộc Thăng Thiên thứ hai là việc Đức Giê-su lên trời hữu hình trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: chính nhân tính, cùng với Đức Ki-tô, sẽ chiếm chỗ trong vinh quang Thiên Chúa. Cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc thăng thiên của chúng ta.
2. Lý do của cuộc Thăng Thiên hữu hình.
Vào cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, Ngài chỉ cần loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, đoạn nói lời từ biệt với họ, và rồi biến mất như Ngài đã nhiều lần làm như vậy trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh. Tại sao Đức Giê-su đã chọn cuộc ra đi khỏi thế giới nầy một cách ngoạn mục như thế, dù thoáng qua và kín đáo?
Chúng ta gặp thấy câu trả lời qua cách thức mà Đức Giê-su, trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, đã trình bày cuộc sống tiền hữu và cuộc Nhập Thể của Ngài.
Trước hết, Ngài lên trời theo cách thức như vậy nhằm chỉ rõ mình dưới danh xưng“Con Người”, nhân vật này, theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định:“Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13; cf. 16: 28; 17: 11, vân vân).
Đức Giê-su cũng sử dụng hình ảnh nầy khi công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong diễn từ “Bánh Hằng Sống”, Ngài gợi lên sáu lần diễn ngữ “từ trời xuống” nầy, và cuối cùng, Ngài kết thúc bằng những lời nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Đây là cách thức Đức Giê-su dùng để loan báo cuộc Thăng Thiên của mình rõ ràng nhất.
3. “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra…”
Con số “bốn mươi” nầy chất chứa biết bao ý nghĩa: nó hình thành nên thể song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su trải qua trong hoang địa để chuẩn bị sứ mạng của Ngài, giữa phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài. Đó cũng là khoảng thời gian để chuẩn bị cho các môn đệ bắt tay vào sứ mạng của họ, giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Ngài.
Chúng ta có thể tự hỏi Ngài đã sống như thế nào sau khi sống lại. Một cách nào đó, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một tiên trưng. Quả thật, khi đọc đoạn văn Tông Đồ Công Vụ nầy làm thế nào chúng ta không nghĩ đến sách Tô-bi-a, trong đó thiên sứ Ra-pha-en, sau khi đã hoàn tất sứ mạng trần thế của mình, mặc khải cho ông Tô-bi-a và vợ của ông là bà Xa-ra chân tính của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Chúa…Đừng sợ! Bình an cho các ngươi!…Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi…do ý muốn của Thiên Chúa…Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy…Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi…Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa” (Tb 12: 15-21).
4. Chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi từ giả các môn đệ lên trời, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau cùng và loan báo cho các ông biết các ông sẽ đón nhận phép rửa trong Thánh Thần. Ngài nhắc lại lời hứa mà Ngài đã hứa với các ông: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc nầy, các ông đã hỏi Ngài câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Họ vẫn ôm ấp một giấc mơ chính trị xưa cũ về việc khôi phục nền độc lập của quốc gia Ít-ra-en! Đức Giê-su không trách cứ họ; Ngài không trả lời thẳng câu hỏi của họ, nhưng mượn kiểu nói khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá đất nước nhỏ bé của xứ Giu-đê, cho đến tận cùng thế giới. Nhưng vào lúc nầy đây, chưa đón nhận sức mạnh Thánh Thần, họ chưa có thể nào hiểu được.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Đây không cốt là đám mây nào, nhưng đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như đã xảy ra biết bao lần trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là thành ký của biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào giây phút Ngôi Lời thụ thai trong lòng trinh khiết của Mẹ; đó cũng là đám mây quyện lấy Đức Giê-su khi Ngài từ giả cõi thế nầy. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ thưa “xin vâng”. Cũng thế, các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Ngũ Tuần; Chúa Thánh Thần ngự xuống sẽ biến đổi các Tông Đồ và thúc đẩy họ bắt tay hành động. Các thiên sứ đã mời gọi họ rồi: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Nhưng phải chuẩn bị ngày Ngài trở lại nầy bằng cách bắt đầu công việc truyền giáo vĩ đại mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-13)
(Phụng Vụ cho phép chúng ta lựa chọn giữa bản văn Ep 1: 17-23 và bản văn Ep 4: 1-13. Bản văn Ep 1: 17-23 đã được chú giải trong lễ Thăng Thiên năm A. Vì thế, để có thêm chất liệu phong phú cho ngày lễ Thăng Thiên năm B, xin chú giải bản văn Ep 4: 1-13).
Thánh Phao-lô đã viết thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô trong khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời chào của bức thư nầy rất tổng quát gởi đến“các tín hữu trong Đức Giê-su Ki-tô”, điều nầy khiến nghĩ rằng bức thư nầy nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn (các cộng đoàn khác miền Tiểu Á).
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý và phần thứ hai về luân lý và khuyên bảo. Phần thứ hai được liên kết chặc chẽ với phần thứ nhất. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”.
Để tăng cường những lời khuyên bảo của mình, thánh Phao-lô nhắc nhớ trước hết ngài đang bị giam cầm, như vậy thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là nhân chứng chịu đau khổ vì Đức Ki tô.
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã có chủ ý trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và ra lệnh phải truyền lại cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.
2. Ơn gọi làm người Ki tô hữu.
Vì thế, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyên họ phải ăn ở thật khiêm nhường, hiền từ và nhẫn nại, lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng” (Mt 11: 29). Đoạn thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “ăn ở thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
3. Lời tuyên xưng đức tin.
Tiếp đó, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề về sự hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa tuyên xưng khi khẳng định niềm tin của mình, chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.
Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa, đoạn sử dụng từ vựng rất gần với từ vựng của phái Khắc Kỷ. Thiên Chúa của phái Khắc Kỷ, nguyên lý hiệp nhất, là“cha của muôn loài muôn vật”, Đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ. Đức Ki-tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh nội tại trong vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”.
Biểu thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo, trong đó họ đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhất là quy chiếu trật tự vũ trụ vào vai trò của các thiên sứ.
4. Biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần.
Muôn vàn ân sủng mà mỗi người đón nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho, Đấng “đã xuống tận các vùng đất sâu thẩm dưới mặt đất” (nhờ mầu nhiệm Nhập Thể) cũng chínnh là Đấng “đã lên cao hơn mọi tầng trời”. Ở đây, chúng ta nhận ra một trong những ý tưởng chủ đạo của thánh Phao-lô, thánh nhân thiết lập mối liên hệ giữa sự hạ mình của Con Thiên Chúa trong kiếp sống phàm nhân và sự tôn vinh của Ngài.
“Để làm cho vũ trụ được viên mãn”, thánh Phao-lô hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần, tức là việc Đức Giê-su lên trời và việc Ngài ban xuống muôn vàn ân sủng. Để thực hiện điều nầy, thánh nhân dựa vào một bản văn Kinh Thánh: Thánh Vịnh 68. Thánh Vịnh này là một bài ngợi ca được hát lên khi rước Hòm Bia Giao Ước lên Giê-ru-sa-lem; bài ngợi ca nầy trình bày Đức Chúa tiến lên thánh điện của Người như một vị lãnh tụ chiến thắng, dẫn theo đám tù binh. Thánh Phao-lô áp dụng bài ngợi ca nầy vào Đức Ki-tô “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người”. Muôn vàn ân huệ nầy được ban trước tiên cho những ai xây dựng Giáo Hội của Ngài.
5. Giáo Hội, sự viên mãn của Đức Ki tô.
Lúc đó, thánh Phao-lô hướng về phía các tín hữu, cũng chính họ xây dựng Nhiệm Thể Đức Ki-tô cho đến khi đạt được tầm mức tăng trưởng tối hậu, tầm vóc viên mãn. Sự viên mãn nầy chỉ có thể được thực hiện trong sự hiệp nhất của đức tin (thánh Phao-lô trở lại chủ đề về sự hiệp nhất) và của sự hiểu biết thật sự về Con Thiên Chúa.
Như vậy, cùng với nhau tăng trưởng trong đức tin và trong đức ái, “chúng ta sẽ được đưa lên cao cho đến Ngài”. Biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô loan báo và chuẩn bị biến cố thăng thiên của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 16: 15-20).
Đây là đoạn kết Tin Mừng Mác-cô. Biến cố Thăng Thiên được gợi lên rất ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đây là cách diễn tả mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính. Quả thật, lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố lên trời của Đức Giê-su: Cuộc tôn vinh của Ngài ngay lúc Ngài sống lại và cuộc lên trời hữu hình của Ngài trước mắt các Tông Đồ của Ngài.
Như Tin Mừng Lu-ca, Tin Mừng Mác-cô định vị hai biến cố vào cùng ngày: cả hai thánh ký đều đặt biến cố Thăng Thiên vào buổi chiều Phục Sinh, đây là cách thức thâu tóm hai biến cố trong cùng một quan điểm thần học. Tuy nhiên, sách Công Vụ lại đặt biến cố Thăng Thiên vào một khoảng thời gian “bốn mươi ngày sau”, về phương diện lịch sử xem ra thật hơn, bởi vì Tin Mừng Lu-ca nói về những lần Đấng Phục Sinh tỏ mình ra, dạy dổ các môn đệ của Ngài.
Đoạn Tin Mừng Mác-cô hôm nay có thể được chia thành ba phần:
-Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
-Biến cố Thăng Thiên (16: 19).
-Thi hành sứ mạng (16: 20).
1. Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
Biến cố Thăng Thiên đánh dấu việc kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và việc khởi đầu sứ vụ của các Tông Đồ.
Sự kiện Đấng Phục Sinh sai nhóm Mười Một đi thi hành sứ vụ đều được nhắc lại trong cả bốn sách Tin Mừng. Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh rõ nhất chiều kích phổ quát của sứ vụ nầy: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ” (Mt 28: 19).
Tin Mừng Mác-cô cũng nhấn mạnh không kém: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Diễn ngữ “mọi loài thọ tạo”, rất gần với diễn ngữ của thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Rô-ma (8: 19-22), có chung một viễn cảnh về sự đổi mới tâm linh, không chỉ của nhân loại nhưng cũng toàn thể vũ trụ.
A. Tin và không tin.
Thế chọn lựa đôi ngã: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”, gợi nhớ bút pháp của Tin Mừng Gioan: hoặc tiếp đón ánh sáng hay ở trong bóng tối. Cuộc giáng trần của Đức Giê-su đòi buộc con người phải chọn lựa. Tất cả lời rao giảng tông đồ quả quyết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất; không ai có thể đạt được sự sống siêu nhiên mà không qua Ngài. Chỉ Giáo Hội được trao quyền truyền đạt sự sống siêu nhiên nầy nhờ các Bí Tích, trước hết bí tích Thánh Tẩy.
Lập trường không nhân nhượng nầy được giải thích do việc các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái, những ngươi này từ chối tin vào Đức Ki-tô và chỉ thấy ơn cứu độ nhờ Lề Luật.
B. Dấu lạ.
Đức Giê-su kể ra một loạt dấu lạ mà “những ai có lòng tin vào danh Ngài” có thể làm được. Ở đây, Chúa Giê-su không không chỉ ngỏ lời với các Tông Đồ, nhưng còn với những ai tiếp nối sau các Tông Đồ: “Họ sẽ trừ được quỷ, họ sẽ nói được những tiếng mới lạ…”
Từ ngữ “dấu lạ” có một tầm mức rộng lớn hơn và sâu xa hơn từ ngữ “phép lạ”. Phép lạ hàm chứa một sự ngạc nhiên, một sự thán phục, trong khi dấu lạ hàm chứa một giáo huấn, một mặc khải chứ không luôn luôn là một điều kỳ diệu. Như nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu là một dấu lạ về sự sinh hạ của Giáo Hội; cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su tự nó là dấu lạ về tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại; muôn vàn ân huệ của Chúa Thành Thần, dù kín đáo, cũng là những dấu lạ không kém.
Trước đây Tin Mừng Mác-cô đã tránh dùng từ ngữ dấu lạ, vì đây là thuật ngữ mà các đối thủ của Đức Giê-su đã sử dụng để đòi hỏi Ngài cho họ thấy một bằng chứng để chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a (hai Tin Mừng Nhất Lãm khác cũng tuân theo thái độ dè dặt như thế). Trong đoạn kết nầy, thuật ngữ dấu lạ mặc lấy một giá trị tương đồng với thuật ngữ dấu lạ thường được dùng trong Tin Mừng Gioan: bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng cứu độ của Đức Giê-su.
Chúng ta gặp lại những dấu lạ nầy trong sách Công Vụ: các Tông Đồ đã trừ được quỷ, nói được những ngôn ngữ; thánh Phao-lô bị con rắn độc quấn vào tay mà không hề hấn gì (Cv 28: 3-6), thánh Phê-rô đặt tay và chữa người què (3: 7-8), ông Kha-na-ni-a đặt tay và chữa ông Sao-lô được thấy lại (9: 17-18), vân vân. Vả lại, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài vào lúc sai nhóm Bảy Mươi Hai đi thi hành sứ vụ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10: 19).
Tuy nhiên, các ngôn sứ đã loan báo rằng những dấu lạ như thế đánh dấu triều đại Mê-si-a, như ngôn sứ I-sai-a phác họa một cách sinh động: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất nầy, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11: 8-9).
Thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội được minh họa bởi muôn vàn ân sủng mà các Tông Đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi được hưởng.
2. Thăng Thiên (16: 19).
“Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời”. Tước hiệu “Chúa” (Kurios) để chỉ Đức Giê-su chỉ được gặp thấy một lần trong Tin Mừng Mác-cô: khi Ngài sai hai môn đệ ra đi chuẩn bị cuộc khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem của Ngài, chính Ngài tự cho mình tước vị nầy: “Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói làChúa cần đến nó” (Mc 11: 3). Tước hiệu “Chúa” nầy Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, được các Ki-tô hữu tiên khởi áp dụng cho Đức Giê-su để công bố “quyền chúa tể hoàn vũ của Ngài”.
Cuộc tôn vinh của Đức Giê-su được diễn tả bằng hình ảnh: “ngự bên hữu Thiên Chúa”. “Bên hữu Thiên Chúa” là chỗ danh dự và là dấu chỉ của việc dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là chỗ mà Thánh Vịnh 110 phân định cho Đấng Mê-si-a tương lai, Đấng sẽ là “Đức Chúa”. Chính Đức Giê-su tiên báo biến cố nầy cho các thành viên của Thượng Hội Đồng : “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng…” (Mc 14: 62).
Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất cho vài chi tiết rõ ràng về biến cố Thăng Thiên hữu hình (trong sách Công Vụ chi tiết rõ ràng hơn trong sách Tin Mừng của thánh nhân), trong khi Tin Mừng Gioan dọi chiếu ánh sáng trên biến cố Thăng Thiên vinh quang không có nhân chứng. Trong bài Diễn Từ Cáo Biệt của Ngài, Đức Giê-su nhiều lần nói với các Tông Đồ là Ngài “ra đi khỏi thế giới nầy mà về cùng Cha Ngài” và trong lời cầu nguyện của Ngài, Chúa Giê-su gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5). Sau cùng, không phải biến cố Biến Hình trên núi cao là dấu chỉ tiên báo biến cố Thăng Thiên vô hình và vinh quang mà Chúa Con sẽ được nhận lại đó sao?
3. Thi hành sứ mạng (16: 20).
Đoạn, các Tông Đồ ra đi loan báo Tin Mừng “khắp nơi”; và “có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Sự hiện diện vô hình của Ngài mà thánh Mát-thêu diễn tả trong cùng một bài tường thuật song song khi nhắc lại những lời sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).
Biến cố Thăng Thiên không là một cuộc ra đi của Đức Giê-su, nhưng khai mạc một cách thế hiện diện mới của Ngài. Từ nay, với cách thế hiện diện mới nầy, Ngài không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
NẮM CHẮC PHẦN HY VỌNG
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa cho cộng đoàn chúng ta biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong sự hiệp nhất với nhau, như các chi thể trong cùng một thân thể, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phaolô cho thấy: Là những chi thể của Đức Kitô, tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống hợp nhất với nhau, mỗi người tùy theo công việc phục vụ mình đã lãnh nhận: Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy theo mức độ Đức Kitô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, khi chúng ta cùng thông phần đau khổ với Người, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh nói: Người đã được đưa lên các tầng trời, nhưng dưới đất, Người vẫn còn phải chịu bất cứ nỗi khổ cực nào mà chúng ta cảm thấy với tư cách là chi thể của Người: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?, hay khi Người nói: Xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn. Vậy tại sao chúng ta không chịu khổ cực ở dưới đất như thế để được nghỉ ngơi với Người ở trên trời nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, khiến chúng ta được liên kết với Người?
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, trong khi chờ đợi điều Người đã hứa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại: Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa: Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, nhờ ơn Chúa soi sáng, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cầu xin: Xin Chúa soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu.
Nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Đức Kitô hưởng phúc vinh quang, là niềm hy vọng chắc chắn, Chúa dành cho hết mọi người, kể cả dân ngoại, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 46, vịnh gia đã kêu gọi: Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả. Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân. Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại: Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông. Đức Kitô đã lên trời vinh hiển: là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng ta vào Nước Chúa, khiến chúng ta là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Ước gì chúng ta biết hiệp nhất với nhau như các chi thể trong cùng một thân thể, khi chu toàn sứ vụ Chúa trao, và biết thông phần đau khổ với Đức Kitô, để được cùng Người hưởng vinh quang. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
Trời là như thế nào?
Năm 1961, khi phi thuyền đầu tiên của nước Nga bay ra ngoài trái đất thì ông Khrushchev đã mượn cơ hội này để chế giễu đức tin Kitô giáo. Ông ngạo nghễ nói rằng: “Phi hành gia Yuri Gagarin bay vào không gian, nhưng không thấy có Chúa nào cả. Do đó, chúng tôi không tin có đời sau!” Đây là lời tuyên bố của người không tin vào Thiên Chúa, kẻ không tin có sự sống siêu linh trên “trời” hay “cõi trời”.
Hôm nay chúng ta mừng kính Chúa Giêsu thăng thiên, Chúa Giêsu lên trời, Ngài tiến vào cõi trời vinh quang. Nhưng chắc chắn “cõi trời” mà Chúa Giêsu tiến vào, không phải là bầu trời vật chất như chúng ta có thể thấy khi ngước mắt nhìn.
Trời là như thế nào? Mỗi người chúng ta đây, chưa hề ai có đã thấy hoặc đã sống ở đó để mà kể lại tường tận. Thật may cho chúng ta Chúa Giêsu đã từ trời mà xuống thế gian 33 năm, cùng chịu những sự thương khó cho các linh hồn thiên hạ được rỗi… Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ vụ cứu thế và nay lại được rước lên trời và được tôn vinh bên hữu Đức Chúa Cha: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). Vậy đối với đức tin của người Công giáo chúng ta, “Trời” là như thế nào?
Trời là nơi chúng ta được sống đời đời trong sự hạnh phúc bất tận mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến và phụng sự Ngài trên trần gian này.
Trời là nơi chúng ta được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Chúa Giêsu.
Trời là nơi chúng ta được sống hạnh phúc đời đời với Đức Mẹ Maria, các Thánh Thiên Thần và các Thánh Nam Nữ.
Trời là nơi chúng ta được sống hạnh phúc đời đời với những người thân yêu đã từng sống với chúng ta trên cõi đời này: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, bà con họ hàng, bạn hữu, thân nhân, ân nhân.
Trời là nơi thân xác chúng ta được biến hoá một cách tuyệt diệu để hiệp nhất với linh hồn thiêng liêng mà ca tụng Chúa muôn đời. (http://conggiao.info/bai-giang-ngay-le-chua-giesu-len-troi-d-7612)
Một “cõi trời” như thế thật đáng cho chúng ta ước ao, mong mỏi lên trời, giống y như các môn đệ năm xưa đã ngây ngất chiêm ngắm Chúa Giêsu được rước lên trời. Tuy nhiên, mong mỏi khát khao được lên trời, không có nghĩa là chúng ta quên lãng những việc bổn phận thường ngày để chỉ lo chăm chăm chú chú những việc thiêng liêng. Trái lại, Kitô hữu chúng ta hướng vọng về trời bằng những hành động cụ thể như tích cực lao động, tích cực thực thi nhiều việc lành phúc đức cho mọi người… Đó là điều mà chính Chúa đã truyền dạy và nêu gương cho chúng ta, suốt 33 năm sống kiếp con người nơi trần gian.
Làm được như thế là chúng ta đang xây những bậc thang để bước lên trời, vì Nước Trời chỉ có thể mua bằng tình mến Chúa và yêu tha nhân ngay ở trần gian này.
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
KHỞI ĐIỂM CHO MỘT KỶ NGUYÊN MỚI
+++
A. DẪN NHẬP
Hôm nay Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm vinh quang Chúa lên trời. Thực sự , Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Cha Ngài ngay khi sống lại mà ta không cảm nghiệm được. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài rời bỏ chúng ta, trái lại, Ngài còn hiện diện hơn lúc nào hết giữa chúng ta ngay từ hôm nay :”Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa về trời nhưng Ngài muốn Giáo hội – là cánh tay nối dài của Ngài – tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Ngài cho đến ngày tận thế. Nếu Chúa nói với các môn đệ ngay vào lúc từ giã họ :”Các con hãy là những chứng nhân của Thầy cho toàn thế giới”(Cv 1,8) thì ngày nay Giáo hội cũng phải là chứng nhân trung thành của Ngài trong việc rao giảng Tin mừng, đem Chúa đến cho mọi người mọi nơi trên thế giới.
Ngoài ra, Thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời là quê hương của chúng ta, nơi mà Đức Giêsu đã dọn sẵn và đang đón chờ chúng ta. Nhưng muốn về trời ta phải cố gắng sống đời chứng nhân cho tốt và chu toàn nhiệm vụ của mình theo thánh ý Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 1.1-11.
Thánh Luca mở đầu sách Công vụ Tông đồ bằng cách tường thuật lại cho ông Thêôphilê việc Đức Giêsu trước khi giã biệt các Tông đồ đã trao ban cho họ những huấn lệnh cuối cùng và trọng trách tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài cho thế giới. Ngài còn hứa sẽ hiện diện với các ông cho đến ngày tận thế.
Ngày Đức Giêsu về trời không phải là kết thúc công việc của Ngài, nhưng việc Ngài về trời là một khúc quặt trong lịch sử cứu độ. Ngày Chúa về trời là một trang sử mới bắt đầu : Lịch sử của hoạt động Đức Giêsu hiện diện trong thế giới và Giáo hội cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh , các Tông đồ họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận lời Ngài đã hứa : Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vì chưa nhận lãnh Chúa Thánh Thần nên các Tông đồ chưa hiểu rõ những lời giảng dạy của Chúa, nhưng các ông sẽ hiểu rằng các ông được Chúa Kitô tuyển chọn để trở thành những chứng nhân của Ngài cho đến tận cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1, 17-23.
Thần khí khôn ngoan mà thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Êphsêsô phải soi lòng mở trí họ “hiểu biết” kế hoạch của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể tuyên xưng lời tối thượng của Đức Kitô mà không thán phục quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đấng chịu đóng đinh. Chính quyền năng ấy từ nay sẽ được thi thố nơi loài người để tạo nên một thân thể có Đức Kitô là Đầu và đạt đến sự viên mãn mà nhân loại hằng tìm kiếm. Tin vào ưu thế tuyệt đối của Đức Kitô, chính là ngay từ bây giờ góp phần vào sứ mạng của Hội thánh, là biết nhìn nhận một ý nghĩa và một nội dung cho niềm hy vọng. Trong viễn tượng này, mầu nhiệm Thăng Thiên làm cho ta hiểu rằng cùng với Đức Kitô, một kỷ nguyên mới đang được mở ra cho nhân loại.
(Jean Frisque, Hướng dẫn gặp gỡ Lời Chúa mỗi ngày, tr 124)
+ Bài Tin mừng : Mc 16,15-20.
Trước khi về trời, Đức Giêsu còn hiện ra với Mười một Tông đồ để dạy dỗ các ông những điều sau cùng. Thánh Luca thuật lại những nét chính yếu về các huấn lệnh và chỉ thị của Đức Giêsu cho các ông. Theo đó, Đức Giêsu nhắc nhở cho các ông hai điều :
a) Ngài sai các ông loan báo Tin mừng :”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
b) Tin cậy giao phó cho các ông sứ mạng này, Đức Giêsu bảo đảm với các ông rằng Ngài sẽ mãi mãi trợ giúp họ, tăng cường lời giảng dạy của họ bằng những đặc sủng : làm phép lạ như trừ qủi, nói tiếng lạ, cầm rắn trong tay, chũa bệnh…
Các Tông đồ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan báo Tin mừng, và những lời hứa đã thành sự thật :”Có Chúa cùng hành động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”(Mc 16,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Sứ mạng loan báo Tin mừng
I. CHÚA GIÊSU VỀ TRỜI
1. Sự kiện :
Sau khi sống lại, Đức Giêsu còn ở lại trần gian 40 ngày, hiện ra với các môn đệ, dạy dỗ các ông nhiều điều mà trước đó Ngài chưa có thời giờ dạy hết. Hôm nay thánh sử Marcô cho chúng ta biết “Sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”(Mc 16,19).
Bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay của thánh Marcô thuật lại việc trước khi chấm dứt sứ mạng ở trần gian để về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
2. Ý nghĩa việc lên trời
Việc Đức Giêsu lên trời có hai ý nghĩa hay có hai cách hiểu :
– Khi sống lại Đức Giêsu đã được tôn vinh. Cuộc tôn vinh đó đã được diễn ra chính vào lúc Chúa sống lại, Chúa lên trời ngay, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Và sau đó, Chúa đã hiện ra với các Tông đồ nhiều lần để củng cố niềm tin của họ trong một thời gian mà sách Công vụ tông đồ xác định là 40 ngày.
– Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng cứ của những người tai nghe mắt thấy, như thánh Luca cho biết :”Vài tuần sau lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đã “được đưa lên trời” trước mặt các môn đệ”.
Mầu nhiệnm lên trời kêu gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liện hệ nhưng riêng biệt nhau : Một bên là Đức Kitô được vinh quang ngay lúc Ngài sống lại; một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các Tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:”Đức Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ở lại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở dưới đất nhưng chúng ta đã ở bên Ngài”.
3. Trao phó sứ mạng loan báo Tin mừng
Trước khi “lên trời” không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ, Đức Giêsu trao sứ mạng cho họ. Đức Giêsu, Đấng chỉ mới loan báo Tin mừng trong giới hạn là nước Israel, nay Ngài ủy thác cho các môn đệ nối tiếp sứ mạng loan báo của Ngài là loan báo Tin mừng khắp cùng trái đất. Vì thực hiện theo mệnh lệnh của Đức Giêsu nay đã ở trong vinh quang của Chúa Cha, các môn đệ sẽ có thể làm những gì mà xưa kia chính Đức Giêsu chưa làm được:”Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”(Ga 14,12). Việc hơn ấy là nay họ sẽ ra đi loan báo Tin mừng khắp thế giới.
Vì thế, việc rao giảng của các Tông đồ phải mang lại cùng hiệu quả giống như việc rao giảng của Đức Giêsu. Ngài ban cho các ông nhiều quyền năng làm phép lạ. Nhưng chúng ta không nên hiểu từng chữ về câu nói rằng “các Tông đồ có thể cầm được rắn trong tay và uống thuốc độc mà vẫn không sao”. Theo tâm lý của người Trung đông, lối nói cường điệu được người ta chấp nhận như một cách thức nhấn mạnh đến một điểm – thông qua quyền năng của Đức Giêsu, các môn đệ sẽ chiến thắng được tất cả mọi sự dữ.
II. TA Ở LẠI DƯỚI ĐẤT
1. Chúa muốn ta tiếp tục công cuộc cứu rỗi
Đức Giêsu muốn dùng Hội thánh cũng như chúng ta như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Hội thánh như một nối dài của Đức Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp cho người ta. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hành động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội.
Sứ mệnh của Đức Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng . Nhưng sứ mệnh đó cần được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Đức Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Đức Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Chúng ta chia sẻ công cuộc cứu rỗi ấy
Đức Giêsu không bảo các môn đệ là hãy cứ ngồi chờ đó, mọi thọ tạo sẽ đến với các con ! Không . Ngài bảo:”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ. Loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các môn đệ một tư tưởng là : hãy loan báo tin mừng cho “mọi loài thọ tạo”.
– Thọ tạo nghĩa là được Thiên Chúa dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú… Tóm lại là tất cả.
– Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin mừng cho loài người là có thể. Còn loan báo Tin mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được ? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển,
bảo vệ môi trường v.v.
– Rốt cuộc, loan báo Tin mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 271).
3. Phương cách loan báo Tin mừng
a) Loan báo trực tiếp hay gián tiếp
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
b) Loan báo bằng cách sống đời thường
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn :”Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau :
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354).
Truyện : Đọc Thánh kinh hằng ngày.
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc…
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng, tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng :
– Sao ông không đọc Kinh thánh ? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời :
– À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh !!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì ?
Có một bài viết ngắn về điều này :
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
c) Thành công hay thất bại.
Trong việc loan báo Tin mừng, thành công hay kết quả đều do ân sủng của Chúa như Chúa đã nói :”Không có Thầy các con không làm được gì”. Đúng là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhưng Chúa không từ chối thiện chí của con người, Chúa muốn con người cộng tác làm việc, còn Chúa sẽ ban ơn cho. Cho nên, nhiều khi chúng ta thất bại trong việc loan báo Tin mừng vì cách làm chứng của chúng ta còn nghèo nàn quá, không có sức hấp dẫn người ta; có khi thay vì chúng ta là chứng nhân lại trở thành người phản chứng, có khi chúng ta là Kitô hữu lại trở thành phản Kitô. Tốt nhất phải làm gương sáng, vì trăm nghe không bằng một thấy :
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
III. NHƯNG LÒNG HƯỚNG VỀ TRỜI
Chúa về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi đã thi hành trọn vẹn sứ mạng đã được trao phó. Chúng ta còn ở lại dưới đất để tiếp nối chương trình cứu chuộc của Đức Kitô, và sau khi hoàn tất sứ mạng được trao phó chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài vì :”Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó”(Ga 12,26). Công việc ở trần gian của chúng ta là mắt nhìn trời, chân đạp đất.
1. Mắt nhìn trời
Sách Tông đồ công vụ kể rằng sau khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ đưa mắt trông theo và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc nhở cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy ? Chắc chắn là vì cảnh thiên đàng hấp dẫn lắm !
Chắc hẳn như vậy ! Trời hay thiên đàng là quê hương của ta, nơi ta đang trông ngóng như lời thánh Phalô đã nói với tín hữu Philipphê :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Quê hương chúng ta ở trên trời, ở đó chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh Hạnh phúc Thiên đàng nói lại cho chúng ta điều họ thử nghiệm như sau :
– Các Tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông dậy (Cv 1,9-10).
– Ba Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi mãi trên ngọn núi đó (Mt 17,1tt).
– Thánh Phaolô khi được ngất trí đã thốt lên :”Người ấy đã được nhấc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
– Ở Lộ đức, năm 1858 Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette, và ở Fatima, năm 1917, Đức Mẹ lại hiện ra với ba em Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Các nhân chứng chỉ biết khen rằng Đức Mẹ đẹp lắm và luôn ao ước tới ngày được lên trời.
Đó là vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Các nhân chứng chỉ thấy một chút hào quang mà đã say sưa ngây ngất , chỉ muốn sớm chết đi để được vào thiên đàng. Nếu thực sự được hưởng thiên đàng trọn vẹn thì hạnh phúc ngây ngất đến chừng nào.
2. Chân đạp đất
Khi Đức Giêsu về trời, Ngài hứa sẽ đem chúng ta về với Ngài ở quê hương vĩnh cửu để hưởng phúc vô biên, nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn với hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ trần thế. Chúng ta còn phải xây dựng trần thế theo tinh thần Chúa Kitô.
Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tiến tới thiên đàng, thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này.
Để chuẩn bị về quê trời chúng ta hãy làm hai việc :
a) Loan báo Tin mừng cho muôn dân
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy :”Các con đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”(Mt 10,8). Trong ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại sứ mạng loan báo Tin mừng của chúng ta. Chúa muốn Giáo hội và từng người chúng ta tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Chúng ta phải là cánh tay nối dài của Chúa, làm sao cho Tin mừng của Chúa phải được loan truyền cho đến tận cùng trái đất.
“Hỡi những người Galilê, sao cứ đứng đó mãi nhìn trời”? Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông thi hành nghĩa vụ rao giảng Tin mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Ngài về trời:”Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho nhân loại”.
b) Chu toàn nghĩa vụ hằng ngày
Đời là một cuộc hành trình về đời sau, mà cuộc hành trình nào cũng gặp nhiều khó khăn, gian khổ, đòi hy sinh cố gắng không ngừng. Mỗi khi ta phải chiến đấu, phải vất vả hy sinh, hãy nghĩ tới thân phận con người, nghĩ tới cuộc đời chóng qua, nghĩ tới lời Chúa phán :”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa , Lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”(Mt 7,21).
Muốn thi hành ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta càng phải nỗ lực vượt qua sự ươn lười, yếu đuối của ta vì như Chúa nói:”Nước Trời đòi sự cố gắng, ai cố gắng thì mới chiếm được”(Mt 11,12).
Truyện : Chiếc kim may.
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý :
– Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên môi.