• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật XV Thường Niên – Năm C

Ngày Đăng: 13/07/2025
Trong Mùa Thường Niên

“Ai là anh em của tôi?”

Bài Ðọc I: Ðnl 30, 10-14

“Lời ở sát bên các ngươi, để các ngươi thực thi”.

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Nếu các ngươi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ các giới răn và huấn thị của Người đã được ghi chép trong sách Luật này, hãy trở về cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi hết lòng và hết linh hồn các ngươi. Thánh chỉ ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó khăn cũng không quá sức các ngươi. Nó không phải ở đâu trên trời, để các ngươi có thể nói: ‘Ai trong chúng tôi có thể lên trời mang luật xuống giảng cho chúng tôi nghe để chúng tôi thực hành được?’ Nó cũng không phải ở bên kia biển, để các ngươi viện lẽ nói rằng: ‘Ai trong chúng tôi có thể vượt biển, và mang nó về cho chúng tôi, để chúng tôi được nghe và thực hành điều đã truyền dạy?’ Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi”.

Ðáp Ca: Tv 68, 14 và 17. 30-31. 33-34. 36ab và 37

Ðáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (c. 33).

Xướng: Lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi, xin nhìn đến tấm thân con. 

Xướng: Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.

Xướng: Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. 

Xướng:  Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. 

Bài Ðọc II: Cl 1, 15-20

“Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Ðức Giêsu Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn tại trong Người. Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng, Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người. và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia.

Tin Mừng: Lc 10, 25-37

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”. Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?” Chúa Giêsu nói tiếp:

“Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: ‘Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông’. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”.

SUY NIỆM

A/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên    

NGƯỜI THÂN CẬN

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

Khi nói đến Thiên Chúa hoặc Thượng Đế, người ta liên tưởng tới vị Thần Linh thống trị và cách biệt hoàn toàn thế giới loài người. Kinh Thánh nói với chúng ta: nếu Thiên Chúa cao cả và chí thánh, thì Ngài lại rất gần gũi và yêu thương con người. Giáo huấn của Ngài bao gồm những điều cụ thể, giúp con người dễ dàng đón nhận và thực thi. Tác giả sách Đệ nhị Luật (Bài đọc I) khẳng định: “Luật của Chúa rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân hậu. Ngài cảm thương nỗi khốn khổ cơ hàn của con người. Do tội lỗi, nhân loại ở bên bờ vực thẳm của sự chết. Thiên Chúa đã ra tay cứu vớt con người và giúp họ phục hồi.

Sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa được diễn tả trong câu chuyện Người Samari nhân hậu. Người Samari là hình ảnh của Đức Giêsu. Người bị đánh bầm dập nửa sống nửa chết là hình ảnh của nhân loại đáng thương do tội lỗi. Người Samari đã săn sóc người bị nạn đưa anh vào quán trọ, dặn dò chủ quán chu đáo. Tất cả những cử chỉ đó đều diễn tả sứ mạng của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Người mang trên thân mình mọi tội lỗi nhân loại để nhân loại được tự do. Thánh Phaolô đã diễn tả với chúng ta trong Bài đọc II: “Đức Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo…. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”.

Câu chuyện người Samari nhân hậu hàm chứa những bài học sâu sắc đối với chúng ta.

Nhân vật mở đầu câu chuyện là một người tiến sĩ luật. Ông đại diện cho giới trí thức và thượng lưu. Cuộc đối đáp giữa ông và Chúa Giêsu chứng tỏ ông chỉ hỏi để thử Chúa Giêsu. Chính tác giả cũng xác định điều này, khi ông viết: “Có người thông luật kia muốn thử Đức Giêsu, mới đứng lên hỏi Người rằng…”.  Với nghệ thuật trình bày rất hấp dẫn, câu chuyện cho chúng ta thấy sự hoán đổi của những vấn đáp rất tài tình, để rồi người hỏi lại là người trả lời:

“Thưa Thày, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đây là câu hỏi của vị tiến sĩ Luật. Sau đó, chính ông ta là người đưa ra những gợi ý để trả lời cho câu hỏi của mình: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Trong phần này, người tiến sĩ Luật đã trích dẫn sách Đệ nhị Luật (6,5) và sách Lêvi (19,18). Đây là giáo huấn cốt lõi của Lề Luật. Sau này Chúa Giêsu cũng nhắc lại để trả lời một vị kinh sư, khi ông này hỏi: “Thưa Thày, trong mọi điều, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28). Vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi, rồi chính ông ta lại trả lời.

“Nhưng ai là người thân cận của tôi?” – vị tiến sĩ Luật đã đặt câu hỏi. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi, mà Người kể một câu chuyện về người Samari nhân hậu. Cuối câu chuyện này, Người hỏi lại vị tiến sĩ: “Vậy, theo ông nghĩ, trong ba người đó (tư tế, Lêvi và người Samari) ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp? Và, vị tiến sĩ đã có câu trả lời: “Chính là kẻ đã thực lòng thương xót đối với người ấy”. Trong câu trả lời này, những danh xưng, chức vụ và dòng dõi xem ra đã trở thành vô nghĩa, mà điều quan trọng là sự cảm thương, lòng nhân hậu. Chỉ có lòng nhân hậu mới đáng kể. Lòng nhân hậu vượt lên tất cả mọi danh xưng và chức vụ. Hai người đi qua, thày tư tế và Lêvi, chỉ quan tâm đến lý thuyết, mà họ quên thực hành. Họ dửng dưng trước nỗi đau của người bị nạn. Câu hỏi được vị tiến sĩ đặt ra là: “Ai là người thân cận của tôi?” đã được đảo ngược thành: “Tôi là người thân cận của ai? Giá trị giáo huấn là ở chỗ đó. Đối với người Samari, ông chỉ thấy trước mắt ông là một con người bị nạn. Ông không bận tâm xem người đó thuộc dòng tộc nào. Ông cũng không tìm cách khoe khoang việc mình làm. Hành động của ông âm thầm khiêm tốn và đậm tình người.

“Ông hãy đi và làm như vậy” – Vị tiến sĩ vừa khoe khoang sự hiểu biết và lòng đạo đức của mình ở trên kia, giờ đây được Chúa giáo huấn: ông mới chỉ thông thạo về lý thuyết thôi. Ông cần phải thực hành những gì ông hiểu biết. Ông hãy cố gắng để trở nên người thân cận với người khác, như thế ông mới thực sự đạt tới sự hoàn thiện.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Tác giả Luca bỏ lửng câu chuyện ở đây để độc giả tiếp tục suy tư và cảm nhận mình có thể là nhân vật vị tiến sĩ Luật trong câu chuyện. “Hãy làm như vậy”, tức là có tâm tình bao dung quảng đại như người Samari. Chúng ta biết, giữa người Do Thái và người Samari có mối thù truyền kiếp. Người Do Thái thường coi người Samari là người ngoại đạo. Khi tranh luận với Chúa Giêsu, những người Do Thái nói một cách khinh miệt: “Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao” (Ga 8,48). Vậy mà dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, người Samari lại có tâm hồn nhân hậu, hơn cả tư tế và Lêvi, vì ông này đã dừng chân cứu giúp người bị nạn.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” – Câu kết rất đơn giản, cũng là câu trả lời cho câu hỏi ở đầu trình thuật: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (câu 25). Đó cũng là thông điệp mà Phụng vụ muốn gửi đến mỗi người chúng ta.

B/ Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HÃY LÀM NHƯ NGƯỜI SAMARITANÔ

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

(Lc 10, 25 – 37)

Hôm nay, chúng ta tự hỏi: “Ai là anh em của tôi?” (Lc 10, 29).

Chuyện kể rằng, một số thầy người Do thái thấy một thầy Do thái kia hay vắng mặt vào giờ cầu nguyện thứ Bẩy hằng tuần. Các thầy kia nghi ngờ người anh em có gì bí mật với Thiên Chúa, nên bàn bạc với nhau cử một thầy theo dõi người anh em… Thế là, ông thầy được cử tò mò tìm kiếm, nhưng thật xúc động vì thấy người anh em mình vào chiều thứ Bẩy đến một khu phố nghèo trong thành dọn nhà cho một bà đang bị bại liệt, và phục vụ giúp bà, chuẩn bị bữa cơm cho bà. Khi điệp viên trở về, những thầy Do thái ở nhà đã hỏi: “Ông ấy ở đâu? ở trên trời, trên các tầng mây hay giữa các vì sao?”. Thầy được sai đi trả lời: “Không, người anh em của chúng ta đã được đưa lên nơi rất cao”.

Yêu bằng hành động

Yêu người thân cận thể hiện bằng hành động cụ thể là cao cả nhất; vì đây là lúc mà tình yêu được thể hiện. Chỉ có mình Chúa Kitô kêu lên, “thấy người nghèo, đừng bỏ đi qua” để thức tỉnh lòng bác ái nơi các môn đệ. Công đồng Vatican II trong một tài liệu đã chép: Làm “người Samaritanô” có nghĩa là thay đổi kế hoạch của mình ( “đến gần anh ta”), dành thời gian để (“chăm sóc anh ta”) … Điều này cũng đúng với nhân vật chủ quán, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người Samaritanô đã có thể làm mà không có chủ quán? Thật vậy, người chủ quán, người vô danh ấy, đã thi hành nhiệm vụ cách cao cả. Tất cả chúng ta cũng có thể hành xử như ông ta, hoàn thành nhiệm vụ của riêng mình với tinh thần phục vụ. Tất cả chúng ta đều có cơ hội, nhiều hay ít trực tiếp hay gián tiếp, để giúp đỡ những người cần giúp. Trung thành thi hành sứ vụ là yêu mến mọi người.

Hãy vứt bỏ sau lưng cái chưa cần thiết để đón nhận người đang cần đến chúng ta, (người Samaritanô nhân hậu) và ông chủ quán đã làm việc của mình với tình yêu, cả hai đều thể hiện tình yêu bằng việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã hỏi nhà thông luật: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rời vào tay bọn cướp?” Và Chúa bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy ” (Lc 10,36-37).

Chúa Giêsu chính là người Samaritanô

Chúa Giêsu Kitô tự nhân mình là người Samaritanô đi ngang qua, khi những người Pharisiêu xúc phạm Chúa và nói: “Ông là một người Samaritanô và là người bị quỷ ám” (Ga 8, 48 ) … Vậy người hành hương Samaritanô là chính Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu thực sự là một lữ hành đã gặp con người bị thương do tội lỗi, do ma quỷ, thế gian tra tấn, đang nằm sõng soài trên mặt đất . Chúa đã không bỏ qua, bởi vì mục đích cuộc hành hương của Chúa nhằm để “viếng thăm chúng ta” (Lc 1, 68.78). Người đã từ trời lữ hành xuống thế và cư ngụ giữa chúng ta. Người không chỉ “xuất hiện trên đất, nhưng còn sống và trò chuyện với con người” (Br 3,38) …

Người đã đổ rượu, rượu của Lời Chúa trên các vết thương của chúng ta, và như mức độ nghiêm trọng của vết thương không thể chịu được, Người đã pha trộn rượu với dầu là sự êm dịu của Người và “tình yêu Người dành cho nhân loại” (Tit 3 4) … Sau đó, đưa con người đến quán trọ. Quán trọ ở đây là Giáo hội, Giáo hội đã trở thành nơi ở và nơi ẩn náu của toàn dân … Chính Chúa Kitô ở trong Giáo hội, Người trao ban hồng ân… Quán trọ ở đây còn là nhà chầu có chủ quán là Chúa Giêsu đón mời. Các Thánh Tông đồ và các Mục tử, các Tiến sĩ và những người kế vị tượng trưng cho chủ quán trọ… Các ngài chăm sóc bệnh nhân là chúng ta bằng Lời Chúa, Cựu Ước và Tân Ước, bằng Lề luật Thánh và các tiên tri.

Hãy đi và làm như vậy

“Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37, đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa. Hôm nay, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta “Hãy đi và làm như vậy”.

Có người hỏi: Hãy đi và làm như vậy là thế nào? Là làm như người Samaritanô nhân hậu đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samaritanô kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, gặp người đau khổ phải cứu giúp. Cần vượt qua quan niệm hẹp hòi, đi đến tình huynh đệ phổ quát.

Thánh Gioan Phaolô II giáo hoàng nói: “Người Samaritanô nhân hậu là bất kỳ ai nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, là người “cảm động” trước bất hạnh của người lân cận mình. Chúng ta cần phải nuôi dưỡng sự nhạy cảm của trái tim, vì nó làm chứng cho lòng trắc ẩn của ta đối với những người đau khổ”.

Lạy Chúa, mỗi lần chúng con thấy người anh em mắc nạn, xin giúp chúng con biết hành động thương xót anh em như Chúa đã thương xót chúng con. Amen.

C/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN LÀNH

CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN – NĂM C

(Lc 10, 25-37)

1. Để trả lời câu Chúa Giêsu hỏi: “trong lề luật đã chép như thế nào?”, người luật sĩ trích dẫn đoạn đầu kinh Shéma hay lời tuyên xưng đức tin mà người Do thái mỗi ngày phải đọc hai lần: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức, và hết trí khôn ngươi” (Đnl 6,5). Và ông thêm: “và yêu thương cận nhân như chính mình” (Lv 19,18), là câu không có trong kinh Shéma cổ truyền. Cách chú giải này chắc chắn không có trái với lề luật, vì Cựu ước đã minh nhiên dạy phải yêu thương tha nhân, dù họ không phải là người Do thái (Lv 19,34; Đnl 10,9). Tuy nhiên, các thày Rabbi không theo lối chú giải đó, vì họ chỉ thương yêu anh em đồng chủng thôi. Thực ra, trong Cựu ước không có liên kết hai giới luật này, như người luật sĩ đã làm, và đây là một trong những nét đặc sắc của Chúa Giêsu, người đầu tiên đã liên kết hai giới đó, bằng cách đơn giản hóa khoản luật của Cựu ước. Vậy phải chăng nhà luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu là một trong những người Do thái đạo đức đã trung thành sống tinh thần lề luật, thay vì sống theo lối ích kỷ hạn hẹp của các thày rabbi? Điều này không chắc vì nhà luật sĩ tra vấn Chúa Giêsu để “thử” Ngài (c.25) và tranh luận với Ngài. Có lẽ nên coi nhà luật sĩ là người đã nhiều lần nghe Chúa Giêsu dạy về tính cách bác ái huynh đệ, nên bây giờ khi trả lời Chúa Giêsu ông đã tạm thời nói theo quan điểm của Ngài. Và khi thấy câu trả lời của mình chấp nhận, ông đã muốn chất vấn và làm Chúa Giêsu lúng túng khi xin Ngài định nghĩa tha nhân là ai. Quả thực, câu hỏi này đã gây nhiều khó khăn và tranh luận trong giới rabbi.

2. Nhiều giáo phụ và các tác giả hiện đại đã hiểu dụ ngôn người Samaritano nhân lành theo hai cách khác nhau. Các giáo phụ xem đây là một dụ ngôn biểu trưng, nghĩa là một mạc khải các bí nhiệm của Nước Trời. Theo lối chú giải này, người Samaritano là hình ảnh Đức Kitô, người bị kẻ cướp bóc lột là biểu trưng cho giáo hội. Đối lại, tất cả các nhà chú giải hiện đại (trừ Hoskyns, Van den Eynde và có lẽ cả Daniélou nữa) đã hiểu dụ ngôn này theo nghĩa tự nguyện, như là một ví dụ cụ thể để giúp hiểu một chân lý tổng quát. Chúng ta đứng trước hai lối chú giải khác nhau, một có tính cách thần bí, một có tính cách luân lý.

Vì thời gian và khuôn khổ hạn hẹp, chúng tôi không thể dứt khoát phê bình hai lối chú giải này, vì lối nào cũng có nhiều đặc điểm độc đáo riêng. Tuy nhiên chúng tôi theo lối chú giải hiện đại vì hai lý do. Trước hết, theo giáo huấn giáo hội thường dạy, kể từ thông điệp Divine Afflante Spiritu của Đức giáo hoàng Piô XII, các nhà chú giải trước hết phải cố công khám phá và xác định… Nghĩa tự nguyện (le sens littéral) (Ds 2293) của Thánh kinh. Trong trường hợp chúng ta đang gặp, dựa theo mạch văn của dụ ngôn, chắc chắn nghĩa tự nguyện là nghĩa luân lý mà khoa chú giải hiện đại đã khám phá. Thứ hai, dụ ngôn không có nghĩa thần bí, ít nhất là trong nghĩa nguyên thủy của nó. Thực vậy, dụ ngôn không đưa ra một chi tiết nào trích từ Cựu ước nói lên ý nghĩa biểu trưng cả. Bằng chứng là các giáo phụ đã chú giải rất khác nhau khía cạnh ẩn dụ của dụ ngôn. Tuy nhiên chớ kết luận là khi giảng dạy ta không thỉnh thoảng ẩn dụ hóa dụ ngôn trong một giới hạn nào đó. Nhưng giảng thuyết là một chuyện, chú giải là một chuyện khác: nếu khoa chú giải là cơ sở của giảng thuyết, thì giảng thuyết cũng có thể vượt lên trên khoa chú giải tùy trường hợp đặc biệt, cụ thể của phụng vụ. Mutatis mutandis, những nhận xét vừa nói có thể áp dụng cách tổng quát cho nhiều trang phúc âm, mà không cần xác định từng trường hợp một đâu là mối liên hệ giữa khoa chú giải hiện đại và lối chú giải của các giáo phụ.

3. Dụ ngôn có nhiều điểm đơn giản. Trên đường vắng vẻ, một người vô danh, không ai biết chức vụ địa vị, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo của y, bị rơi vào tay bọn cướp bóc lột và gây trọng thương. Thày tư tế và trợ tế Lêvi lần lượt đi qua nhưng đã không thèm ngó ngàng gì đến y. Tình cờ người Samaritanô đến, trông thấy y và động lòng thương săn sóc giúp đỡ y. Chúa Giêsu kết luận: “Theo ông nghĩ ai trong ba người đó là cận nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp? ” (c.36)

Thoạt nhìn, câu hỏi của Chúa Giêsu không đáp ứng câu người luật sĩ hỏi: “Ai là cận nhân của tôi?”. Qua đó ông muốn hiểu: “Ai là đối tượng của đức ái mà luật dạy: người đồng hương, đồng đạo, người lương dân, người ngoại kiều cư ngụ tại Israel? Tôi phải yêu ai mới gọi là giữ lề luật?” Dù Chúa Giêsu trả lời cách nào, người luật sĩ cũng có thể hoặc nhân danh lề luật hoặc một truyền thống đã có, bắt bẻ Ngài, vì người ta không thể lưu tâm hay giúp đỡ một người ô uế, thờ ngẫu tượng. Phần Chúa Giêsu không những không định nghĩa cận nhân là gì, nhưng dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng đưa ra một vấn nạn mới: phải cư xử thế nào mới gọi là cư xử trong tình anh em? Ai trong ba người bộ hành đã xự thế trong tình anh em, ai đã thành người cận nhân (gegonenai) của kẻ vô danh.

Nhiều nhà phê bình cho rằng cuộc đối thoại với nhà luật sĩ (cc.25-28) và dụ ngôn (cc.30-37) ngay từ đầu là 2 tài liệu độc lập. Có lẽ Lc đã dùng cuộc đối thoại với nhà luật sĩ như là lời dẫn nhập vào dụ ngôn, nối kết bằng câu 29 “ai là cận nhân của tôi” Nhiều nhà phê bình khác trả lời rằng dụ ngôn đã trả lời câu hỏi cách trung thực: cận nhân là mọi người đang trong cảnh túng thiếu. Nói như thế là đúng nhưng không phải là nghĩa câu hỏi cuối cùng của Chúa Giêsu: ai trong ba người bộ hành đã tỏ ra mình là cận nhân của người xấu số?

Hình như điều mâu thuẫn ngoại tại này sẽ biến mất, nếu một đàng ta chú ý đến thực tại sống động hơn là mặt chữ, và đàng khác nếu ta bỏ qua lối lý luận khô khan của người Hy lạp và phương tây để hiểu não trạng tình tiết phương đông đầy bí ngữ, dụ ngôn và ngạn ngữ. Do đó, đừng quá chú ý đến ý nghĩa của một chữ hay một câu mà phải nhận ra điều hình ảnh gợi lên, và đoán ngay ra tư tưởng thầm kín của người đối thoại.

Trước tiên cần ưu ý điểm này: “dụ ngôn” người Samatritanô không phải là một so sánh, một lý chứng nhằm giúp xác tín, nhưng là một ví dụ, nghĩa là một trường hợp cụ thể, cá biệt nhằm làm sáng tỏ học thuyết là ví dụ đưa ra làm kiểu mẫu cho đời sống tôn giáo hay luân lý ta phải bắt chước noi theo.

Đúng ra, nhà luật sĩ, với thiện ý hay ác ý – đã đến hỏi điều các ông phải làm để sống đời đời. Mất mặt vì chính ông phải trả lời câu hỏi mình nêu lên, ông muốn tranh luận về lý thuyết, nhưng Chúa Giêsu đã lèo lái câu chuyện theo ý Ngài. Ngài đã chú ý đến câu hỏi của nhà luật sĩ, vì Ngài luôn quan tâm đến việc cứu rỗi các linh hồn. Giống như trường hợp tha tội cho người đàn bà tội lỗi, Ngài đã tìm cách đánh thức tâm hồn ông Simon trước giá trị của lòng biết ơn (7,36-50); ở đây cũng vậy, Ngài ban cho nhà luật sĩ ánh sáng sự sống, chứ không phải một câu định nghĩa chuyên môn. Vì điều cốt yếu không phải là biết ai là cận nhân, nhưng là bác ái hành động giúp kẻ khác, dù họ là ai mặc lòng (2 câu 37 và 36 đều nói đến động từ làm, hành động (pôieô). Vì thế, dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Chúa Giêsu thực sự đã trả lời câu hỏi đầu tiên của nhà luật sĩ: “Tôi phải làm gì để sống đời đời?”

Cũng không chắc câu hỏi tis estis mou plêsion (c.29) có nghĩa: “Ai là cận nhân của tôi?”. Vì plêsion là một trạng từ và không có mạo từ đi trước như ở câu 27. Sự khác biệt về hình thức tạo nên sự khác biệt về ý nghĩa. Nếu hiểu là “Ai là cận nhân của tôi” hoặc “đối với tôi cụ thể mà nói, ai là một cận nhân?”, phải thú nhận rằng dụ ngôn đã trả lời vấn nạn luân lý trên bình diện thực tiễn: người Samaritanô là người duy nhất đã cảm thấy và tỏ ra mình là cận nhân của kẻ xấu số; do đó, chính tình yêu làm ta thành cận nhân; nhờ tình yêu ta thành anh em của mọi người, dù họ gần hay xa ta, về phương diện máu mủ, quốc tịch, tôn giáo… Chúa Giêsu “không trả lời”, nhưng đã “lèo lái” cuộc đối thoại, theo ý hướng ban đầu: để sự sống đời đời, phải… yêu tha nhân như chính mình (c.27). Trong lúc nhà luật sĩ muốn hiểu rõ từ ngữ “tha nhân”, Chúa Giêsu xác định từ ngữ “yêu”, như Ngài đã làm trong dụ ngôn ở đồng bằng (chương 6). Là tiên tri của giao ước mới, Ngài xác định ý nghĩa âgâpê (tình yêu) mà Thiên Chúa đòi buộc. Chứng cớ cho thấy đó là thực tại đề cập đến, và tha nhân định nghĩa bằng các phạm trù pháp lý, chứng cớ ấy là: nhà luật sĩ đã chấp nhận giáo huấn của Chúa Giêsu (c.37), khi mà ông có thể bắt bẻ Ngài đã không trả lời đúng câu hỏi.

Do đó, phải công nhân không những trình thuật này đồng nhất mà còn là một trong các giáo huấn cô đọng nhất của phúc âm về tình bác ái Chúa Giêsu mời ta suy nghĩ: “Theo ông, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (c.36). Thực ra trong ba người, chỉ có người Samaritanô là có liên hệ. Thày tư tế và thày trợ tế Lêvi, đại diện hàng giáo phẩm Do thái, nhắc đến để nói lên sự đối nghịch giữa óc vị luật của Cựu ước với tinh thần của Tân ước. Họ có lý do tránh né người bị thương tích và biện minh việc họ từ chối giúp đỡ người vô danh đang gặp hiểm nguy. Là nạn nhân của bọn cướp, người này có thể bị Thiên Chúa phạt, nên phải vui lòng cam chịu (Giop 6,14.21; 7,8; 16,11); đến gần người đó có thể mắc tội ô uế theo lề luật và do đó không thể cử hành các nghi lễ tế tự (x.Ds 19,11.14). Dĩ nhiên, thái độ của hai nhà tư tế là một thái độ hờ hững, nhưng thật ngạc nhiên không thấy Chúa Giêsu chê trách phàn nàn họ gì cả. Chính Chúa Giêsu đã chấp hành tốt luật bác ái trước khi giảng về bác ái.

4. Thật có ý nghĩa, khi Chúa Giêsu chọn người Samaritanô trong dụ ngôn nói về tình bác ái huynh đệ. Dù là người lạc giáo, người ngoại quốc không biết gì về lề luật như nhà luật sĩ, không có phẩm cách tế tự như thày tư tế và trợ tế Lêvi, ông đã tỏ ra là người thật nhân bản và đạo đức. Đã chấp hành tốt hai giới luật lớn của Cựu ước và của Thiên Chúa sau này nói về tình bác ái. Trong ba khách bộ hành ông là khuôn mặt người Do thái đích thật. Hơn nữa, trong bài giảng ở đồng bằng, Chúa Giêsu đã đòi các môn đệ Ngài đừng hạn hẹp tình yêu của họ trong phạm vi bà con quen biết. Nhưng nhờ yêu thương tất cả mọi người, mà người Kitô hữu khác với “người tội lỗi” (Lc 6,32-34) và trở thành (hay tỏ ra) là Con Đấng tối cao. Và này, người Samaritanô khi giúp một kẻ vô danh trở thành kiểu mẫu của tình bác ái đích thực. Phải chăng ngoài tôn giáo chính thức, cũng có thể có người con đích thực của Thiên Chúa, mà Chúa Cứu thế đến tập họp lại (Gio 11,52)? Chính với một người nữ xứ Samaria, mà Chúa Giêsu đã mạc khải việc tế tự trong tinh thần và chân lý, gạt bỏ mọi phân biệt chủng tộc và nghi lễ (Gio 4,23-24). Phải chăng tình bác ái đã tạo nên việc thờ phượng đẹp lòng Chúa Cha? Quả thực, văn mạch dụ ngôn dạy rằng chính bác ái mới chiếm hữu sự sống vĩnh cửu (cc.25.28.37), và đó cũng là học thuyết mà thánh Phaolô và thánh Gioan hết sức nhấn mạnh.

KẾT LUẬN

Để thay thế một vấn nạn có thể gây ra nhiều tranh luận về các loại cận nhân khác nhau, Chúa Giêsu đã chất vấn về các thực tại sống động. Nhà luật sĩ không thể chạy trốn bài học trước mắt: ai lâm cảnh thiếu thốn đều có quyền đòi yêu thương, thể hiện bằng hành động. Họ là cận nhân của ta, và ngược lại ta là cận nhân của họ. Cũng như người Samaritanô nhân hậu đã cảm thông yêu thương người không thân thích, không có người đồng bào, đồng đạo; không gì có thể ngăn cản tình yêu của ông đối với tha nhân.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Cách cư xử của người Samaritanô nói lên một đức ái hoàn hảo bộc phát và nhanh nhẹn. Dù đã biết luật bác ái huynh đệ, người ký lục cũng hỏi Chúa Giêsu về trương độ của tình yêu. Ông chỉ yêu và vì trong giới hạn luật buộc. Còn người Samaritanô yêu, dù không biết khoản luật đó, cũng như không biết đối tượng tình yêu của mình.

2. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đòi người ta đừng chỉ yêu vì đã yêu. Người Samaritanô, không là người đầu tiên yêu thương mà tình yêu của ông còn là một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu hiến dâng trọn vẹn… Cho nên đừng phân biệt trong nhân loại ai là người ta có thể yêu mến, nhưng hãy bắt đầu yêu, với tình yêu phổ quát.

3. Đối nghịch với sự từ chối dấn thân của người đi trước lòng bác ái của người Samaritanô có tính cách cá vị, tích cực và thiết thực. Ông đã bỏ dở cuộc hành trình, để băng bó người bị thương và trang trải mọi phí tổn. Không những ông đã quảng đại đem tiền bạc ra giúp đỡ, mà chính ông đã dấn thân phục vụ người anh em.

4. Dụ ngôn còn nói lên điều này: đức ái bao hàm lòng cảm thông và thương xót. Người Samaritanô có thể đoán kẻ bị thương trên đường Giêrusalem về Giêricô là một người Do thái, nghĩa là một kẻ thù không đội trời chung. Thế mà này không ông đã giúp đỡ, mà còn cảm động khi thấy anh ta bị ngược đãi như vậy! Đó là điểm Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn cả: liền sau khi thấy người bị thương, ông đã động lòng thương. Đây là tình cảm tinh tuyền, chân thật khiến ông đã “đối xử đẹp”, khác với thày tư tế và trợ tế Lêvi.

5. Yêu mến Thiên Chúa trong nhà thờ chưa đủ (thày tư tế và thày Lêvi trong dụ ngôn vừa rồi rời Giêrusalem, là nơi họ đã chu toàn bổn phận tế tự trong đền thờ, nhưng hình như họ chưa sống đạo), nếu không yêu mến Ngài trên đường đi và trong người anh em (thày tư tế, thày Lêvi, người công giáo ngoan đạo ngày hôm nay, đã làm ngơ tránh xa, trong khi người Samaritanô – người tin lành hay Phật tử – dừng lại chăm sóc người khốn khổ). Tế tự, mà không yêu tha nhân, đối với Thiên Chúa là một điều ghê tởm đáng ghét, như các tiên tri đã dạy.

6. Đức Kitô đã là người Samaritanô tốt lành đối với chúng ta. Ngài đã rời bỏ Giêrusalem thiên quốc để đến băng bó và chữa lành các vết thương mà tội lỗi và sự chết gây ra cho nhân loại. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là giáo hội Ngài. Bây giờ đến lượt chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ người Samaritanô nhân lành bên cạnh tất cả ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ băng bó các vết thương của họ (nghèo nàn, chết chóc, đau yếu, cô đơn…) chính với chúng ta mà Chúa Giêsu ban huấn lệnh cấp bách này: “hãy đi và làm như thế”. Nếu luôn nghe tiếng Ngài, chúng ta “sẽ sự sống đời đời” (c. 25)

D/ Những bài suy niệm khác

ĐỨC KITÔ LÀ TỘT ĐỈNH VÀ SỰ KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI?

TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC

AI LÀ ĐỒNG LOẠI CỦA TÔI ?

NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Lễ Chúa Hiển Dung

Lễ Chúa Hiển Dung

Thứ Ba, Tuần XVIII Thường Niên

Thứ Ba, Tuần XVIII Thường Niên

Thứ Hai, Tuần XVIII Thường Niên

Thứ Hai, Tuần XVIII Thường Niên

Chúa Nhật XVIII Thường Niên – Năm C

Thứ Bảy, Tuần XVII Thường Niên

Thứ Bảy, Tuần XVII Thường Niên

Thứ Năm, Tuần XVII Thường Niên

Thứ Năm, Tuần XVII Thường Niên

Bài Viết Mới

Bài Giảng Đức Cha Đaminh | Lễ Tân Niên  – Mồng Một Tết Ất Tỵ

Bài Giảng của Đức Cha Đaminh Trong Thánh Lễ Khai Mạc Tuần Tĩnh Tâm Linh Mục Giáo Phận

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên.

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên.

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Tin Tức Giáo Phận

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Lý Viên Giáo Xứ Ka Ming (Di Linh) Tuyên Hứa Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể

Giáo Lý Viên Giáo Xứ Ka Ming (Di Linh) Tuyên Hứa Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể

Giáo Xứ Xà Lùng (Di Linh) – Những Tông Đồ Giáo Dân Tiếp Bước Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Xà Lùng (Di Linh) – Những Tông Đồ Giáo Dân Tiếp Bước Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 9, Trần Quốc Toản, P. Xuân Hương – Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
                [Địa chỉ cũ: 09 Nguyễn Thái Học, Tp. Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam]
– Điện thoại: 02633.822.415
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
    • Văn Kiện Giáo Phận
    • Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi