1803. “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện, nó khiến nhân vị không những thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh thần của mình; Họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể của mình.
“Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nicê, các mối phúc 1).
I. CÁC NHÂN ĐỨC NHÂN BẢN
1804. Các nhân đức nhân bản là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí, nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê của chúng ta và hướng dẫn nếp sống của chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách tự nguyện.
Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm mống của những hành vi tốt về mặt luân lý; Chúng chuẩn bị mọi năng lực của con người cho việc hiệp thông với tình yêu của Thiên Chúa.
Nét đặc biệt của các nhân đức trụ
1805. Có bốn nhân đức giữ nhiệm “cột trụ”. Vì vậy, chúng được gọi là các nhân đức “trụ”, mọi nhân đức khác đều quy tụ quanh bốn nhân đức này. Đó là khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. “Con người mến chuộng đức công bằng ư? thì chính đức Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức: Quả vậy, đức Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết độ, cẩn trọng, công bằng và dũng mãnh” (Kn 8,7). Các nhân đức này còn được ca ngợi trong nhiều đoạn văn của Kinh Thánh bằng những danh xưng khác .
1806. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó “Người khôn ngoan thì đắn đo từng bước” (Cn 14,15). ”Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được” (1 Pr 4,7). Sau ông Aristote, Thánh Tôma viết : “khôn ngoan là quy tắc đúng đắn để hành động” (x. S.th 2-2, 47,2 ). Không được lẫn lộn đức khôn ngoan với tính nhút nhát hay sợ sệt, tráo trở hay lừa đảo. Đức Khôn ngoan được gọi là người hướng dẫn các nhân đức, thật vậy, nó hướng dẫn các nhân đức khác bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng. Đức khôn ngoan trực tiếp hướng dẫn sự phán đoán của lương tâm. Người khôn ngoan quyết định và sắp đặt cách hành động của mình theo sự phán đoán này. Nhờ nhân đức này, chúng ta áp dụng các nguyên tắc luân lý vào những trường hợp cụ thể, mà không bị sai lầm và chúng ta vượt qua được những hồ nghi về điều tốt phải làm và điều xấu phải tránh.
1807. Công bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỷ và vững chắc quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng thường được nhắc tới trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với người lân cận. “ngươi không được thiên vị với người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời” (Cl 4,1).
1808. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý. Đức can đảm, giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí cả sự chết, đương đầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta đi đến chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải. “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
1809. Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện giữ được sự thận trọng lành mạnh, “không chiều theo sức mạnh của mình mà bước theo dục vọng của trái tim mình” (Hc 5,2). Đức tiết độ thường được ca tụng trong Cựu Ước: “Con đừng buông theo các tham vọng của con, nhưng hãy kiềm chế các dục vọng” (Hc 18,30). Trong Tân Ước nhân đức nàyđược gọi là sự “chừng mực” hay sự ”điều độ”, chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” ( Tt 2,12).
“Sống tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trái tim, hết linh hồn và hết tâm trí mình,…. tình yêu này phải được gìn giữ trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần của đức tiết độ, không bị suy yếu bởi một rối loạn nào, đó là phần của đức can đảm, không phục vụ một ai khác, đó là phần của đức công bằng, tỉnh thức khi phân định các sự việc kẻo dần dần sự lừa đảo hoặc phản bội lẻn vào, đó là phần của đức khôn ngoan” (Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae 1,25; 46: CSEL 90, 51)
Các nhân đức và ân sủng
1810. Các nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng thần linh. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình và đem lai sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh phúc khi thực thi các nhân đức đó.
1811. Con người bị tổn thương vì tội lỗi, không dễ mà giữ được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo lời kêu gọi của Người để yêu mến điều tốt và giữ mình khỏi điều xấu.
II. CÁC NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
1812. Các nhân đức nhân bản được bén rễ trong các nhân đức đối thần. Là những nhân đức thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào bản tính thần linh (2 Pr 1,4). Quả vậy, các nhân đức đối thần trực tiếp quy chiếu về Thiên Chúa, chúng giúp các Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa nhất thể tam vị là nguồn gốc, động lực và đối tượng.
1813.Các nhân đức đối thần là nền móng, làm sinh động và là nét đặc thù của các hành vi luân lý của Kitô hữu. Chúng định hình và mạng lại sự sống cho tất cả các nhân đức luân lý, các nhân đức này được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các tín hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức đối thần là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người. Có ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy, đức mến (x. 1Cr 13,13).
Đức tin
1814. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, và tất cả những gì Ngài đã nói và đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta, vì Thiên Chúa chính là chân lý. “nhờ đức tin, con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa” (x. DV 5 ). Vì vậy ai tin, người đó cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm1,17). Đức tin sống động “hành động nhờ đức mến” ( Gl 5,6 )
1815. Hồng ân đức tin tồn tại trong người không phạm tội nghịch với đức tin (x. Công đồng TrenTô: DS 1545). Nhưng “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Nếu thiếu đức cậy và đức mến, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô và không làm cho họ trở nên chi thể sống động trong Thân Thể Người.
1816. Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin: “Mọi tín hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người ta và bước theo Người trên đường thập giá, giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải” (x.LG 42; DH 14). Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 10,32-33 ).
Đức cậy
1817. Đức cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó, nhớ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mạnh của chúng ta. “chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). “Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3, 6-7)
1818. Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người, thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến vinh phúc của đức mến.
1819. Đức cậy Kitô đảm nhận và kiện lòng trông cậy của dân Chúa chọn, nguồn gốc và mẫu gương lòng cậy trông đó là lòng trông cật của tổ phụ Abraham, người đã mãn nguyện với những lời hứa của Thiên Chúa nơi Ixaác, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hy tế (x. St 17,4-8; 22,1-18 ). “Ông ông vẫn trông cậy và vững tin; do đó, ông trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18).
1820. Từ lúc khởi đầu việc giảng dậy của Đức Giêsu, đức cậy Kitô giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của chúng ta hướng lên trời, như lên miền đất hứa mới, vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Đức Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô và cuộc khổ nạn của Ngài, Thiên Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng: “không phải thất vọng” ( Rm 5,5). “chúng ta có niềm hy vọng như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, thả sâu vào nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến để được cứu độ: “mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho ta niềm vui, ngay trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân…” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong lời kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ao ước.
1821. Vì vậy, chúng ta có thể trông cậy được hưởng vinh quang thiên quốc đã được Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài và thi hành ý muốn của Ngài (x.Mt 7,21). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người phải cậy trông nhờ ân sủng của Thiên Chúa sẽ “kiên trì đến cùng” (x. Mt 10,22; Công đồng Trentô; DS 1514 ) và đạt được niềm vui thiên quốc như phần thưởng vĩnh cửu Thiên Chúa ban, vì các việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng Đức Kitô. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4), Hội Thánh mong được kết hợp với Đức Kitô, Phu Quân của mình, trong vinh quang thiên quốc.
Trông cậy đi, hồn tôi hỡi, hãy cậy trông! Ngươi không biết ngày nào và giờ nào. Hãy chuyên cần tỉnh thức, vì mọi sự qua đi nhanh chóng, mặc dù vì quá nóng lòng nên ngươi hoài nghi điều chắc chắn và cảm thấy khoảng thời gian vắn vỏi lại quá dài. Hãy nhớ rằng, ngươi càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu của ngươi đối với Thiên Chúa, và một ngày kia, ngươi sẽ càng vui sướng hơn với Đấng lòng ngươi yêu mến, trong niềm hạnh phúc và say mê bất tận (T.Têrêsa Hài Đồng Giê-su, tự thuật 15,3).
Đức mến
1822. Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình.
1823. Đức Giêsu lấy đức mến làm điều răn mới (Ga 13,34). Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người “đến cùng” (Ga 13, 1), Người biểu lộ tình yêu của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình yêu của Đức Giêsu, mà họ cũng đã đón nhận. Vì vậy, Đức Giê-su nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Và Người còn nói “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
1824. Là hoa trái của Thánh Thần và là sự viên mãn của lề luật. Đức mến giữ các điều răn của Thiên Chúa và của Đức Kitô: “Hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, thì anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9-10); (x. Mt 22,40; Rm 13,8-10).
1825. Đức Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,44 ), rằng chúng ta phải trở thành người lận cận cho những kẻ ở xa nhất (x. Lc10, 27-37), chúng ta phải yêu thương trẻ em (x. Mc 9,37) và người nghèo như chính Người ( Mt 25,40-45).
Thánh tông đồ Phaolô đã mô tả cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
1826. Thánh tông đồ còn nói: “không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì…”. và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ thậm chí nhân đức…., nếu tôi “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-4). Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức, đức mến đứng đầu các nhân đức đối thần. “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13).
1827. Việc thực thi các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi Đức mến. Nhân đức này là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể của các nhân đức; liên kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Kitô giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên, của tình yêu Thiên Chúa.
1828. Việc thực hành đời sống luân lý được sinh động, nhờ đức mến mới đem lại cho người Kitô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ sống trong sợ hãi tôi đòi, hay người làm công ăn lương, nhưng là người con đáp lại tình yêu của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Nếu chúng ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người nô lệ. Nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng, chúng ta sẽ giống như người làm thuê. Nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì yêu của Đấng ban hành lề luật, chúng ta mới thực sự sống trong tâm tình của con cái (Thánh Baxiliô Cả khảo luận thêm về luật sống 3).
1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Đức mến thì nhân hậu, nó khơi dậy sự tương thân tương ái không tìm tư lợi và quảng đại, đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông.
Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích chúng ta chạy vì đó chúng ta chạy đến đó, và khi tới đó, chúng ta sẽ an nghỉ (Thánh Augustino, thư Gioan 10,4).
III. HỒNG ÂN VÀ HOA TRÁI CỦA THÁNH THẦN
1830. Đời sống luân lý của các Kitô hữu được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đó là những xu hướng thường xuyên giúp con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
1831. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa. Các ơn này đạt tới sự sung mãn của chúng nơi Đức Kitô, Con Vua Đavít (x. Is 11,1-2); các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh nhận chúng; và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này, giúp các tín hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa.
“Xin Thần Khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143,10).
“Phàm ai được Thánh Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa … vậy đã là con thì cũng là thừa kế; mà Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô (Rm 8, 14.17).
1832. Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quãng đại, nhân từ, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).
TÓM LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)
1. Nhân đức là gì?
T. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện. “Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và những nhân đức đối thần.
2. Các nhân đức nhân bản là gì?
T. Các nhân đức nhân bản là xu hướng thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt, các nhân đức nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.
3. Các nhân đức nhân bản chính là gì?
T. Đó là các nhân đức được gọi là các nhân đức “căn bản.” Tất cả các nhân đức khác đều quy tụ quanh các nhân đức này và các nhân đức này là nền tảng cho đời sống đạo đức. Đó là: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.
4. Khôn ngoan là gì?
T. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các nhân đức khác, bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng.
5. Công bằng là gì?
T. Công bằng là nhân đức luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho người khác những gì thuộc về họ. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”.
6. Can đảm là gì?
T. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm để có thể đưa đến khả năng dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ lẽ phải.
7. Tiết độ là gì?
T. Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui, giúp ý chí làm chủ các bản năng và giúp ta biết sử dụng chừng mực các của cải trần thế.
8. Các nhân đức đối thần là gì?
T. Các nhân đức đối thần là những nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được phú bẩm trong con người cùng với ân sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng sống trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các nhân đức nhân bản. Các nhân đức này là bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người.
9. Các nhân đức đối thần là những nhân đức nào?
T. Các nhân đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy và đức ái.
10. Đức tin là gì?
T. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Nhờ đức tin, con người phó thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin tìm biết và tìm thi hành ý muốn của Ngài, vì “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6).
11. Đức cậy là gì?
T. Đức cậy là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta khao khát và mong chờ Thiên Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của chúng ta, khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ơn Chúa Thánh Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến hết cuộc đời trần thế.
12. Đức ái là gì?
T. Đức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm điều răn mới, là sự viên mãn của lề luật. Đức ái là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14), là nền tảng của các nhân đức khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và phối hợp. Không có đức ái, “tôi sẽ chẳng là gì cả và … chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
13. Các ơn Chúa Thánh Thần là gì?
T. Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường xuyên giúp cho con người dễ dàng tuân theo những soi sáng của Thiên Chúa. Có bảy ơn Chúa Thánh Thần: khôn ngoan, thông minh, biết lo liệu, can đảm, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa.
14. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?
T. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều thiện hảo được hình thành trong chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).MỤC 7
CÁC NHÂN ĐỨC
1803. “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện, nó khiến nhân vị không những thực hiện những hành vi tốt, mà còn cống hiến những điều tốt nhất của bản thân mình. Người nhân đức hướng về điều thiện với tất cả sức mạnh giác quan và tinh thần của mình; Họ theo đuổi và lựa chọn điều thiện bằng những hành động cụ thể của mình.
“Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nicê, các mối phúc 1).
I. CÁC NHÂN ĐỨC NHÂN BẢN
1804. Các nhân đức nhân bản là những thái độ vững chắc, những xu hướng kiên trì, những trọn hảo thường xuyên của lý trí và ý chí, nhằm điều khiển các hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê của chúng ta và hướng dẫn nếp sống của chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Các nhân đức này đem lại cho con người sự thoải mái, sự tự chủ và niềm vui, để sống một cuộc đời tốt lành về mặt luân lý. Người nhân đức là người thực thi điều thiện cách tự nguyện.
Các nhân đức luân lý được thủ đắc theo cách thức nhân loại. Chúng là hoa trái và mầm mống của những hành vi tốt về mặt luân lý; Chúng chuẩn bị mọi năng lực của con người cho việc hiệp thông với tình yêu của Thiên Chúa.
Nét đặc biệt của các nhân đức trụ
1805. Có bốn nhân đức giữ nhiệm “cột trụ”. Vì vậy, chúng được gọi là các nhân đức “trụ”, mọi nhân đức khác đều quy tụ quanh bốn nhân đức này. Đó là khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. “Con người mến chuộng đức công bằng ư? thì chính đức Khôn Ngoan sản sinh các nhân đức: Quả vậy, đức Khôn Ngoan dạy cho biết sống tiết độ, cẩn trọng, công bằng và dũng mãnh” (Kn 8,7). Các nhân đức này còn được ca ngợi trong nhiều đoạn văn của Kinh Thánh bằng những danh xưng khác .
1806. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định được điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó “Người khôn ngoan thì đắn đo từng bước” (Cn 14,15). ”Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được” (1 Pr 4,7). Sau ông Aristote, Thánh Tôma viết : “khôn ngoan là quy tắc đúng đắn để hành động” (x. S.th 2-2, 47,2 ). Không được lẫn lộn đức khôn ngoan với tính nhút nhát hay sợ sệt, tráo trở hay lừa đảo. Đức Khôn ngoan được gọi là người hướng dẫn các nhân đức, thật vậy, nó hướng dẫn các nhân đức khác bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng. Đức khôn ngoan trực tiếp hướng dẫn sự phán đoán của lương tâm. Người khôn ngoan quyết định và sắp đặt cách hành động của mình theo sự phán đoán này. Nhờ nhân đức này, chúng ta áp dụng các nguyên tắc luân lý vào những trường hợp cụ thể, mà không bị sai lầm và chúng ta vượt qua được những hồ nghi về điều tốt phải làm và điều xấu phải tránh.
1807. Công bằng là nhân đức luân lý cốt tại một ý chí liên lỷ và vững chắc quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với công ích. Người công bằng thường được nhắc tới trong Thánh Kinh, có nét đặc biệt là sự ngay thẳng thường xuyên trong các ý nghĩ của mình và ngay thẳng trong cách hành động đối với người lân cận. “ngươi không được thiên vị với người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời” (Cl 4,1).
1808. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời. Nó củng cố sự quyết tâm chống lại các cám dỗ và vượt qua các chướng ngại trong đời sống luân lý. Đức can đảm, giúp chúng ta có khả năng chiến thắng sự sợ hãi, thậm chí cả sự chết, đương đầu với sự thử thách và các cuộc bách hại. Nó giúp chúng ta đi đến chỗ từ bỏ và hy sinh mạng sống mình để bảo vệ lẽ phải. “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó, nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
1809. Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý chí làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn của sự lương thiện. Người tiết độ quy hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện giữ được sự thận trọng lành mạnh, “không chiều theo sức mạnh của mình mà bước theo dục vọng của trái tim mình” (Hc 5,2). Đức tiết độ thường được ca tụng trong Cựu Ước: “Con đừng buông theo các tham vọng của con, nhưng hãy kiềm chế các dục vọng” (Hc 18,30). Trong Tân Ước nhân đức nàyđược gọi là sự “chừng mực” hay sự ”điều độ”, chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” ( Tt 2,12).
“Sống tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trái tim, hết linh hồn và hết tâm trí mình,…. tình yêu này phải được gìn giữ trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần của đức tiết độ, không bị suy yếu bởi một rối loạn nào, đó là phần của đức can đảm, không phục vụ một ai khác, đó là phần của đức công bằng, tỉnh thức khi phân định các sự việc kẻo dần dần sự lừa đảo hoặc phản bội lẻn vào, đó là phần của đức khôn ngoan” (Thánh Augustinô, De moribus Ecclesiae catholicae 1,25; 46: CSEL 90, 51)
Các nhân đức và ân sủng
1810. Các nhân đức nhân bản có được là nhờ sự giáo dục, nhờ các hành vi chủ ý và nhờ luôn cố gắng kiên trì, các nhân đức này được thanh luyện và nâng cao nhờ ân sủng thần linh. Nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, các nhân đức này tôi luyện tính tình và đem lai sự thoải mái trong việc thực thi điều thiện. Người nhân đức hạnh phúc khi thực thi các nhân đức đó.
1811. Con người bị tổn thương vì tội lỗi, không dễ mà giữ được sự quân bình luân lý. Ơn cứu độ của Đức Kitô đem lại cho chúng ta ân sủng cần thiết để kiên trì trong việc tìm kiếm các nhân đức. Mỗi người phải luôn cầu xin ơn soi sáng và ơn sức mạnh, luôn chạy đến với các bí tích, luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, nghe theo lời kêu gọi của Người để yêu mến điều tốt và giữ mình khỏi điều xấu.
II. CÁC NHÂN ĐỨC ĐỐI THẦN
1812. Các nhân đức nhân bản được bén rễ trong các nhân đức đối thần. Là những nhân đức thích ứng các tài năng của con người để dự phần vào bản tính thần linh (2 Pr 1,4). Quả vậy, các nhân đức đối thần trực tiếp quy chiếu về Thiên Chúa, chúng giúp các Kitô hữu sống trong tương quan với Ba Ngôi Chí Thánh. Các nhân đức đối thần có Thiên Chúa nhất thể tam vị là nguồn gốc, động lực và đối tượng.
1813.Các nhân đức đối thần là nền móng, làm sinh động và là nét đặc thù của các hành vi luân lý của Kitô hữu. Chúng định hình và mạng lại sự sống cho tất cả các nhân đức luân lý, các nhân đức này được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn các tín hữu, giúp họ có khả năng hành động như con cái Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. Các nhân đức đối thần là bảo chứng cho sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người. Có ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy, đức mến (x. 1Cr 13,13).
Đức tin
1814. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, và tất cả những gì Ngài đã nói và đã mặc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta, vì Thiên Chúa chính là chân lý. “nhờ đức tin, con người tự nguyện phó thác toàn thân cho Thiên Chúa” (x. DV 5 ). Vì vậy ai tin, người đó cố gắng nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa. “Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm1,17). Đức tin sống động “hành động nhờ đức mến” ( Gl 5,6 )
1815. Hồng ân đức tin tồn tại trong người không phạm tội nghịch với đức tin (x. Công đồng TrenTô: DS 1545). Nhưng “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Nếu thiếu đức cậy và đức mến, đức tin sẽ không kết hợp đầy đủ người tín hữu với Đức Kitô và không làm cho họ trở nên chi thể sống động trong Thân Thể Người.
1816. Người môn đệ Đức Kitô không những phải gìn giữ đức tin và sống bởi đức tin, mà còn tuyên xưng, can đảm làm chứng và truyền bá đức tin: “Mọi tín hữu phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người ta và bước theo Người trên đường thập giá, giữa những cuộc bách hại mà Hội Thánh luôn luôn gặp phải” (x.LG 42; DH 14). Việc phục vụ và làm chứng cho đức tin là những điều phải có để được cứu độ. “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 10,32-33 ).
Đức cậy
1817. Đức cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó, nhớ đó chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc của chúng ta, khi đặt lòng tin tưởng của chúng ta vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ không dựa vào sức mạnh của chúng ta. “chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23). “Thiên Chúa tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3, 6-7)
1818. Đức cậy đáp ứng khát vọng hưởng vinh phúc mà Thiên Chúa đã đặt trong trái tim mỗi người, đảm nhận những sự mong đợi đang gợi hứng cho các hoạt động của con người, thanh luyện những mong đợi đó để quy hướng về Nước Trời, bảo vệ khỏi sự nản chí của tâm hồn, nâng đỡ khi bị bỏ rơi, mở rộng trái tim bằng sự mong đợi vinh phúc vĩnh cửu sự thúc đẩy của đức cậy gìn giữ chúng ta khỏi tính ích kỷ và đưa chúng ta đến vinh phúc của đức mến.
1819. Đức cậy Kitô đảm nhận và kiện lòng trông cậy của dân Chúa chọn, nguồn gốc và mẫu gương lòng cậy trông đó là lòng trông cật của tổ phụ Abraham, người đã mãn nguyện với những lời hứa của Thiên Chúa nơi Ixaác, và đã được thanh luyện nhờ sự thử thách là cuộc hy tế (x. St 17,4-8; 22,1-18 ). “Ông ông vẫn trông cậy và vững tin; do đó, ông trở thành tổ phụ nhiều dân tộc” (Rm 4,18).
1820. Từ lúc khởi đầu việc giảng dậy của Đức Giêsu, đức cậy Kitô giáo được khai triển trong lời loan báo các mối phúc. Các mối phúc nâng niềm hy vọng của chúng ta hướng lên trời, như lên miền đất hứa mới, vạch đường tới đó qua những thử thách đang chờ đợi các môn đệ của Đức Giêsu. Nhưng nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô và cuộc khổ nạn của Ngài, Thiên Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm hy vọng: “không phải thất vọng” ( Rm 5,5). “chúng ta có niềm hy vọng như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, thả sâu vào nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho ta” (Dt 6,19-20). Đức cậy cũng là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến để được cứu độ: “mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1Tx 5,8). Đức cậy mang lại cho ta niềm vui, ngay trong thử thách: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân…” (Rm 12,12). Đức cậy được diễn tả và nuôi dưỡng trong kinh nguyện, nhất là trong lời kinh của Chúa, là bản toát yếu của tất cả những gì mà đức cậy khiến chúng ta ao ước.
1821. Vì vậy, chúng ta có thể trông cậy được hưởng vinh quang thiên quốc đã được Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài và thi hành ý muốn của Ngài (x.Mt 7,21). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người phải cậy trông nhờ ân sủng của Thiên Chúa sẽ “kiên trì đến cùng” (x. Mt 10,22; Công đồng Trentô; DS 1514 ) và đạt được niềm vui thiên quốc như phần thưởng vĩnh cửu Thiên Chúa ban, vì các việc tốt lành đã được thực hiện nhờ ân sủng Đức Kitô. Với đức cậy, Hội Thánh cầu nguyện cho “mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4), Hội Thánh mong được kết hợp với Đức Kitô, Phu Quân của mình, trong vinh quang thiên quốc.
Trông cậy đi, hồn tôi hỡi, hãy cậy trông! Ngươi không biết ngày nào và giờ nào. Hãy chuyên cần tỉnh thức, vì mọi sự qua đi nhanh chóng, mặc dù vì quá nóng lòng nên ngươi hoài nghi điều chắc chắn và cảm thấy khoảng thời gian vắn vỏi lại quá dài. Hãy nhớ rằng, ngươi càng chiến đấu, càng chứng tỏ tình yêu của ngươi đối với Thiên Chúa, và một ngày kia, ngươi sẽ càng vui sướng hơn với Đấng lòng ngươi yêu mến, trong niềm hạnh phúc và say mê bất tận (T.Têrêsa Hài Đồng Giê-su, tự thuật 15,3).
Đức mến
1822. Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình.
1823. Đức Giêsu lấy đức mến làm điều răn mới (Ga 13,34). Khi yêu thương những kẻ thuộc về Người “đến cùng” (Ga 13, 1), Người biểu lộ tình yêu của Chúa Cha mà Người đã đón nhận. Khi yêu mến nhau, các môn đệ bắt chước tình yêu của Đức Giêsu, mà họ cũng đã đón nhận. Vì vậy, Đức Giê-su nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy” (Ga 15, 9). Và Người còn nói “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
1824. Là hoa trái của Thánh Thần và là sự viên mãn của lề luật. Đức mến giữ các điều răn của Thiên Chúa và của Đức Kitô: “Hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, thì anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9-10); (x. Mt 22,40; Rm 13,8-10).
1825. Đức Kitô đã chịu chết vì yêu mến chúng ta, khi chúng ta còn là “thù nghịch” (Rm 5,10). Chúa đòi chúng ta rằng, cũng như Người, chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,44 ), rằng chúng ta phải trở thành người lận cận cho những kẻ ở xa nhất (x. Lc10, 27-37), chúng ta phải yêu thương trẻ em (x. Mc 9,37) và người nghèo như chính Người ( Mt 25,40-45).
Thánh tông đồ Phaolô đã mô tả cách tuyệt vời về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
1826. Thánh tông đồ còn nói: “không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì…”. và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ thậm chí nhân đức…., nếu tôi “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-4). Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức, đức mến đứng đầu các nhân đức đối thần. “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,13).
1827. Việc thực thi các nhân đức được nên sinh động và được gợi hứng bởi Đức mến. Nhân đức này là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14); là mô thể của các nhân đức; liên kết và phối hợp các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Kitô giáo. Đức mến củng cố và thanh luyện khả năng yêu thương của con người. Đức mến nâng khả năng này lên mức trọn hảo siêu nhiên, của tình yêu Thiên Chúa.
1828. Việc thực hành đời sống luân lý được sinh động, nhờ đức mến mới đem lại cho người Kitô hữu sự tự do thiêng liêng của con cái Thiên Chúa. Người đó đứng trước Thiên Chúa, không còn như một kẻ nô lệ sống trong sợ hãi tôi đòi, hay người làm công ăn lương, nhưng là người con đáp lại tình yêu của “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Nếu chúng ta xa lánh điều xấu vì sợ hình phạt, chúng ta sẽ sống trong tâm trạng của người nô lệ. Nếu chạy theo sự cám dỗ của phần thưởng, chúng ta sẽ giống như người làm thuê. Nhưng nếu vì chính sự đáng kính và vì yêu của Đấng ban hành lề luật, chúng ta mới thực sự sống trong tâm tình của con cái (Thánh Baxiliô Cả khảo luận thêm về luật sống 3).
1829. Niềm vui, sự bình an và lòng thương xót là hoa trái của đức mến. Đức mến đòi hỏi phải làm điều tốt và sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Đức mến thì nhân hậu, nó khơi dậy sự tương thân tương ái không tìm tư lợi và quảng đại, đức mến là tình bằng hữu và sự hiệp thông.
Yêu thương là sự hoàn tất của mọi công việc của chúng ta. Đó là mục đích chúng ta chạy vì đó chúng ta chạy đến đó, và khi tới đó, chúng ta sẽ an nghỉ (Thánh Augustino, thư Gioan 10,4).
III. HỒNG ÂN VÀ HOA TRÁI CỦA THÁNH THẦN
1830. Đời sống luân lý của các Kitô hữu được nâng đỡ bởi các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đó là những xu hướng thường xuyên giúp con người dễ dàng tuân theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
1831. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần là: ơn khôn ngoan, ơn thông minh, ơn biết lo liệu, ơn dũng cảm, ơn hiểu biết, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa. Các ơn này đạt tới sự sung mãn của chúng nơi Đức Kitô, Con Vua Đavít (x. Is 11,1-2); các ơn này hoàn thành các nhân đức của những người lãnh nhận chúng; và đưa các nhân đức đó tới mức trọn hảo. Các ơn này, giúp các tín hữu dễ dàng vâng phục cách mau mắn những linh hứng của Thiên Chúa.
“Xin Thần Khí tốt lành của Chúa dẫn con đi trên miền đất phẳng phiu” (Tv 143,10).
“Phàm ai được Thánh Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa … vậy đã là con thì cũng là thừa kế; mà Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô (Rm 8, 14.17).
1832. Các hoa trái của Thần Khí là những điều trọn hảo mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn, quãng đại, nhân từ, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).
TÓM LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)
1. Nhân đức là gì?
T. Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì để làm điều thiện. “Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống Thiên Chúa” (Thánh Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và những nhân đức đối thần.
2. Các nhân đức nhân bản là gì?
T. Các nhân đức nhân bản là xu hướng thường xuyên và kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin. Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt, các nhân đức nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.
3. Các nhân đức nhân bản chính là gì?
T. Đó là các nhân đức được gọi là các nhân đức “căn bản.” Tất cả các nhân đức khác đều quy tụ quanh các nhân đức này và các nhân đức này là nền tảng cho đời sống đạo đức. Đó là: khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.
4. Khôn ngoan là gì?
T. Khôn ngoan là nhân đức giúp lý trí sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện thích hợp để đạt tới điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các nhân đức khác, bằng cách chỉ ra quy tắc và mức độ của chúng.
5. Công bằng là gì?
T. Công bằng là nhân đức luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho người khác những gì thuộc về họ. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”.
6. Can đảm là gì?
T. Can đảm là nhân đức luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm để có thể đưa đến khả năng dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ lẽ phải.
7. Tiết độ là gì?
T. Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức lôi cuốn của những thú vui, giúp ý chí làm chủ các bản năng và giúp ta biết sử dụng chừng mực các của cải trần thế.
8. Các nhân đức đối thần là gì?
T. Các nhân đức đối thần là những nhân đức có chính Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được phú bẩm trong con người cùng với ân sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng sống trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và động lực cho hành vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các nhân đức nhân bản. Các nhân đức này là bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong các năng lực của con người.
9. Các nhân đức đối thần là những nhân đức nào?
T. Các nhân đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy và đức ái.
10. Đức tin là gì?
T. Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Nhờ đức tin, con người phó thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin tìm biết và tìm thi hành ý muốn của Ngài, vì “đức tin hoạt động nhờ đức ái” (Gl 5,6).
11. Đức cậy là gì?
T. Đức cậy là nhân đức đối thần nhờ đó chúng ta khao khát và mong chờ Thiên Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của chúng ta, khi tin tưởng vào các lời hứa của Đức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp của ơn Chúa Thánh Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến hết cuộc đời trần thế.
12. Đức ái là gì?
T. Đức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm điều răn mới, là sự viên mãn của lề luật. Đức ái là “mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14), là nền tảng của các nhân đức khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và phối hợp. Không có đức ái, “tôi sẽ chẳng là gì cả và … chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-3).
13. Các ơn Chúa Thánh Thần là gì?
T. Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường xuyên giúp cho con người dễ dàng tuân theo những soi sáng của Thiên Chúa. Có bảy ơn Chúa Thánh Thần: khôn ngoan, thông minh, biết lo liệu, can đảm, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa.
14. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?
T. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều thiện hảo được hình thành trong chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gl 5,22-23).